Thoát Bắc Giả
-
Chương 65: Những người nhập Bắc
Hai người mặt đối mặt trong rừng cây, một người cầm súng trong tay, một người dùng ngực lấp họng súng, rơi vào thế giằng co.
Trời càng lúc càng sáng, ở vọng gác bên kia bờ sông đã truyền đến tiếng khẩu lệnh mơ hồ, quân đội đã bắt đầu thay ca. Xem ra nhiệm vụ vượt sông Đồ Môn trước lúc bình minh đã không thể hoàn thành được rồi.
Sourin lập tức tháo balo và vũ khí ra ném xuống, xếp bằng ngồi dưới đất: “Nói đi, muốn biết cái gì?”
“Cô chịu nói cho tôi hả?!”
Đạt được thành công quá dễ, đến Im Dong Kwon cũng nghi ngờ bản thân nghe nhầm.
Thuần thục tháo các bộ phận của súng ra rồi gói nó vào trong vải chống thấm, Sourin khinh thường hỏi ngược lại: “Tôi chịu nói, vậy anh có chịu tin không?”
Anh ta ôm đầu gối ngồi xổm xuống, cẩn thận bảo vệ vết thương, bất đắc dĩ bảo: “Thế cũng đỡ hơn là không biết gì, tôi không muốn mình chỉ là một thứ hàng hóa.”
“Chẳng lẽ không phải à?”
Sourin ngẩng đầu lườm anh ta, khiêu khích nói: “Theo chú gia nhập Cơ quan Tình báo, rồi lại đến Nhật Bản, nhà họ Im mà ngã đài thì cũng chỉ có thể chết theo không có chỗ chôn. Anh như thế, dù không phải là ‘hàng hóa’ thì cũng chỉ là một ‘tay nải’.”
Im Dong Kwon tức đến mức phát run, lời phản bác đã đến bên mép song lại không thể thành câu: “Cô… Nếu không phải do cô…”
“Không phải tôi thì cũng là người khác! Gặp phải tôi, các người nên cảm thấy vui mừng mới đúng!”
Cô trợn tròn mắt, vì tức giận mà hằn tia máu – cơn giận này đột ngột xuất hiện, như núi lửa kiềm chế đã lâu phun trào, không ngăn cản nổi.
Im Dong Kwon phản bác như tự vệ: “Chẳng lẽ tôi còn phải cám ơn cô ư? Cám ơn cô đã đầu độc, giết người, thấy chết mà không cứu…”
“Không có hy sinh thì không có thắng lợi!”
“Những người vượt biên kia không phải là chiến sĩ, thậm chí còn không thuộc phe phái nào, bọn họ vốn không nên chết.”
“Anh câm mồm!”
Sourin đột nhiên ném khẩu AK47 ra, thân súng đập xuống đất phát ra tiếng vang rất lớn, các bộ phận đã tháo bắn ra lung tung. Im Dong Kwon bất giác lùi về sau nửa bước, áy náy, tức giận và hối hận đã nhường chỗ cho sợ hãi.
Cô không phải là người máu lạnh, anh nhắc nhở mình, cái chết của người vô tội cũng khiến cô cảm thấy tự trách.
Cố ra vẻ lạnh lùng nói lảng đi chỉ là giả vờ thoải mái, không thể thay đổi được số mệnh bị tàn sát tập thể của người vượt biên – nếu nói Im Dong Kwon là tù nhân, bản thân khó bảo toàn, theo lý nên chấp nhận thực tế, thì rõ ràng Sourin có thể hành động nhưng lại không có quyền lựa chọn, chỉ e còn phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn.
“Có đáng không?” Anh dò xét, “Có chuyện gì còn quan trọng hơn mạng người?”
“… Là nhiều mạng người khác hơn.”
Đôi vai rũ xuống, giọng cô nhuốm đẫm mệt mỏi không chịu nổi, nhưng nghe lại rất chân thực.
Từ năm 1955 đến năm 1984, người Triều Tiên sống ở Nhật Bản đã đáp lại lời kêu gọi của Kim Nhật Thành, cả tập thể từ Nhật Bản trở lại Triều Tiên định cư, lịch sử gọi là “phong trào người Triều Tiên ở Nhật Bản hồi hương”.
Những người di dân này đến từ các tầng lớp khác nhau, có bình dân, có thợ thủ công, cũng có thương nhân vàphần tử trí thức, bọn họ được gọi chung là “nhập Bắc giả”. Trước sau hơn hai mươi năm, có trên 100.000 người quay về Triều Tiên, giúp đỡ quốc gia kiến thiết và cũng mang về tài sản kếch xù cho gia tộc, trở thành quốc khố phong phú cho chính quyền Kim Thị.
Với sự hỗ trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nền kinh tế Triều Tiên thậm chí đã từng một lần vượt qua Hàn Quốc, tạo ra “tốc độ Thiên Lý Mã” không thua kém gì “kỳ tích sông Hán”*.
(*Kỳ tích sông Hán là cụm từ đề cập tới thời kỳ tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu mang lại, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhanh chóng,v.v… dưới thời kỳ của Tổng thống Park Chung Hee (1961-1979).)
Dựa theo chỉ thị của lãnh đọ tối cao, những người nhập Bắc hồi hương không chỉ được miễn thẩm tra, trái lại còn có ưu đãi đặc biệt. Họ sống trong các khu định cư được xây dựng đặc biệt và có điều kiện sống tốt hơn so với người Triều Tiên khác, tự cho rằng mình đã hòa nhập vào đất nước xã hội chủ nghĩa mới trỗi dậy này.
Tuy nhiên, các cơ quan tình báo Nhật Bản và Hàn Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội hiếm có này, đào tạo một số lượng đáng kể các đặc công và gián điệp, ngụy trang thành người Triều Tiên trà trộn vào những kiều dân trên những con tàu hồi hương, thuận lợi tiến vào Triều Tiên.
Chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ; thỏ khôn chết, chó săn bị mổ làm thịt – sự thật đã chứng minh, tướng quân Kim Nhật Thành rất có trình độ học vấn, song kiến thức chính trị lại chẳng mấy khấm khá.
Sau đãi ngộ ngắn ngủi, lời đồn có gian tế trà trộn vào những người nhập Bắc càng lúc càng nhiều, nguy hiểm thế lực thù địch thâm nhập vào lần nữa được đem ra bàn bạc. Dưới sự dẫn dắt có ý thức của cấp lãnh đạo, địa vị xã hội của Hàn kiều Nhật kiều rơi xuống ngàn trượng, vùng định cư của kiều dân từng náo nhiệt phồn hoa, nay lại trở thành trại tập trung âm u kinh khủng.
Những người này không chỉ không thể trở thành dòng chính, trái lại còn bị xem là kẻ thù, bị ép cách ly, giám sát, tịch thu tài sản và thậm chí là tống vào tù.
Vì chính sách phong tỏa của Triều Tiên mà những bất công bọn họ đang trải qua cũng không thể bị phơi bày, mọi thứ chỉ là suy đoán; chính phủ Đảng Lao động cũng kiên quyết phủ nhận tố cáo, coi đó là hành động ác ý bôi đen của thế lực chính trị nước ngoài, dùng truyền thông dư luận lớn mạnh hơn để phản bác lại.
Chuyện liên quan đến dân tộc Triều Tiên mình, động đến thần kinh nhạy cảm của ba nước Triều Tiên Nhật Bản Hàn Quốc, đoạn lịch sử kia như đúng như sai, trước sau có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Với những biến đổi nhanh ở Đông Âu, Triều Tiên bắt đầu “hành quân gian khổ”, nền kinh tế quốc gia sụp đổ và phong trào vận động hồi hương cũng chấm dứt tại đây.
Những người nhập Bắc không chùn bước năm đó như đá chìm vào biển sâu, không còn một ai nhắc đến.
Trong rừng rậm là một mảng âm u, lời tự thuật của cô vừa nặng nề lại rõ ràng, không mang theo bất cứ cảm xúc, cũng không cho phép nghi ngờ.
Quên đi đau đớn ngoài cơ thể, Im Dong Kwon khiếp sợ ra mặt, run run nói: “Hơn ba mươi năm… Dù những người đó còn sống, thì cũng đã hơn tám mươi rồi…”
“Vậy thì sao? Bọn họ đáng chết ở đấy ư?” Sourin hất cằm chỉ vào bờ sông cách đó không xa.
“Không phải, ý tôi không phải như vậy.” Dừng lại một lúc, nhanh chóng tính toán kết quả trong đầu, Im Dong Kwon nhíu chặt mày, “Theo tỷ lệ tử vong trung bình của dân tỵ nạn, có ít nhất 40.000 người sống sót.”
Cô không hoài nghi mấy con số này, mà còn bổ sung thêm: “Bọn họ không có địa vị chính trị nên toàn là trong nội bộ lấy nhau, cộng thêm đời kiều dân thứ hai trong trại tập trung, tổng số cũng vượt quá 8.000.”
40.000 người già yếu đuối bệnh tật, hơn 8.000 đứa trẻ không đủ dinh dưỡng, thực tế tàn khốc làm người khác tuyệt vọng vô cùng.
Các hành động có quy mô như thế này đã vượt quá phạm vi hoạt động tình báo thông thường, không thể giúp người di cư ra khỏi đất nước mà không đánh động đến chính phủ Triều Tiên được. Ngay cả khi Sourin có thủ đoạn thông thiên, thì họ không thể chống lại quyền lực quốc gia và thay đổi chính sách đã thiết lập.
Huống hồ, Đảng Lao động lại rất chuộng diệt trừ phe đối lập, bọn họ luôn không tiếc công sức để xử lý những vấn đề như thế, bản thân sự tồn tại của trại tập trung cũng là ám hiệu của số mệnh đoàn thể kiều dân.
“Hẳn bọn họ vẫn còn mang quốc tịch Nhật Bản chứ? Chính phủ Nhật Bản có thể ra mặt giải quyết không?” Im Dong Kwon ôm may mắn.
Sourin nhếch môi như đang cười nhạo sự ngây thơ của anh ta: “Lưu dân có quốc tịch nhưng không có phiếu bầu, chính phủ nào sẽ quản đây?”
“Liên Hợp Quốc, Tòa án Công lý Quốc tế tại Hague, Tổ chức Tị nạn Thế giới, sẽ có bên chịu trách nhiệm chứ.” Im Dong Kwon cố chấp lắc đầu. “Một cuộc diệt chủng quy mô lớn như thế này, căn bản không thể thực hiện được.”
Sourin khịt mũi xem thường: “Rwanda, Yugoslavia, Darfur, bao gồm cả Syria, hiện tại có hơn 300 người chết mỗi ngày. Tin tôi đi, kinh nghiệm tàn sát đồng loại của loài người vô cùng phong phú.”
“Đó là chiến tranh, phải khác chứ.”
Anh ta đi tới đi lui tại chỗ, thà cứng mồm cũng không chịu chấp nhận thực tế.
Trong sự im lặng bị kìm nén, vũ khí và đồ tiếp tế được lại được bỏ vào túi, bọc kỹ lưỡng trong vải chống thấm. Sourin đứng dậy, buộc chặt nó vào lưng, khởi động chân tay chuẩn bị qua sông.
Người đàn ông lại thử tiếp tục dối mình dối người: “Nhật kiều có số lượng đông đảo, cũng có một bộ phận sống không tệ, thậm chí còn vào cấp cao trong Đảng Lao động, ắt có thể nghĩ cách thay đổi cục diện.”
Trên mặt cô toát lên sắc thái khinh miệt, “Vừa được lợi ích thì ai còn quan tâm đến kẻ khác làm gì.”
“Nhất định phải có biện pháp…”
Trí tưởng tượng của Im Dong Kwon đã cạn, chỉ biết mím chặt môi nhìn thẳng Sourin, rất mong ngóng đối phương trả lời.
“Tốn giá cao mời lính đánh thuê cao cấp, tạo ra thảm kịch ‘con tàu ma’, thu hút dư luận quốc tế, ép chính phủ Triều Tiên phải thỏa hiệp, đấy có tính là biện pháp không?”
Cô nhún vai: “Nếu không anh tưởng tôi đến Triều Tiên làm gì?”
Người đàn ông ngây ra: “Không phải cô đến để buôn lậu vật liệu hạt nhân sao?”
“Đúng là nói gì cũng tin.” Sourin thở dài, “Làm công tác tình báo mà như anh thì khéo có khi Triều Hàn đã thống nhất rồi.”
Im Dong Kwon nghẹn lời, song lại nuốt không trôi cục tức này, nhắm mắt hỏi ngược lại: “Cây cầu Không Trở Lại, hoán đổi tù binh, máy laser, chẳng lẽ cũng là tấm bình phong?”
“Đương nhiên không phải.”
Cô gái giãn mặt, dù thuốc màu bẩn tới đâu cũng không che lấp được ánh sáng rực rỡ chói mắt – cô như một người thợ săn, trước đó đã khôn khéo bố trí cạm bẫy, giờ đây chỉ còn lại dự tính và mong đợi với những chuyện sắp xảy ra.
Trong cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên năm 2013, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế đã nhận lời mời đến Triều Tiên, kiểm tra các cơ sở nhạy cảm. Là một phó trưởng đoàn của đoàn đại biểu, Becker đã đến khảo sát lò phản ứng nước nặng ở Yongbyon.
Máy ảnh thu nhỏ trên người anh ta đã ghi lại những hình ảnh vào thời điểm đó, càng thêm xác định suy đoán của bên ngoài rằng vụ thử hạt nhân của Triều Tiên đã tiến triển: Các công nghệ trang thiết bị đều đã sẵn sàng, nhưng vì thiếu uranium 237 nồng độ cao nên mới chưa thực hiện thí nghiệm được.
Cô gái hắng giọng nói: “Việc buôn lậu nguyên liệu hạt nhân từ Trung Đông vừa tốn thời gian công sức mà lại có rủi ro cao. Bỏ gần cầu xa không phù hợp với nguyên tắc làm việc của tôi.”
Im Dong Kwon suy đoán: “Nên cô mới ngụy trang thành thành viên tổ chức Hòa Bình Xanh, nhân lúc loạn mà tự ý chiếm đoạt số hiệu ‘Vịt Mỏ Nhọn’, lấy trộm Uranium 6?”
“Không sai.” Sourin gật đầu, miễn cưỡng tán thưởng, “Tính luôn thù lao của Iran và giá cả của nguyên liệu hạt nhân hiện nay, phiếu làm ăn này đã thành công. Vốn bản thân tôi cũng không có ý định quay lại Triều Tiên.”
Anh ta không nghi ngờ gì về hướng đi của hàng hóa Iran, nguyên liệu hạt nhân có độ tinh khiết cao sẽ không bao giờ thiếu người mua.
“Lúc đó Shibata Takama là phiên dịch, ông ta đại diện cho kiều dân tìm được tôi, đưa ra bảng giá đủ chân thành, nên mới có những chuyện sau đấy.”
Đầu óc rối tung rối bù, Im Dong Kwon khó khăn lắm mới nắm bắt được trọng điểm: “Còn Lee Jung Ho thì sao? Anh ta cũng ở trong kế hoạch à?”
Vẻ mặt Sourin mềm đi, khẽ lắc đầu: “Không, anh ta là một ngoài ý muốn.”
__
P/s: Đến đây là đã hiểu được mục đích của Sourin rồi đấy. Thoát Bắc giả trong tên truyện không đơn thuần ám chỉ những người Triều Tiên muốn thoát khỏi Triều Tiên, mà nhắc đến những kiều dân đang bị gạt bỏ ở Triều Tiên.
Trời càng lúc càng sáng, ở vọng gác bên kia bờ sông đã truyền đến tiếng khẩu lệnh mơ hồ, quân đội đã bắt đầu thay ca. Xem ra nhiệm vụ vượt sông Đồ Môn trước lúc bình minh đã không thể hoàn thành được rồi.
Sourin lập tức tháo balo và vũ khí ra ném xuống, xếp bằng ngồi dưới đất: “Nói đi, muốn biết cái gì?”
“Cô chịu nói cho tôi hả?!”
Đạt được thành công quá dễ, đến Im Dong Kwon cũng nghi ngờ bản thân nghe nhầm.
Thuần thục tháo các bộ phận của súng ra rồi gói nó vào trong vải chống thấm, Sourin khinh thường hỏi ngược lại: “Tôi chịu nói, vậy anh có chịu tin không?”
Anh ta ôm đầu gối ngồi xổm xuống, cẩn thận bảo vệ vết thương, bất đắc dĩ bảo: “Thế cũng đỡ hơn là không biết gì, tôi không muốn mình chỉ là một thứ hàng hóa.”
“Chẳng lẽ không phải à?”
Sourin ngẩng đầu lườm anh ta, khiêu khích nói: “Theo chú gia nhập Cơ quan Tình báo, rồi lại đến Nhật Bản, nhà họ Im mà ngã đài thì cũng chỉ có thể chết theo không có chỗ chôn. Anh như thế, dù không phải là ‘hàng hóa’ thì cũng chỉ là một ‘tay nải’.”
Im Dong Kwon tức đến mức phát run, lời phản bác đã đến bên mép song lại không thể thành câu: “Cô… Nếu không phải do cô…”
“Không phải tôi thì cũng là người khác! Gặp phải tôi, các người nên cảm thấy vui mừng mới đúng!”
Cô trợn tròn mắt, vì tức giận mà hằn tia máu – cơn giận này đột ngột xuất hiện, như núi lửa kiềm chế đã lâu phun trào, không ngăn cản nổi.
Im Dong Kwon phản bác như tự vệ: “Chẳng lẽ tôi còn phải cám ơn cô ư? Cám ơn cô đã đầu độc, giết người, thấy chết mà không cứu…”
“Không có hy sinh thì không có thắng lợi!”
“Những người vượt biên kia không phải là chiến sĩ, thậm chí còn không thuộc phe phái nào, bọn họ vốn không nên chết.”
“Anh câm mồm!”
Sourin đột nhiên ném khẩu AK47 ra, thân súng đập xuống đất phát ra tiếng vang rất lớn, các bộ phận đã tháo bắn ra lung tung. Im Dong Kwon bất giác lùi về sau nửa bước, áy náy, tức giận và hối hận đã nhường chỗ cho sợ hãi.
Cô không phải là người máu lạnh, anh nhắc nhở mình, cái chết của người vô tội cũng khiến cô cảm thấy tự trách.
Cố ra vẻ lạnh lùng nói lảng đi chỉ là giả vờ thoải mái, không thể thay đổi được số mệnh bị tàn sát tập thể của người vượt biên – nếu nói Im Dong Kwon là tù nhân, bản thân khó bảo toàn, theo lý nên chấp nhận thực tế, thì rõ ràng Sourin có thể hành động nhưng lại không có quyền lựa chọn, chỉ e còn phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn.
“Có đáng không?” Anh dò xét, “Có chuyện gì còn quan trọng hơn mạng người?”
“… Là nhiều mạng người khác hơn.”
Đôi vai rũ xuống, giọng cô nhuốm đẫm mệt mỏi không chịu nổi, nhưng nghe lại rất chân thực.
Từ năm 1955 đến năm 1984, người Triều Tiên sống ở Nhật Bản đã đáp lại lời kêu gọi của Kim Nhật Thành, cả tập thể từ Nhật Bản trở lại Triều Tiên định cư, lịch sử gọi là “phong trào người Triều Tiên ở Nhật Bản hồi hương”.
Những người di dân này đến từ các tầng lớp khác nhau, có bình dân, có thợ thủ công, cũng có thương nhân vàphần tử trí thức, bọn họ được gọi chung là “nhập Bắc giả”. Trước sau hơn hai mươi năm, có trên 100.000 người quay về Triều Tiên, giúp đỡ quốc gia kiến thiết và cũng mang về tài sản kếch xù cho gia tộc, trở thành quốc khố phong phú cho chính quyền Kim Thị.
Với sự hỗ trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nền kinh tế Triều Tiên thậm chí đã từng một lần vượt qua Hàn Quốc, tạo ra “tốc độ Thiên Lý Mã” không thua kém gì “kỳ tích sông Hán”*.
(*Kỳ tích sông Hán là cụm từ đề cập tới thời kỳ tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu mang lại, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhanh chóng,v.v… dưới thời kỳ của Tổng thống Park Chung Hee (1961-1979).)
Dựa theo chỉ thị của lãnh đọ tối cao, những người nhập Bắc hồi hương không chỉ được miễn thẩm tra, trái lại còn có ưu đãi đặc biệt. Họ sống trong các khu định cư được xây dựng đặc biệt và có điều kiện sống tốt hơn so với người Triều Tiên khác, tự cho rằng mình đã hòa nhập vào đất nước xã hội chủ nghĩa mới trỗi dậy này.
Tuy nhiên, các cơ quan tình báo Nhật Bản và Hàn Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội hiếm có này, đào tạo một số lượng đáng kể các đặc công và gián điệp, ngụy trang thành người Triều Tiên trà trộn vào những kiều dân trên những con tàu hồi hương, thuận lợi tiến vào Triều Tiên.
Chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ; thỏ khôn chết, chó săn bị mổ làm thịt – sự thật đã chứng minh, tướng quân Kim Nhật Thành rất có trình độ học vấn, song kiến thức chính trị lại chẳng mấy khấm khá.
Sau đãi ngộ ngắn ngủi, lời đồn có gian tế trà trộn vào những người nhập Bắc càng lúc càng nhiều, nguy hiểm thế lực thù địch thâm nhập vào lần nữa được đem ra bàn bạc. Dưới sự dẫn dắt có ý thức của cấp lãnh đạo, địa vị xã hội của Hàn kiều Nhật kiều rơi xuống ngàn trượng, vùng định cư của kiều dân từng náo nhiệt phồn hoa, nay lại trở thành trại tập trung âm u kinh khủng.
Những người này không chỉ không thể trở thành dòng chính, trái lại còn bị xem là kẻ thù, bị ép cách ly, giám sát, tịch thu tài sản và thậm chí là tống vào tù.
Vì chính sách phong tỏa của Triều Tiên mà những bất công bọn họ đang trải qua cũng không thể bị phơi bày, mọi thứ chỉ là suy đoán; chính phủ Đảng Lao động cũng kiên quyết phủ nhận tố cáo, coi đó là hành động ác ý bôi đen của thế lực chính trị nước ngoài, dùng truyền thông dư luận lớn mạnh hơn để phản bác lại.
Chuyện liên quan đến dân tộc Triều Tiên mình, động đến thần kinh nhạy cảm của ba nước Triều Tiên Nhật Bản Hàn Quốc, đoạn lịch sử kia như đúng như sai, trước sau có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Với những biến đổi nhanh ở Đông Âu, Triều Tiên bắt đầu “hành quân gian khổ”, nền kinh tế quốc gia sụp đổ và phong trào vận động hồi hương cũng chấm dứt tại đây.
Những người nhập Bắc không chùn bước năm đó như đá chìm vào biển sâu, không còn một ai nhắc đến.
Trong rừng rậm là một mảng âm u, lời tự thuật của cô vừa nặng nề lại rõ ràng, không mang theo bất cứ cảm xúc, cũng không cho phép nghi ngờ.
Quên đi đau đớn ngoài cơ thể, Im Dong Kwon khiếp sợ ra mặt, run run nói: “Hơn ba mươi năm… Dù những người đó còn sống, thì cũng đã hơn tám mươi rồi…”
“Vậy thì sao? Bọn họ đáng chết ở đấy ư?” Sourin hất cằm chỉ vào bờ sông cách đó không xa.
“Không phải, ý tôi không phải như vậy.” Dừng lại một lúc, nhanh chóng tính toán kết quả trong đầu, Im Dong Kwon nhíu chặt mày, “Theo tỷ lệ tử vong trung bình của dân tỵ nạn, có ít nhất 40.000 người sống sót.”
Cô không hoài nghi mấy con số này, mà còn bổ sung thêm: “Bọn họ không có địa vị chính trị nên toàn là trong nội bộ lấy nhau, cộng thêm đời kiều dân thứ hai trong trại tập trung, tổng số cũng vượt quá 8.000.”
40.000 người già yếu đuối bệnh tật, hơn 8.000 đứa trẻ không đủ dinh dưỡng, thực tế tàn khốc làm người khác tuyệt vọng vô cùng.
Các hành động có quy mô như thế này đã vượt quá phạm vi hoạt động tình báo thông thường, không thể giúp người di cư ra khỏi đất nước mà không đánh động đến chính phủ Triều Tiên được. Ngay cả khi Sourin có thủ đoạn thông thiên, thì họ không thể chống lại quyền lực quốc gia và thay đổi chính sách đã thiết lập.
Huống hồ, Đảng Lao động lại rất chuộng diệt trừ phe đối lập, bọn họ luôn không tiếc công sức để xử lý những vấn đề như thế, bản thân sự tồn tại của trại tập trung cũng là ám hiệu của số mệnh đoàn thể kiều dân.
“Hẳn bọn họ vẫn còn mang quốc tịch Nhật Bản chứ? Chính phủ Nhật Bản có thể ra mặt giải quyết không?” Im Dong Kwon ôm may mắn.
Sourin nhếch môi như đang cười nhạo sự ngây thơ của anh ta: “Lưu dân có quốc tịch nhưng không có phiếu bầu, chính phủ nào sẽ quản đây?”
“Liên Hợp Quốc, Tòa án Công lý Quốc tế tại Hague, Tổ chức Tị nạn Thế giới, sẽ có bên chịu trách nhiệm chứ.” Im Dong Kwon cố chấp lắc đầu. “Một cuộc diệt chủng quy mô lớn như thế này, căn bản không thể thực hiện được.”
Sourin khịt mũi xem thường: “Rwanda, Yugoslavia, Darfur, bao gồm cả Syria, hiện tại có hơn 300 người chết mỗi ngày. Tin tôi đi, kinh nghiệm tàn sát đồng loại của loài người vô cùng phong phú.”
“Đó là chiến tranh, phải khác chứ.”
Anh ta đi tới đi lui tại chỗ, thà cứng mồm cũng không chịu chấp nhận thực tế.
Trong sự im lặng bị kìm nén, vũ khí và đồ tiếp tế được lại được bỏ vào túi, bọc kỹ lưỡng trong vải chống thấm. Sourin đứng dậy, buộc chặt nó vào lưng, khởi động chân tay chuẩn bị qua sông.
Người đàn ông lại thử tiếp tục dối mình dối người: “Nhật kiều có số lượng đông đảo, cũng có một bộ phận sống không tệ, thậm chí còn vào cấp cao trong Đảng Lao động, ắt có thể nghĩ cách thay đổi cục diện.”
Trên mặt cô toát lên sắc thái khinh miệt, “Vừa được lợi ích thì ai còn quan tâm đến kẻ khác làm gì.”
“Nhất định phải có biện pháp…”
Trí tưởng tượng của Im Dong Kwon đã cạn, chỉ biết mím chặt môi nhìn thẳng Sourin, rất mong ngóng đối phương trả lời.
“Tốn giá cao mời lính đánh thuê cao cấp, tạo ra thảm kịch ‘con tàu ma’, thu hút dư luận quốc tế, ép chính phủ Triều Tiên phải thỏa hiệp, đấy có tính là biện pháp không?”
Cô nhún vai: “Nếu không anh tưởng tôi đến Triều Tiên làm gì?”
Người đàn ông ngây ra: “Không phải cô đến để buôn lậu vật liệu hạt nhân sao?”
“Đúng là nói gì cũng tin.” Sourin thở dài, “Làm công tác tình báo mà như anh thì khéo có khi Triều Hàn đã thống nhất rồi.”
Im Dong Kwon nghẹn lời, song lại nuốt không trôi cục tức này, nhắm mắt hỏi ngược lại: “Cây cầu Không Trở Lại, hoán đổi tù binh, máy laser, chẳng lẽ cũng là tấm bình phong?”
“Đương nhiên không phải.”
Cô gái giãn mặt, dù thuốc màu bẩn tới đâu cũng không che lấp được ánh sáng rực rỡ chói mắt – cô như một người thợ săn, trước đó đã khôn khéo bố trí cạm bẫy, giờ đây chỉ còn lại dự tính và mong đợi với những chuyện sắp xảy ra.
Trong cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên năm 2013, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế đã nhận lời mời đến Triều Tiên, kiểm tra các cơ sở nhạy cảm. Là một phó trưởng đoàn của đoàn đại biểu, Becker đã đến khảo sát lò phản ứng nước nặng ở Yongbyon.
Máy ảnh thu nhỏ trên người anh ta đã ghi lại những hình ảnh vào thời điểm đó, càng thêm xác định suy đoán của bên ngoài rằng vụ thử hạt nhân của Triều Tiên đã tiến triển: Các công nghệ trang thiết bị đều đã sẵn sàng, nhưng vì thiếu uranium 237 nồng độ cao nên mới chưa thực hiện thí nghiệm được.
Cô gái hắng giọng nói: “Việc buôn lậu nguyên liệu hạt nhân từ Trung Đông vừa tốn thời gian công sức mà lại có rủi ro cao. Bỏ gần cầu xa không phù hợp với nguyên tắc làm việc của tôi.”
Im Dong Kwon suy đoán: “Nên cô mới ngụy trang thành thành viên tổ chức Hòa Bình Xanh, nhân lúc loạn mà tự ý chiếm đoạt số hiệu ‘Vịt Mỏ Nhọn’, lấy trộm Uranium 6?”
“Không sai.” Sourin gật đầu, miễn cưỡng tán thưởng, “Tính luôn thù lao của Iran và giá cả của nguyên liệu hạt nhân hiện nay, phiếu làm ăn này đã thành công. Vốn bản thân tôi cũng không có ý định quay lại Triều Tiên.”
Anh ta không nghi ngờ gì về hướng đi của hàng hóa Iran, nguyên liệu hạt nhân có độ tinh khiết cao sẽ không bao giờ thiếu người mua.
“Lúc đó Shibata Takama là phiên dịch, ông ta đại diện cho kiều dân tìm được tôi, đưa ra bảng giá đủ chân thành, nên mới có những chuyện sau đấy.”
Đầu óc rối tung rối bù, Im Dong Kwon khó khăn lắm mới nắm bắt được trọng điểm: “Còn Lee Jung Ho thì sao? Anh ta cũng ở trong kế hoạch à?”
Vẻ mặt Sourin mềm đi, khẽ lắc đầu: “Không, anh ta là một ngoài ý muốn.”
__
P/s: Đến đây là đã hiểu được mục đích của Sourin rồi đấy. Thoát Bắc giả trong tên truyện không đơn thuần ám chỉ những người Triều Tiên muốn thoát khỏi Triều Tiên, mà nhắc đến những kiều dân đang bị gạt bỏ ở Triều Tiên.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook