Hỏa thần: Cửu Hà long xà (BẢN DỊCH)
-
Chapter 24 quyển 4: Đỗ Đại Bưu bắt yêu
Năm đó phố Nam Thiên Tân Vệ náo nhiệt nhất, có thể sánh ngang với Thiên Kiều của Bắc Kinh, lại không chỉ có đánh võ múa võ, buồng tắm, quán thuốc phiện, rạp xiếc, kỹ viện khắp nơi, nghe kể chuyện xem diễn xiếc, ăn uống gái gú bài bạc, muốn chơi gì có cái đó, đi dạo cả đời cũng không đủ. Trước đây thành Thiên Tân chỉ có phố Bắc và phố Tây, ra Nam Môn là một vùng nước bẩn, mọc đầy cỏ lau, nơi nơi là cỏ dại vũng nước, xưa nay không có ai ở đây. Khói bếp, bụi bặm trong thành đổ về hướng này hết, lâu ngày san bằng đất trũng. Dựa vào nơi này có địa thế tốt, lại cách thành gần, lục tục có mấy tiểu buôn bày sạp ở đây, người cũng tụ tập nhiều hơn, từng bước tạo thành phố Nam. Loạn Canh Tý năm 1900, Liên quân tám nước đánh vào thành Thiên Tân cướp bóc đốt nhà, phố Bắc, phố Tây bị hủy bởi chiến hỏa, đông người tụ tập đến phố Nam hơn. Do là nơi không ai quản lí nên rồng rắn lẫn lộn, du côn vô lại ở chỗ này bảo kê đánh bạc bao kỹ nữ, lấn lướt lũng đoạn thị trường, quát tháo làm ác, hãm hại lừa gạt không ai quản, ép người làm gái không ai trông, giết người hại mạng không ai coi, tạo nên một sự phồn vinh dị dạng.
Cao Liên Khởi vừa ra khỏi nhà thì cứ như là sống lại, dáng vẻ bệ vệ, phong thái như xưa, đầu đội mã tụ nguyên[1], chân đạp nội liên thăng[2], người mặc Bát Đại Tường[3], thắt lưng nhét đồng bạc trắng, ngẩng đầu bước đến phố Nam, đi thẳng đến quán mì Đồng Hợp Xuân, vừa bước vào cửa thì nói chắc nịch, không ăn gì khác, chỉ cần một chén mì nước đầu. Cái gì gọi là mì nước đầu? Là nấu ra tô mì đầu tiên từ nồi nước lèo khi quán mới mở cửa, trong này cũng có chuyện phải chú trọng, mì phải được chuẩn bị trước từ đêm hôm trước, có riêng tiểu đồ đệ cứ mỗi mười lăm phút thì nhào nặn một lần, hai ban luân phiên nhau hầu hạ cục mì ấy, đến sáng hôm sau mới cán sợi mì ra, lúc này mới thống khoái triệt để nhào nặn kĩ, nhào mì nhìn như đơn giản, nhưng không làm ba năm năm thì không luyện được công phu này, phải gắng sức theo một phương hướng, còn phải cương nhu hòa hợp, sức lớn sức nhỏ, nhanh chậm cũng không được, nhào cho mì có độ dai, vậy thì sợi mì được nấu sẽ óng ánh, ăn vào rất ngon miệng. Khó được còn có nước lèo đầu nữa, thế nào cũng phải nấu tô mì đầu tiên trong nồi nước, thì hương vị mới tốt nhất, với những sợi mì được nấu tiếp theo, mùi mì nó nhiều hơn mùi nước. Gắp mấy món ăn kèm mới được nấu ra, thêm chút dầu vừng rắc ít hành, còn có mấy cây rau xào xanh biếc nữa, nước trong mì trơn, mùi thơm xộc thẳng vào mũi, trong một ngày chỉ có một chén như vậy, từ chén thứ hai sẽ không còn mùi này nữa. Đồng thời, tô mì nước đầu này không phải ai tới được sớm người đó sẽ ăn được, dân chúng bình thường dù có đi sớm cũng không kịp ăn, chân chạy sẽ nói cho bạn biết mì chưa được nhào đủ, ông hãy chờ thêm một lát hoặc là ăn chút gì khác, dù sao có cả đống lý do cả, chuyên chờ người có tiền tới cửa ăn, thì mới bằng lòng nấu tô mì đầu tiên, sau đấy thì tùy tiện bán, người nào ăn cũng được. Cao Liên Khởi thích nhất món này, ba ngày không ăn được nó thôi là đã thấy nhớ vô cùng. Tiểu nhị chân chạy đều rất biết nịnh hót, nhìn thấy Cao Nhị gia tới, vội vàng mời vào trong, nghển cổ thét to: “Dọn chỗ cho Cao Nhị gia dọn chỗ, quy củ cũ mì mềm nước trong”, thế là trên bếp và ở quầy đồng thời bận việc, nhanh chóng phục vụ sợ chậm trễ, không cho đủ tiền thưởng thì bạn không tiện ăn tô mì này.
Cao Nhị gia ăn một chén mì nước đầu nóng hầm hập, trong bụng no căng, cho tiền bo gấp bội, theo thói quen trước kia, bước tiếp theo y sẽ tới quán thuốc phiện hút hai điếu, mười ngày nay đúng là mòn cả người mà, thật vất vả mới ra ngoài một chuyến, phải hút đã cho thỏa cơn nghiện này. Năm đó phần lớn là kẻ có tiền hút thuốc phiện, trong nhà có nơi đặt tẩu, cao thuốc phiện cũng có nữa, thế nhưng vẫn muốn đi quán thuốc, tại sao vậy chứ? Bởi vì khói khi hút thuốc phiện không chỉ phụ thuộc vào cao thuốc phiện, tẩu hút thuốc cũng cực kỳ quan trọng, cần phải là tẩu cũ thì mới đủ vị. Nơi quán thuốc có nhiều người ra vào, người này đi người kia tới, tẩu hút không ngừng đốt lửa, đã có dấu vết rồi, tẩu ở nhà không so được, hơn nữa khách hút đa phần quen biết nhau, khắp phòng mây khói lượn lờ, có bầu không khí ấy, trong nhà cứ lạnh lùng không thú vị gì cả. Cao Liên Khởi ôm tẩu nằm lên giường, phun mây nhả khói hút sảng khoái, chợt cảm thấy thần thanh khí sảng, tinh thần sáng láng bước ra ngoài, chỉ là không đúng lúc lắm, mới ăn sáng xong không lâu, vẫn chưa tới lúc ăn trưa nữa, với lại hút thuốc phiện xong cổ họng và mắt đều khô, thế là lững thững vào một quán trà, trực tiếp lên nhã gian lầu hai. Tiểu nhị lanh lợi lau bàn phủi cái ghế, đưa khăn mặt nóng tới: “Cao Nhị gia, đã mấy ngày không thấy ông tới rồi, vẫn quy củ cũ?” Cao Liên Khởi gật đầu: “Tùy tiện mang thêm mấy quả tới.” Cái gì gọi là quy củ cũ? Trước kia kẻ có tiền đi quán trà, người nghèo cũng đi quán trà, người giàu như Cao Liên Khởi có khẩu vị cao, ngại lá trà trong quán không ngon, mua lá trà thượng đẳng đặt trong quán trà, tới thì uống trà của mình. Người nghèo đến quán trà là để tìm việc làm, một ly bột lá trà một đồng cũng có thể uống cả ngày. Buôn bán với mấy người như Cao Nhị gia phải khác, có trọn bộ đầy đủ, nước phải là nước mưa của trời, lá trà phải là động Đình trà xuân, pha trà thì cần là lọ sành mấy trăm năm trong chùa cổ, đốt cành thông già nghìn năm trong núi sâu, uống phải ra mùi ấy, làm phải theo bước ấy. Chỉ chốc lát sau trà đã được nấu xong, trái cây, mứt quả mang lên vài đĩa, thích thì ăn một miếng, không thích thì cứ đặt đấy. Đồ tầm thường, thế nhưng đều vô cùng tinh xảo, thứ bán trên đường cái không cách nào so sánh được. Cao Liên Khởi lắc đầu thưởng thức trà, chợt nghe dưới lầu có người tán gẫu, tiệm ăn lớn nào đó mới mời một đầu bếp tới, nấu món gì cũng rất ngon. Cao Nhị gia nghe chán luôn rồi, quán lớn thì có gì, đi ra ngoài một chuyến thì phải ăn cho đúng khẩu vị của mình chứ.
Uống vài chén trà thấy đã đến giờ cơm trưa, Cao Liên Khởi muốn ăn cái gì đây? Y thèm canh dê rồi, ở Thiên Tân Vệ có rất nhiều nhà bán canh dê cả con, nếu bàn về chính tông thì phải nói tới một nhà, cũng không phải một cửa tiệm có mái ngói, chỉ có cái lều, cũng không có bảng hiệu không có tên tiệm, trong lều đốt bếp lửa, bày một cái nồi lớn, nước luộc trong nồi đều được nấu quanh năm, trong đấy là toàn bộ thai dê, cũng có điều cần chú ý, một thai dê nấu mười ngày, đến lúc thì sẽ thêm vào một con mới, nấu được ba ngày thì vớt con trước ra, cứ loanh quanh như vậy, khiến nước trong nồi vừa đậm vị vừa thơm ngon, đảo nước lên, mùi dê theo gió bay ra năm dặm, đây cũng là cách quảng cáo tốt nhất. Buôn bán vốn nhỏ không mướn được tiểu nhị, không mời nổi chưởng quỹ, trước sau cũng chỉ có hai người ông chủ và bà chủ, ban ngày bận rộn bốn chân lên trời vô cùng nhuần nhuyễn, chập tối hai vợ chồng cũng không thể chỉ lo dính lấy nhau, phải canh thêm củi tiếp lửa cho nồi, chỉ dựa vào nồi canh này để gọi người.
Người Thiên Tân xưa gọi canh dê là canh ruột dê, thật ra không phải chỉ có mỗi ruột, gan phổi ngũ tạng cái gì cần có đều có, bỏ hết vào nồi không lo lỗ, trước đấy mua về nấu chín cắt nhỏ, lúc bán bỏ vào vợt nhúng vào trong nước, lại đổ nước vào trong bát, mặt trên trôi tầng bọt màu xanh đen, ruồi lớn ruồi nhỏ bay loạn xung quanh, một hai con rơi xuống là chuyện thường xảy ra, ngại bẩn thì bạn nhắm hai mắt từ từ uống, phải như thế thì mới nếm được mùi ngon. Bình thường canh dê có giá hai đồng một chén, lòng ít canh nhiều, thích ăn loại nào có thể cho riêng, thêm một phần đưa một phân tiền, bên cạnh bệ bếp để các loại gia vị, rau hẹ, đậu phụ nhự, dầu cay, rau thơm, ăn nhạt hay mặn tự đi pha chế, đồ không có gì mới mẻ, nhưng mùi vị đúng là không bình thường, mượn dầu cay mà nói, là dùng dê chiên dầu, đông ở trong chậu trong đỏ có trắng, bỏ vào trong canh có thể thêm vị, kẹp bánh vừng thì càng đỡ thèm.
Uống canh dê có quy củ của uống canh dê, đầu tiên trong lầu không có bàn ghế, bất luận thân phận cao thấp thế nào khi tới đều phải đứng uống, uống như vậy nhanh hơn, bán cũng nhanh, bạn nói bạn là ông chủ lớn cỡ nào, dưới tay có bao nhiêu tiệm buôn, nửa thành Thiên Tân đều là của nhà bạn thì cũng không được, muốn uống một ngụm này không? Muốn thì đứng trong lều mà uống, cùng bưng bát uống như mấy người người nghèo đào phân, đổ rác, khiêng bao lớn kia, bởi vì không tuân thủ thì lấy cạnh nồi uống, khi mua về mùi sẽ khác liền. Thứ hai, ở chỗ này uống không thể bới móc, ví dụ như trong nước có con ruồi, trong bánh vừng có cọng tóc, hoặc là người bên cạnh vừa dơ vừa thúi, có cái gì tính thế nấy, phàm là phát bực một câu, hoặc là né sang bên chút, miệng của già trẻ lớn bé trong Thiên Tân Vệ không tha người đâu, cho bạn một câu “Giả vờ cao sang cái mẹ gì”, bạn cũng phải nghe, vốn ai cũng uống như nhau, ai cũng không sang hơn ai. Thứ ba, chỉ được uống một chén canh dê, có nhiều tiền cũng chỉ có thể mua một chén, muốn thêm một chén nữa người bên cạnh chờ không vui, miệng cười khẩy: “Lại còn nói ông là đại gia có tiền, ruột dê mà cũng muốn kêu hai chén, sao không dọn hết về nhà đi?” và còn nhiều lời khác nữa. Nếu không uống đủ thật thì làm sao bây giờ? Uống xong chén đầu đi ra ngoài một vòng rồi trở về, đợi người trước uống hết rồi gọi chén thứ hai, người bán cũng không nói gì, mặc dù nhận ra cũng bán cho như thường. Một cái nữa là, tình cờ gặp người quen không thể chào hỏi, cái thứ này đều là người hạ đẳng uống, có tiền có thế mà thèm tới uống một lần, tất cả đều cúi đầu quay sang tường uống, hận không thể nhấn đầu mình vào bát, chỉ sợ tình cờ thấy khuôn mặt quen thuộc. Giả sử đại chưởng quỹ nhà nào đó uống dê canh ở chỗ này, tiểu nhị rảo bước tiến tới, có gặp cũng phải giả bộ không nhìn thấy, sau này chưởng quỹ chắc chắn sẽ không nói gì, còn phải khen đứa này hiểu chuyện, nếu như đi tới chào hỏi, nói một tiếng: “Chưởng quỹ, ông cũng ở đây à.” Người bên cạnh chắc chắn sẽ chê cười.
Cao Liên Khởi ở nhà lâu như vậy, đã sớm thèm món này lắm rồi, bèn lấy hết mấy món mình thích, tiên hoa, đầu thận, nội tạng dê, món nào ngon thì lấy món đó, uống một bát đầy vào bụng, trán cũng chảy mồ hôi, lại tới hồ Thiên Thanh nổi tiếng ngâm mình, nhúng cả người trong hồ nóng nhất, tìm một sư phụ Dương Châu kỳ cọ, xoa đầu đấm lưng, cạo cả đầu cả mặt cho nữa, khi kỳ có gọi “Quay đầu lại” thì không thể nói từ “Xong”, sợ người ta không thích nghe. Tắm rửa sạch sẽ đi ra khỏi phòng, sớm có tiểu nhị trông hộp mang quần áo đã được rửa sạch xông hương tới, phục vụ Cao Liên Khởi mặc vào, cúi đầu khom lưng đưa tới cửa chính. Cao Liên Khởi bước ra hồ Thiên Thanh, lững thững đi dạo trong phố Nam. Nơi phố Nam này, kẻ có tiền dạo miệng, người không tiền dạo chân, rất nhiều chuyện thú vị đẹp mắt, ngày nào đi dạo cũng không chán. Cao Nhị gia uống canh dê và tắm xong, phố Nam mới chính thức náo nhiệt lên, bởi vì nơi này nghèo giàu đều có thể tới, có tiền đều giống như Cao Liên Khởi, hút thuốc phiện lại ngâm bồn tắm, ăn uống no đủ buổi chiều đi ra đi dạo. Người bán sức khiêng bao dỡ thuyền làm công từ sớm, kiếm xong tiền khi đến cũng đã tới chiều. Cao Nhị gia đi vô chủ đích, dạo đông dạo tây, nhìn ảo thuật, xem xiếc, bên này có một người giơ cờ, bên kia có một người giương cung, y đều nhìn tới liên tục khen hay, cái gì gọi là du chùy quán đỉnh, tại sao là thương bạc đâm hầu, đao thật thương thật kỹ năng thật, ở nhà thì sao mà xem những cái này được. Ngoại trừ đánh võ múa võ ra, còn có cái gì mà bình thư, tướng thanh, song hoàng, tạp kỹ, ảo thuật, phim đèn kéo, hát đại cổ thư[4], đầy đủ mọi ca hát tạp kỹ. Trừ cái đó ra còn có rất nhiều sạp di động, cũng chính là người bán hàng rong lưu động, những người này hơn nửa là buôn bán mấy thứ gạt người, cho nên không có địa phương cố định, sợ người mắc lừa trở về tìm họ, bình thường hay làm mấy thứ như thu mua quần áo cũ, thu biên lai cầm đồ, trồng răng bổ mắt, xóa nốt ruồi sửa bàn chân, đủ loại thủ đoạn gạt người, thường hay thay đổi. Mượn xóa nốt ruồi để nói, trên mặt người này tổng cộng có mấy chục nốt ruồi lớn nhỏ, không muốn đi bệnh viện, đến nơi không ai quản để chữa. Khi xóa nốt ruồi thì sẽ lấy sơn trắng chấm lên nốt ruồi của người đó, không đau một chút nào, người kia sẽ vui vẻ móc tiền ra trả, một đồng tiền một cái nốt ruồi, vậy là đủ tiền cơm một ngày rồi, người làm nhận tiền nói cho vị kia biết, đây là thuốc dẫn, bảo người ấy đi ra ngoài một vòng, nửa canh giờ sau trở về đổi thuốc, người đó nghe lời thật, trưng bộ mặt toàn chấm trắng ra ngoài đi dọa, qua nửa canh giờ mới trở về, người làm lấy ra một cái hũ khác tới, bên trong toàn chứa axit, lau một điểm trắng rồi chấm chút axit lên, đúng là giống như thịt nướng, đau đến người kia gào khóc kêu to. Bạn muốn nói không chịu nổi không xóa nữa, tiền cũng không trả, thật vất vả nhịn đau chấm hết, về nhà nuôi chừng mấy ngày, nốt ruồi không còn thật, nhưng mặt toàn là rỗ, chuyện như thế liên tục không ngừng.
Lại nói Cao Nhị gia Cao Liên Khởi, đi dạo tới Đồng Khánh Viên, đó là một nơi để uống trà nghe diễn, trên đài có khúc nghệ[5], dưới đài có người ôm tráp bán thuốc lá đồ ăn vặt, thuốc lá có Cáp Đức Môn, Lão Đao, Hồng Song Hỷ[6], đồ ăn vặt có tiểu long bao, thịt tẩm bột rán, quả trám củ cải, hạt dưa đậu phộng, điểm tâm mứt quả, cái nên có đều có cả. Cao Liên Khởi ngồi xuống, nhận khăn nóng xoa mặt, gọi lên vài đĩa điểm tâm, một ấm trà Long Tĩnh, hỏi tiểu nhị ngày hôm nay có tiết mục gì. Tiểu nhị nói Nhị gia, ông đến đúng lúc thật, hôm nay đúng là mới mẻ đấy, có cô đào mới được mời từ Giang Nam tới, hát bình đàn[7], là hàng có thể hát nước trà lạnh chính quy. Có người hỏi ‘hát nước trà lạnh’ là từ lóng gì thế? Từ này chỉ mấy người nghe hát dưới đài vừa nghe vừa uống trà, một tay nâng ly trà một tay cầm nắp ly, lại nghe mê say, cho tới cuối cùng khi hát xong rồi, trà cũng đã lạnh, trước kia thường dùng những lời này để miêu tả đào kép hát rất tốt. Cao Liên Khởi chưa từng nghe qua bình đàn, nên y cũng thấy mới mẻ thật, chỉ thấy có hai người bước lên, người ngồi bên trái người ngôi bên phải, bên trái là một tiên sinh già đánh đàn tam, bên phải là một cô đào, ôm ấp tỳ bà tự đàn tự hát, người mặc bộ sườn xám đỏ sậm, hoa nở từng đóa, lộ ra điềm lành, tà hai bên xẻ lên thật cao, đeo vớ dài trong suốt ôm lấy cặp đùi trắng bóng, trên mặt vẽ mày kẻ mai, khuôn mặt hồng hào, tóc búi thấp, trên cắm chiếc trâm bạch ngọc, lời hát du dương uyển chuyển, thực sự là cảnh đẹp ý vui, vừa dễ nghe vừa dễ nhìn. Mấy ông chủ có tiền dưới đài nhanh chóng tặng giỏ hoa, sắp chất đầy cả hai bên đài, trong này đa số là có dụng ý khác. Thuở xưa khi nghe diễn chú trọng việc ‘tâng đào’, tặng giỏ hoa, ném đồng bạc, ném đồ trang sức, một người bao vé của nửa sân, một là phô bày sự giàu sang trước mặt mọi người, hai là vì mang đào về ngủ. Trước kia có câu ‘một cái con hát nửa kỹ nữ’, trên đài hát diễn dưới đài bồi ngủ, các ông chủ có tiền lấy bao nuôi con hát làm vinh, ở xã hội cũ chẳng có gì lạ, những người hay nghe kịch hơn phân nửa cũng là vì việc này. Nếu như thảo luận vào sâu hơn, lề lối trong này cũng sâu lắm.
Cao Liên Khởi là thương gia, chơi gái cũng cần có giá cả minh xác, không đi theo kiểu tâng đào này, nghe hát chỉ vì tiêu khiển, điệu hát của bình đàn rất hay, vận dụng làn điệu đọc nhấn rõ từng chữ không giống kiểu khác, vừa giòn vừa mềm, tiếc rằng nghe không hiểu âm Nam, vò đầu bứt tai nóng nảy. Ngồi bên cạnh y là một tên mặt trắng, hơn ba mươi tuổi không đến bốn mươi, vóc người cao lớn, mặt lại tựa như bồn bạc, trên mặt rất sạch sẽ, trắng y như vừa lấy ra từ trong hang, không chỉ mỗi trắng, gương mặt này vừa dài vừa lớn, gần giống như mặt lừa. Thầy tướng số thời xưa sẽ nói “Tướng mạo như thế cắn người không lộ răng, không thể kết giao với người như vậy”. Tên mặt trắng này vào Nam ra Bắc buôn bán, kiến thức rất rộng, thông hiểu đàn từ[8], vừa nghe hát vừa giải thích cho Cao Nhị gia hay, trên đài đang hát “Trân Châu Tháp”, kể về một tài tử gặp nạn được giai nhân tương trợ, đến cuối cùng trúng trạng nguyên áo gấm về nhà cưới giai nhân, tới thế nào đi ra sao, câu từ này hát cái gì, đều giảng cho nghe hết. Hai người càng tán gẫu càng thấy hợp cạ, rất có ý hận vì đã gặp nhau trễ. Cao Liên Khởi vốn định nghe hát xong thì chạy đi kỹ viện, nhưng y làm buôn bán trọng giao bằng hữu, lại hiếm khi gặp được người chơi thân như mặt trắng, nghe diễn xong còn chưa đã nghiền, nói với mặt trắng trưa nay nghe người ta nói tiệm ăn lớn nào mới mời một đầu bếp nổi danh, có mấy món sở trường như thế, muốn mời mặt trắng đi nếm thử. Mặt trắng cũng không khách khí, hai người tới tiệm ăn, ngồi lên bàn rượu lại tán gẫu khắp trời Nam bể Bắc, đương lúc uống hăng kết thành anh em kết nghĩa. Tửu phùng tri kỷ ngàn chén còn ít, Cao Liên Khởi nhất thời hứng quá uống nhiều, móc hết tim phổi, nói sạch chuyện trong nhà cho mặt trắng nghe, nhà thế nào trụ ở đâu, tổng cộng mấy miệng ăn, vợ có tính tình thế nào, con cái bao lớn, sinh năm nào tháng nào, nhũ danh là cái gì, hàng xóm họ gì tên gì, nhà ai nuôi gà nhà ai cho chó ăn, nhà ai là quả phụ, nhà ai là tuyệt hậu, nhớ tới cái gì nói cái nấy, cứ như vậy vẫn cảm thấy chưa nói đủ, cứ túm mặt trắng về nhà ở một đêm, nằm cùng một giường nói chuyện trắng đêm. Mặt trắng cũng không chối từ, đỡ Cao Liên Khởi đã uống say ngã trái ngã phải ra tiệm ăn, trên đường có đi qua một con kênh, trước năm 1900 nơi này ở trong thành là một dòng chảy tự nhiên nối thẳng tới sông Xích Long, sau khi tường thành bị dỡ bỏ thì dần dần bị san bằng, lúc đó còn có nước, nước bùn tích tụ rất sâu, cỏ dại mọc thành bụi, vừa dơ vừa thúi. Mặt trắng đi đến đây, nhìn thấy bốn bề vắng lặng, cố ý đi chậm mấy bước, nhặt một cục đá lớn lên, gọi với: “Đại ca hãy dừng bước.” Cao Liên Khởi nghe tiếng quay đầu: Sao huynh đệ không đi?” Mặt trắng cười nói: “Đêm qua Hoa Quang tới gặp tôi, trước khi đi đoạt được cục gạch vàng[9]!” Nếu như đổi thành người nghe hiểu là biết rõ tên mặt trắng này là kẻ xấu rồi, Cao Liên Khởi lại khó hiểu, đây là có ý gì thế? Mặt trắng chỉ đằng trước: “Đại ca anh xem kia là ai thế?” Chờ Cao Liên Khởi vừa quay đầu, mặt trắng dùng hết sức lực đập vỡ đầu của y, lại kéo y vào trong bụi cổ, cởi giày cởi đồ ra, cột thi thể vào một tảng đá rồi thả xuống kênh, rồi thay quần áo của Cao Liên Khởi, đưa tay lau vài cái trên mặt mình, biến thành bộ dạng của Cao Liên Khởi, khi nói chuyện cũng chẳng khác Cao Nhị gia là bao, đi thẳng về tới Cao trạch, gõ cửa liền hỏi phu nhân Cao Nhị: “Con đâu rồi?”
************
[1] Mã tụ nguyên, cũng là một cửa hàng làm mũ lâu đời ở Bắc kinh:
[2] Nội liên thăng, cũng là một cửa hàng làm giày lâu đời ở Bắc Kinh:
[3] Bát Đại Tường: cửa hàng vải vóc lâu đời ở Bắc Kinh, gồm: Thụy Phù Tường, Thụy Sinh Tường, Thụy Tăng Tường, Thụy Lâm Tường, Ích Hòa Tường, Quảng Thịnh Tường, Tường Ích Hào, Khiêm Tường Ích.
[4] Hát đại cổ thư: Một loại hình thức của khúc nghệ hay gặp ở phương Bắc thời xưa.
[5] Khúc nghệ, hay còn gọi là ‘nghệ thuật nói hát’, hình thức nghệ thuật sử dụng phương thức ‘nói hát’ để biểu diễn.
[6] Thuốc lá Cáp Đức Môn:
Lão Đao
Hồng Song Hỷ
[7] Bình đàn: một hình thức văn nghệ dân gian, vừa kể chuyện, vừa hát, vừa đàn, lưu hành ở vùng Giang Tô, Chiết Giang, Trung Quốc.
[8] Đàn từ: Một loại khúc nghệ truyền thống cổ xưa, lưu hành ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc.
[9] Câu này ở trong Thủy Hử, Trương Hoành hát nó khi ở bên bờ sông. Hoa Quang ở đây là tên một thần tiên, dịch ra là: Tối qua Hoa Quang tới đánh cướp tôi, ngược lại bị tôi cướp đi gạch vàng của ổng. Câu này dùng hình ảnh “Hoa Quang” đánh cướp thất bại để làm nổi bật nên sự cường hãn, dũng mãnh của người hát.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook