Hỏa thần: Cửu Hà long xà (BẢN DỊCH)
Chapter 42 quyển 7: Trương Mù đi âm

Chương 7: Trương Mù đi âm

Tiết 1:

Cổ vãng kim lai kỷ thiên thu,

Long tranh hổ đấu bất đoạn đầu.

Hưu thuyết thiên sổ vô căn do,

Nhân loạn yêu hưng họa tự thành.

Tạm dịch:

Tự cổ chí kim mấy ngàn thu,

Long tranh hổ đấu không dừng được.

Thôi nói số trời vô nguyên cớ,

Nhân loạn yêu hưng họa tự thành.

Trước đấy đang nói đến Phân Long Hội ngày hai mươi lăm tháng năm, trời giáng mưa to, sấm chớp đùng đùng, bảy ngọn đèn dầu Lý Lão Đạo bày ra ở Sở Cảnh sát Miếu Hỏa Thần đã bị diệt hết, đám Lõi Đời sợ quá, luống cuống tay chân không biết làm sao. Tạm không nhắc tới bốn tuần cảnh ở gian ngoàn nữa, ta lại nói Lưu Hoành Thuận trong phòng, cả ngày hỗn loạn, uống mấy chén rượu chậm say, gục xuống bàn mí mắt càng ngày càng trầm, nói thế nào cũng không mở ra được, qua canh năm mới đứng dậy, nghe tiếng mưa rơi bên ngoài đã dừng, sắc trời còn chưa sáng, ra phòng ngoài nhìn xem, Sở Cảnh sát Miếu Hỏa Thần không có ai trực cả. Lưu Hoành Thuận ra ngoài nhìn thì cũng không trách được, Sở Cảnh sát Miếu Hỏa Thần còn chưa có điện, trước cửa treo ngọn đèn lồng đỏ, lúc này lại trở thành đèn lồng trắng, mấy cái que trúc, bên ngoài dán giấy trắng, bên trong đốt ngọn nến, ngay cả ánh sáng của nến cũng là màu trắng, Trương Sí, Lý Xán, Đỗ Đại Bưu, Lõi Đời đi đâu rồi? Lưu Hoành Thuận giơ đèn lồng trắng ra ngoài tìm, một đường đi về phía trước, trên đường lại không thấy một bóng người. Lẽ ra bình thường vào lúc này trên đường phố đã có người đưa nước, đổ rác, tiểu thương mài sữa đậu nành, làm đậu hũ cũng nên đốt đèn làm việc rồi, nhưng là đưa mắt nhìn lại, phố lớn ngõ nhỏ không có một bóng người, các nhà hai bên tối lửa tắt đèn, không có một nơi sáng đèn, mọi người đâu cả rồi? Khoan hãy nói là người, trên đường ngay cả một con chó cũng không có, không nhìn thấy phòng ốc xung quanh, chỉ có con đường dưới chân này là có thể đi.

Trong lòng Lưu Hoành Thuận bồn chồn, đi một lúc lâu, băng qua một rãnh nước cống, anh ta nhận ra nơi này, hố quỷ góc Tây Bắc thành Thiên Tân. Trước kia ngạn ngữ dân gian hình dung bốn cái hố nước thành Thiên Tân là, “Một hố mũ quan một hố quỷ, một hố bạc một hố nước”, bốn hố nước lớn mỗi bên chiếm một góc, hố quỷ nằm ở góc Tây Bắc miếu Thành Hoàng, xung quanh hoàn toàn hoang vu, bụi cỏ mọi hoang, khắp nơi trên mặt đất đều là cỏ lau cao cỡ một người, bốn phía cỏ lau có một số túp lều thấp bé ẩm ướt, những người ở đấy thường là phu xe kéo tay, đổ rác, nhặt giỏ tóc, cũng chính là nhặt ve chai, nói ngắn lại tất cả đều là người nghèo. Nói như vậy sao lại có cái hố này nhỉ? Trong thời kỳ Quang Tự có một người nước Đức, có một ngày dẫn hơn một nghìn dân phu xới đất, xây lều nhỏ, đào hố to ở đây. Đào hố to làm cái gì? Bán đất, đây chính là một việc buôn bán có chất béo. Sau khi đào xong lại đang đào hai cái cống ở hai đầu nam bắc của hố, khu vực này địa thế trũng, qua mỗi một cơn mưa to, nước dơ chảy xuống từ chỗ cao sẽ rót đầy hố, anh ta bèn đóng hai cái cống này, trong nháy mắt nước bẩn lại dâng lên gần lò sưởi của dân chúng xung quanh, muốn nước xuống, mọi người phải gom đủ tiền giao cho anh ta, khi ấy anh ta mới mở cửa cống. Sau đó người nước Đức đột nhiên biến mất tung tích không rõ, có người nói là anh ta gặp báo ứng, lúc mở cống ngã vào trong hố, còn có người nói là nghĩa sĩ trên giang hồ vì dân trừ hại, cho dù chân tướng như thế nào, cái rãnh nước cống ấy không thể lấp lại được nữa, trở thành một trong vài căn cứ nước dơ lớn của toàn bộ Thiên Tân Vệ, nước dơ, nước mưa đều chảy xuống chỗ này, nhiều năm tích tụ tạo thành một cái hố lớn thối, sâu tới năm thước, dơ dáy bẩn thỉu, mùi hôi tận trời.

Gia đình địa phương có ba sợ, một sợ trời nắng, hai sợ ngày mưa, ba sợ ôn dịch. Nói trời nắng tại sao lại sợ? Trời nắng làm nước hôi trong hố nước bốc hơi lên, mùi rất khó ngửi, khắp nơi trong hẻm đều là ruồi lớn ruồi nhỏ, nhặng đỏ nhặng xanh bay ra từ trong hố thối, bay loạn khắp bầu trời, vo ve cả ngày, buổi sáng không cần gà gáy, tiếng con ruồi đã đủ để đánh thức con người dậy rồi. Đến trưa, mọi người ăn cơm mà ruồi đã từng ăn, ban đêm con ruồi có thể đậu đen cả nóc nhà, khó khăn lắm tới lúc con ruồi tan việc, muỗi lại bắt đầu đi làm, thành quần kết đội, phô thiên cái địa, đốt nhang muỗi, đốt ngải cũng vô ích, buổi sáng dậy người đầy bọc, không quan tâm người gầy bao nhiêu, ngủ ở đây một hôm, ngày hôm sau chắc chắn biến thành tên mập. Ngày mưa mọi người càng là nơm nớp lo sợ, nước mưa chảy tới từ các nơi mang theo mèo chết, chó nát, phân và nước tiểu, đồ bỏ đi, giòi bọ, vừa dơ vừa thúi thì không nói, trong nhà ngay cả rơm củi cũng bị ướt, căn bản không đốt bếp được, mọi người chỉ đành ăn cơm nguội, mưa mà lớn hơn chút thì còn có thể làm sập phòng, một nhà già trẻ chỉ biết ở bên trong. Đáng sợ hơn chính là ôn dịch, trong thời xưa không nói đến chuyện vệ sinh, cũng không cách nào nói được chuyện này, xảy ra ôn dịch là chuyện như cơm bữa, động một cái là chết mấy mươi người, kéo đến bãi tha ma ném một cái, bạch cốt mỗi ngày.

Từ lúc vào Dân quốc tới nay, nơi đây vẫn là nơi dân chúng tầng dưới chót tụ cư, người dọn vệ sinh trong thành cũ đều đổ rác ở đây, thế cho nên diện tích của cống càng ngày càng nhỏ, nhưng lại thúi hơn, dẫn tới vô số con cóc, trong ngày thường cóc kêu loạn, ngày hôm nay lại hoàn toàn tĩnh mịch. Lưu Hoành Thuận tới chỗ này, nhìn thấy cách đó không xa có ánh sáng, bước nhanh lại gần, tìm không thấy ánh đèn cây đuốc, nhưng trên mặt đất lại có chậu hóa vàng mã, phía sau xếp một đội nhân mã, đủ mọi màu sắc sắp hàng chỉnh tề, không có một ai sống, tất cả đều là người giấy ngựa giấy!

Đúng lúc này, một lão đầu gầy nhom sắc mặt tái nhợt đi tới, giơ tay nhấc chân vô cùng nhanh nhẹn, khoác trên người cái áo khoác, mũi ưng, miệng mỏng, hai mắt nhấp nháy sắc bén. Lưu Hoành Thuận vừa thấy người này, lập tức kinh hãi, anh ta biết lão đầu này, không phải ai khác, chính là Trương Mù Trương Lập Ba ghim người giấy ở miếu Thành Hoàng. Dáng dấp Trương Mù không đáng sợ, nhưng mà đôi mắt ông ta đã bị hư vài chục năm, vì sao hai mắt người này lại sáng, đây là Trương Mù sao?

Lưu Hoành Thuận nhìn chằm chằm, thực sự là Trương Mù không sai, bèn vội bước lên bái, một mực cung kính kêu: “Sư thúc.”

Trương Mù ghim người giấy ở miếu Thành Hoàng, tại sao là sư thúc của Lưu Hoành Thuận? Đôi mắt của ông ta tại sao lại mù? Để trả lời chúng ta phải ngược dòng thời gian, trước đây Trương Mù không bị mù, vốn tên là Trương Lập Ba, Thiên Tân Vệ hay gọi “Lập gia”, nhất tuyệt trong “Thất Tuyệt Bát Quái” của Cửu Hà hạ sao, rất nhiều người cho rằng ông tay có tay nghề ghim người giấy tuyệt, cũng có người nói ông ta đi âm. Lại có rất ít người biết, danh hiệu của Lập gia đã hiện ra từ lâu, năm đó lúc còn có triều Đại Thanh, Trương Lập Ba là phi tặc số một trên lục lâm, có một thân võ nghệ tuyệt kỹ cao cường, vào ngàn nhà vạn hộ đánh cắp tiền tài của người khác. Nói như vậy ông ta là người xấu? Cũng không hẳn vậy, người này nguyên quán ở huyện Võ Thanh, thuở nhỏ mất cha, hai mẹ con sống nương tựa vào nhau, nhà chỉ có bốn bức tường, bần hàn như tẩy rửa, sau đó gặp được cao nhân ở núi Tề Vân, học nghệ mười bảy năm, luyện thành một thân tuyệt kỹ, cái gì mà “Vút cao tung ải, võ nghệ cao cường”, tại sao là “Đạp bèo sang sông, đi cốc như bông”, đất bằng phẳng giậm chân một cái là có thể lên phòng, đến trên phòng còn chưa đứng vững, ngã nhào một cái là có thể xuống tới. Trước khi xuống núi, sư phụ nói cho ông ta biết, tuy hai người chúng ta là thầy trọ thật, lại không có danh thầy trò, nhiều năm như vậy con cũng không biết vi sư họ gì tên gì, cũng không phải cố ý giấu giếm, mà là không cho con mượn tên thầy hành tẩu giang hồ, theo tiếng lóng trong lục lâm thì là: “Không cho ngươi mượn tên của ta, muốn thì tự mình xông pha.”

Trương Lập Ba làm người chí hiếu, không có lòng dương danh, bởi vì lòng người hiểm ác đáng sợ, lục lâm cũng không dễ sống, bái biệt ân sư trở lại quê quán, bằng một thân kỹ năng của ông ta, tìm một tài chủ địa phương trông nhà hộ viện, không cầu đại phú đại quý, chỉ cần có miếng cơm an ổn, có thể tẫn hiếu trước mẹ già là được. Không nghĩ tới “Người ngồi trong nhà, họa từ trên trời rơi xuống”, cái này kêu là tai bay vạ gió! Một ngày vượt qua ông ta việc, mua không ít bọc lớn bọc nhỏ mẹ thích, về đến nhà ngồi nói chuyện trên kháng với lão thái thái chợt nghe bên ngoài có người lớn tiếng gọi cửa, đập cửa ầm ầm, suýt chút nữa đập nát ván cửa luôn, biết đến đây là gõ cửa, không biết còn tưởng rằng phá cửa, ông ta mở rộng cửa nhìn thấy bốn vị quan sai tới, làm sao biết là quan sai đâu? Không phải câu có như thế sao, mang mũ lớn mặc áo xanh, không phải nha dịch chính là binh! Bốn quan sai thấy Trương Lập Ba đi ra, xiềng xích trong tay tử run lên, “ào ào” tròng lên cổ Trương Lập Ba, không nói lời nào kéo đi luôn.

Chúng ta nói Trương Lập Ba người mang tuyệt kỹ, một thân kỹ năng, vì sao dễ dàng bị quan sai bắt được như vậy? Có hai nguyên nhân: Thứ nhất, những bộ khoái khóa nhân này, khác kỹ năng e rằng không được, nhưng xiềng xích thì lại dùng quen, sức cổ tay vừa nhanh vừa chuẩn, không đợi bạn xem rõ né tránh, cũng đã tròng lên trên cổ rồi, cái này gọi là không sợ ngàn chiêu biết, chỉ sợ một chiêu quen; thứ hai, tuy nói xiềng xích của nha môn huyện chỉ có ngón út, sức lớn chút là có thể kéo đứt, nhưng mà cái tròng lên cỏ này gọi là vương pháp, có oan hay không bạn cứ lên công đường rồi nói với đại lão gia, nếu cả gan tránh thoát, tức là chống lại lệnh bắt, coi rẻ quốc pháp, tới ngày bị áp giải lên công đường, cái gì cũng không hỏi cứ đánh trước bốn mươi đại bản. Trương Lập Ba sợ kinh động mẹ già, lại cảm thấy không thẹn với lương tâm, mặc cho bốn quan sai khóa, thẳng đến huyện nha huyện Võ Thanh, dọc theo đường đi trong lòng cứ thấy không được tự nhiên, trong ngày thường đều rất nghiêm chỉnh, lại bị dung sai khóa dẫn vào huyện nha, làm cho hàng xóm láng giềng trái phải xung quanh nhìn thấy, còn không chỉ vào mặt xì xào cho sao? Không quan tâm có phạm vương pháp không, cho dù là buổi sáng bị bắt vào tới trưa thả rưa, cũng không chịu nổi miệng người hai tờ da, nói hết cả mồm mép, nhưng vẫn sẽ có người không nghe, mặt của ta biết đặt đâu abaya giờ? Bởi vậy mà việc trông nhà hộ viện của ta bị mất, không nói đến kiếm cái gì ăn, sau này hai mẹ con chúng tôi đi ra đi vào, sao mà ngẩng đầu được? Trương Lập Ba đi trên đường tránh không khỏi miên man suy nghĩ, trong lòng phiền muộn. Tới trên công đường, nghe hỏi thì ông ta mới hiểu được, thì ra vài ngày trước đó, ông ta đánh lùi vài kẻ cắp ban đêm vào nhà dân hái hoa ăn trộm, mấy tên tặc ghi hận trong lòng, mạo danh ông ta gây án. Lúc đó quan huyện này ngu ngốc vô năng, nghe nói Trương Lập Ba biết võ nghệ cao cường, là cứ cho là ông ta, không thẩm tra làm rõ tình tiết vụ án, đã phân phó trái phải đánh gãy gân chân phi tặc.

Trương Lập Ba chưa từng trải nhiều việc, trong lòng lại là tức giận bất bình, không cam lòng chịu oan khuất, cắn răng giậm chân, ở trên công đường của huyện nha đạp xích thoát thân, phóng người thẳng lên nóc nhà, đi xuống theo sườn núi sau phòng. Ông ta suốt đêm trốn về đến nhà, hay có câu “Gặp gấp tìm người thân, lâm nguy nhờ cố nhân”, trước tiên đưa mẹ già đến nhà cậu Hai vùng khác, một mình đi ra ngoài tránh đầu sóng ngọn gió, không biết tại sao cùng đường, suy đi nghĩ lại thở dài một tiếng: “Nếu quan phủ oan uổng ta, trên đạo cũng có người nhìn ta không hợp mắt, ta phải đi làm một cái phi tặc, trộm xong ta cũng để lại tên, cho các ngươi nhìn xem ta làm kẻ gian thế nào, ta không đi xe, vậy đến thành Thiên Tân đi, để lộ thủ đoạn của Trương Lập Ba ta!”

Ông ta vừa nghĩ vậy, suốt đêm vào thành Thiên Tân. Từ đó về sau, những người nhà giàu vì phú bất nhân gặp không may, vàng bạc châu báu trong nhà nói bỏ là bỏ, nói không có là không có, cũng không biết kẻ cắp vào bằng cách nào, trông nhà hộ viện xin nhiều hay ít cũng vô dùng, ngay cả chó cũng không kêu, tới vô ảnh đi vô tung, gây án xong chỉ lưu lại ba chữ “Trương Lập Ba” ở trên tường, mặc cho quan phủ xuất động bao nhiêu bộ khoái, chính là không bắt được phi tặc này, ngay cả bóng người cũng không thấy. Lập gia trộm đồ giảng quy củ, không quan tâm người nhà này đáng hận cỡ nào, từ trước đến nay chỉ cuốn của nổi, khế ước mua bán nhà khế đất, biên lai cầm đồ sổ sách tất cả không động, cũng sẽ không quấy nhiễu nữ quyến, vào bằng cách nào ra bằng cách ấy, trong phòng ngay cả một vết chân cũng không để lại, mở cục gạch, xốc mái ngói, trả hết nguyên dạng lại cho bạn. Những người nghèo của thành Thiên Tân cũng coi như có đường sống, bất kể là miếu đổ nát khất cái tụ tập, hay là phòng ngủ của dân chúng nghèo, luôn có người cứ ba năm ngày vào đưa tiền, có lúc nhiều lúc ót, có lúc là đồng bạc, có lúc là bạc vụn, nhất là cuối năm, Trương Lập Ba sẽ tán hết tiền tích lũy được trong một năm, rất nhiều người nhà nghèo vào buổi sáng thấy trước cửa chồng ba đồng tiền, là biết đây là ý của “Lập ba”, cho nên gặp mùng một đầu năm, thì ân cần thăm hỏi lẫn nhau: “Năm nay qua thế nào?” Đối phương đáp: “Nhờ phúc quý nhân, lập tới sống tốt.” Cả hai ngầm hiểu lẫn nhau, quả thực là coi Trương Lập Ba như Bồ Tát sống cứu khổ cứu nạn. 

Trương Lập Ba nhiều lần gây án chẳng bao giờ thất thủ, những nhà giàu vì giàu bất nhân chỉ vào mũi người hầu mắng, làm cho nha môn mất hết thể diện, hận đến ngứa răng, cố tình người này lúc tới vô ảnh, lúc đi vô tung, chỉ đành phải dán đầy bức họa khắp thành treo thưởng tróc nã, tiền thưởng liên tục tăng cao, cho tới tám trăm lượng bạc ròng, giết người cướp của giang dương đại đạo cũng không đáng cái giá này, nhưng mà dân chúng thành Thiên Tân không tham phần tiền này, đều nói Trương Lập Ba là hiệp đạo, giậm chân có thể lên trời, cưỡi mây có thể điều khiển sương mù, cướp phú tế bần, phù nguy cứu khốn, có thần Phật đầy trời hỗ trợ, quan phủ muốn bắt cũng không bắt được, dân chúng có biết ông ta ở nơi nào cũng không nói.

Về án Trương Lập Ba gây ra ở thành Thiên Tân, tin rằng nói ba ngày ba đêm cũng nói không xong, thủ đoạn ông ta cực cao, trên người có tuyệt chiêu, thiên nga đẻ trứng, đáy biển mò kim, bọ cạp bò thành, con rết qua núi, không có cái gì ông ta không biết, hơn nữa túc trí đa mưu, nhanh nhẹn linh hoạt hơn người, mặc cho tường viện nhà giàu cao tới đâu, thủ vệ nhiều cỡ nào, cũng không chống nổi Trương Lập Ba vào nhà ăn trộm.

Một thoáng đã qua mười năm, danh hào của Phi thiên đại đạo Trương Lập Ba ở trong lục lâm, trong giang hồ có thể nói là không người không biết, không ai không hiểu, nhắc tới không ai không tán đồng với ông ta. Quan phủ năm lần bảy lượt treo thưởng cầm tặc lại không có kết quả, quan nghe được mấy chữ Trương Lập Ba là đau đầu, nếu ép ông ta thật thì ông ta cũng dám để lại vết đao trên thư án của Huyện thái gia, ý kia là nói cho ông biết, đừng thấy ông không bắt được tôi, nhưng tôi lấy cái đầu của ông lại dễ như trở bàn tay. Tri huyện Thiên Tân nhậm chức sau này lắm mưu nhiều kế, không hề khua chiêng gõ mõ tróc nã phi tặc, chỉ sai người âm thầm tìm kiếm, thường xuyên qua lại thám thính ra mẹ già của Trương Lập Ba tránh ở nông thôn, cảm thấy đó là cơ hội để bày tặc, trước bày phục binh, lại sai người thả ra tiếng gió, nói quan phủ đã tìm được chỗ ẩn thân của mẹ già của Trương Lập Ba, lập tức đi bắt người ngay.

Trương Lập Ba làm người hiếu thuận, nghe được tiếng gió này lập tức chạy về nông thôn, vào nhà không nhiều lời, cõng mẹ già lên đi liền, mới vừa ra ngoài đã bị quan sai bao vây. Dây lên cung đao ra khỏi vỏ, người gọi ngựa hí, đèn lồng cây đuốc chiếu như ban ngày. Nếu như nói Trương Lập Ba ném mẹ già, một mình thả người chạy mất, ai cũng đuổi không kịp ông ta, nhưng như vậy thì không phải Trương Lập Ba nữa. Vì bảo vệ mẹ già, Phi thiên đại đạo Trương Lập Ba tung hoành giang hồ thúc thủ chịu trói, bị giải đến trên công đường huyện nha Thiên Tân gặp Huyện thái gia. Huyện lệnh đại nhân thấy Trương Lập Ba vẻ mặt chính khí, không giống những mao tặc đầu trâu mặt ngựa, bèn điều tra hồ sơ vụ án thẩm vấn kĩ càng, biết được nỗi oan mơ hồ không rõ của Trương Lập Ba, cùng đường mới đi làm phi tặc, mặc dù gây án vô số ở thành Thiên Tân, nhưng có ba thứ đáng quý, thứ nhất không làm hại tới mạng người, thứ hai không vi phạm pháp lệnh, thứ ba đoạt được tang vật đều dùng để giúp đỡ nghèo khó. Huyện thái gia bội phục hiệp đạo như vậy, lại thưởng thức một thân kỹ năng của ông ta, bèn nói người lục lâm bỏ gian tà theo chính nghĩa chưa bao giờ thiếu, vẫn có thể bảo vệ quốc gia giúp đỡ dân, Trương Lập Ba ngươi có nguyện ý lập công chuộc tội, làm quan sai bắt trộm bắt gian hay không, cũng tiện cho phụng dưỡng mẹ già.

Trương Lập Ba quỳ xuống đất bẩm báo: “Đa tạ lão đại nhân khai ân, thế nhưng Trương Lập Ba tôi không có cái phúc ấy, không ăn được chén cơm này.” Tại sao nói như vậy chứ? Không phải ông ta xem thường quan sai, tuy rằng ông ta thay trời hành đạo, cướp của người giàu chia cho người nghèo, trừng trị bất nghĩa, nhưng mà nói dễ nghe đến đâu thì ông vẫn là tặc, hành tẩu giang hồ kết giao bằng hữu đều là người lục lâm, làm tặc và làm công, không thể hòa hợp như nước với lửa. Mặc dù trên người Trương Lập Ba không có mạng người, nhưng tiền tài bất nghĩa mấy năm nay đi ngàn nhà vào trăm hộ ăn cắp được, cộng lại cũng đủ mất đầu, không nghĩ tới Huyện thái gia thi ân ngoài vòng pháp luật, chừa cho ông ta một con đường sống. Không làm quan sai, thì có lỗi với Huyện thái gia; làm quan sai, không có mặt mũi đi gặp lục bằng hữu trong lục lâm, cái này đúng là tiến thối lưỡng nan. Trương Lập Ba cúi đầu lo nghĩ, cầu Huyện thái gia ban cho một chậu vôi, ông ta tự có lời giải thích. Huyện thái gia muốn nhìn xem ông ta tính làm thế nào, bèn phân phó hai bên đặt một chậu vôi trước mặt Trương Lập Ba. Trương Lập Ba nắm vôi lên, dụi mù hai mắt mình, tròng mắt chảy đầy bọt, nước vàng rơi đầy đất, ông ta lại không hề “hừ” một tiếng, khí không thay đổi, mặt không đổi sắc. Người trong nha môn đều xem choáng váng, từ trên xuống dưới không ai không phục, hai vốc vôi dụi mù một đôi mắt, không hừ một tiếng, đây là nhân vật bậc nào?

Huyện thái gia thở dài, thương thay Trương Lập Ba người mang tuyệt kỹ, kết quả là thành người mù mắt, vì vậy trên dưới chuẩn bị, giúp Trương Lập Ba kết án, thả ông ta trở về phụng dưỡng mẹ già. Trương Lập Ba đòi việc gác đêm ở miếu Thành Hoàng góc Tây Bắc, cưới một tiểu quả phụ làm vợ, lấy việc ghim người giấy ngựa giấy kiếm sống. Hai vợ chồng kể cả mẹ già, thuê một căn phòng ở cửa miếu, phi tặc Lập gia từ nay về sau biến thành Trương Mù ghim người giấy.

Huyện thái gia và quan sai nha môn chăm sóc Trương Mù không ít, bình thường hay đưa tiền đưa đồ, có án nào không phá được, quan phủ sẽ mời ông ta nghĩ kế, tìm cách, Trương Lập Ba cũng không phải lòng dạ sắt đá, suy bụng ta ra bụng người, nên giúp đã giúp. Ông ta vốn là làm tặc, hơn nữa còn được tôn sùng là nhân tài kiệt xuất trong ngành, trải qua chỉ điểm của hắn, tám chín phần mười có thể phá án được, có điều cũng không phải án nào ông ta cũng để ý, chỉ đối phó kẻ cắp làm loạn quy củ trên đường. Sư phụ của Lưu Hoành Thuận ở đội Truy nã, từng là dung sai trước cửa nha môn, cũng có giao tình với Trương Mù, vì vậy Lưu Hoành Thuận phải gọi Trương Mù một tiếng sư thúc, trước kia học không ít bản lĩnh với Trương Mù. Dân gian vẫn có câu, Trương Mù không chỉ ghim màu dán người giấy, còn là một người đi âm, chuyên bắt cô hồn dã quỷ miếu lớn không thu miếu nhỏ không lưu ở Cửu Hà hạ sao!

 

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương