Hoàng Tử Quỷ
-
Chương 31
Dưới chân dãy núi Alps của Thụy Sỹ có một ngôi làng nhỏ chừng bốn mươi hộ gia đình, phần lớn người dân trong làng là người già, vì thanh niên đều đã bỏ làng đến thành phố Bern gần đó cả rồi. Người dân trong làng sống bằng nghề chăn nuôi gia súc và làm phô mai. Phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng buồn, nhất là vào mùa lạnh, và mùa lạnh thì kéo dài suốt nửa năm. Khi đông đến, tuyết rơi ngập làng. Người dân trong làng đều quen biết nhau, họ thường chào nhau bằng một nụ cười và sau đó bắt đầu nói về thời tiết, chủ đề mà họ có thể trao đổi quanh năm, nếu là những người hàng xóm thân thiết thì họ sẽ mời người kia đến nhà ăn bữa cơm tối. Cuộc sống của họ bình yên, đơn điệu và buồn tẻ. Họ hiếm khi đi du lịch mà thường quanh quẩn cả đời trong làng, thỉnh thoảng mới đến các thành phố lớn ở Thụy Sỹ hoặc các nước láng giềng để biết chuyện đó đây rồi lại quay về và bằng lòng với công việc chăn bò vắt sữa.
Cuộc sống khép kín ấy đã có sự chấn động nho nhỏ khi một cặp vợ chồng người Nhật Bản chuyển đến cách đây hai năm. Cả hai đều còn rất trẻ. Người vợ tên là Akina Nakamori, người chồng tên là Keita Nakano. Nakano cả ngày chỉ ở trong nhà, công việc chính của anh ta là điêu khắc các sản phẩm gỗ thủ công để bán cho khách du lịch lấy một khoản tiền nhỏ, công việc phụ là trồng hoa. Dường như Nakano rất đam mê cây cảnh. Vào mỗi buổi sáng cuối tuần anh ta lại lên núi hái hoa Nhung Tuyết về trang trí khắp nơi và biến khoảng sân quanh ngôi nhà nhỏ bé của mình trở thành một vườn cây đủ sắc màu.
Nakamori là một người phụ nữ cương trực nhưng dễ chịu. Cô thích công việc của một người nông dân và thường phụ giúp ông Mario Adorf chăm sóc những con bò sữa. Ông Adorf có một người con gái rất tinh nghịch tên là Martha, lúc hai người mới đến cô bé mới có mười sáu tuổi, bây giờ đã lên tuổi mười tám và sắp sửa rời đến thành phố lớn nhất nước là Zurich để học trường nghệ thuật. Ước mơ của Martha là đi du lịch vòng quanh thế giới, và để làm được điều đó cô đã xin đi làm thêm ngay khi đủ tuổi. Cô còn từng đề nghị được giúp Nakano trong việc điêu khắc, nhưng Nakano từ chối.
Trong mắt của dân làng, vợ chồng Nakano là những người khá khác thường. Họ là người Nhật Bản nhưng chẳng bao giờ kể về đất nước Nhật Bản ngoại trừ những điều rất phổ thông và mơ hồ. Ngược lại, họ hiểu khá rõ về Việt Nam, đất nước mà cứ theo lời họ kể thì hai người đã đến làm việc ở đó một thời gian. Người vợ có thể nói về đất nước này hàng giờ, trong khi anh chồng ngồi tránh ra một góc và im lặng thưởng thức lon bia của mình như người không mấy quan tâm đến thế sự. Gương mặt của người chồng cũng không mang nhiều nét châu Á mà giống như con lai. Nếu chỉ nhìn mặt thì rất khó nhận ra anh ta là người quốc gia hay châu lục nào, tuy nhiên ai cũng phải công nhận rằng gương mặt của Nakano có nhiều nét đẹp rất kỳ lạ, gần như không thể tin được, ngay cả khi anh ta để râu ria xồm xoàm thì từ gương mặt ấy vẫn toát lên một vẻ gì đó gần như thoát tục.
Vào mỗi buổi chiều ngày chủ nhật, họ lại sang nhà Adorf chơi và nghe ông kể về thời gian ông còn làm việc cho một hãng luật ở Berlin. Hồi đó Adorf còn trẻ và nhiều nhiệt huyết, nhưng sau này ông đâm chán cuộc sống náo nhiệt chốn thị thành, ngược lại ông lại nảy ra lòng khao khát được làm một người nông dân và đó chính là lý do tại sao lại có Adorf chăn bò ngày hôm nay. Ông cùng vợ về làng Stein am Rhein khi đã bốn mươi tuổi, lập nên một trang trại nhỏ, năm năm sau bà Adorf hạ sinh Martha và từ đó đến nay cô bé vẫn là đứa con duy nhất của hai ông bà. Bà Adorf lấy họ theo chồng, còn tên đầy đủ hồi con gái của bà là Beatrice Portinari.Bà là một người phụ nữ gốc Ý rất đẹp và hiền dịu, nghe nói trước đây đã từng là niềm ao ước của bao chàng trai nhưng cuối cùng bà bị thu hút bởi lòng nhiệt tình và chân thành của ông Adorf, hơn nữa bà cũng rất thích cuộc sống ở một nông trại.
Phàm thứ người ta chán thì mình lại thèm. Martha khao khát được sống cuộc sống mà bố mẹ mình đã từ bỏ. Cô bé luôn ước mơ sẽ làm nên một sự nghiệp hiển hách, trở thành một ngôi sao điện ảnh và cưới một hoàng tử. Châu Âu là cái nôi của nền văn hóa quý tộc, xung quanh Thụy Sỹ vẫn còn hàng loạt nền quân chủ lập hiến như Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Luxembourg, Thụy Điển, Na Uy, nếu may mắn thì cô vẫn còn hy vọng vợt được một anh hoàng tử nào đó điển trai và hưởng thụ phần đời còn lại trong nhung lụa. Ông bà Adorf chỉ biết cười khi nghe giấc mộng của cô. Họ vẫn đối xử với cô như một nàng công chúa và Martha về cơ bản là một cô gái hồn nhiên, vui tươi, yêu đời ngoại trừ việc đôi khi hơi liều lĩnh và bất cẩn. Hồi còn con nít có lần cô tự ý trèo lên các rặng núi cao để chơi đùa cho đến khi tối mịt, để cả làng phải thắp đuốc đi tìm. Cô thích những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình ái. Cô bĩu môi với Nakano mỗi khi thấy bố mẹ mình than phiền về lượng du khách đổ về đây ngày càng nhiều như thể đó là điều đương nhiên và mọi người đừng nên bận tâm.
Ông Adorf là một người rất thích bia và cũng là người có tửu lượng rất cao. Ban đầu ông cho rằng sức uống của Nakano hẳn vào loại xoàng thôi, thế nên không mời bia nhiều, nhưng dần dần ông nhận ra rằng Nakano có thể uống từ sáng đến đêm, rồi lại từ đêm tới sáng không say. Có những lúc anh ta ngồi trên chiếc ghế đẩu, buồn mồm uống hết cốc này tới cốc khác cho tới khi trong nhà không còn lon bia nào, và đó là lúc mà ông Adorf chợt hiểu rằng chàng trai trẻ này là một người có cấu tạo thể chất đặc biệt. Anh ta luôn có vẻ như đang mang trong mình một tâm sự gì đó không thể chia sẻ được với ai và Adorf tôn trọng quyền riêng tư của anh ta nên chẳng bao giờ vặn hỏi. Mặc dù thoải mái khi ở một mình, Nakano hóa ra lại không phải là người thiếu hiểu biết hoặc kém thông minh, trên thực tế anh ta có nhiều quan điểm sắc sảo về cuộc sống, môi trường, giáo dục, anh ta cũng rất am hiểu về công việc nông trang tuy rằng chưa bao giờ trực tiếp chăn nuôi bất cứ con vật nào.
Buổi chiều hôm ấy, Adorf mang đến cho Nakano một lon bia và bảo:
- Cậu biết gì chưa? Nghe nói năm nay thời tiết sẽ khắc nghiệt. Tuyết sẽ rơi dày hơn thường lệ.
Nakano gật đầu:
- Tôi biết.
- Nói đến bão tuyết, thì cơn bão trên đỉnh K2 đã kéo dài hai năm. Mọi người đều nói đó là hiện tượng lạ thường, khoa học không giải thích được. Chẳng hiểu cơn bão lấy năng lượng từ đâu mà cứ kéo dài mãi, không tan đi mà cũng không mạnh lên, thậm chí nó cứ đứng nguyên một chỗ không chịu di chuyển. Kết quả là từ lâu rồi chẳng còn đoàn leo núi nào dám lên đó nữa.
- Đúng là kỳ lạ.
Nakano đáp và uống hết lon bia. Thấy thế, Martha liền mang cho anh một lon khác:
- Tuần sau em sẽ đi Zurich.
- Chúc mừng em.
- Còn anh thì sao? Em luôn cảm thấy anh không nên ở đây. Anh định lãng phí mấy chục năm nữa vào việc đục đẽo những khúc gỗ nhàm chán và ngắm hoa dại hay sao?
Ông Adorf nhăn mặt:
- Cẩn thận cái mồm.
- Không phải thế ạ? Chẳng phải bố mẹ cũng bảo không hiểu tại sao anh Nakano lại chịu ở đây sao? Có phải anh là tội phạm đang bỏ trốn không?
Nakano cười đáp:
- Tôi không phải tội phạm.
- Vậy anh là người tự kỷ? Tự kỷ không phải là điều xấu. Em chỉ muốn biết.
- Cũng không phải.
- Vậy tại sao anh ở đây?
- Bởi vì tôi yêu phong cảnh nơi này. Tôi cảm thấy mỗi phút giây ngồi trên triền đồi và nhìn về ngôi làng đều mang lại cảm giác bình yên và thư thái. Tôi yêu thích được nhẩn nha với thời gian thay vì đếm từng giây từng phút và nghĩ về những thứ mình sẽ mất đi khi chuông đồng hồ reo vang. Tôi sẽ không sống mãi, không ai trong chúng ta có thể sống mãi, bởi vậy mà tôi luôn trân trọng những nét đẹp phù du, tôi nhìn thấy cuộc đời mình trong những cánh hoa nở ra rồi tàn úa, và tôi luôn cố gắng giúp chúng lưu giữ vẻ đẹp ấy lâu nhất có thể.
- Anh nói như một ông già ấy, Nakano. Ngày mai em sẽ lên núi làm một đoạn video giới thiệu về làng mình, anh đi cùng em chứ?
- Tôi có chút việc bận. Nhưng mai em không nên đi.
- Vì sao?
- Tôi cảm nhận một cơn bão tuyết đang kéo đến.
- Dự báo thời tiết bảo phải ngày kia mới có bão.
- Thời tiết đôi khi thất thường, không thể tuyệt đối tin vào dự báo.
- Họ chưa bao giờ dự báo sai cả. Với cả bão tuyết kéo dài nhiều ngày, em không đợi được.
Nakano thở dài.
- Vậy thì hứa với tôi, em sẽ xuống núi trước ba giờ chiều.
Martha bướng bỉnh đáp:
- Em sẽ xuống khi đã xong việc.
Nakano đang cân nhắc nói thêm gì đó thì hai người phụ nữ đã mang đồ ăn lên. Bữa ăn của họ không thể thiếu phô mai, tối nay còn có thịt cừu và mỳ Ý được trộn sốt kem nấm, món ăn ưa thích nhất của ông Adorf. Bà Adorf kêu mọi người vào bàn ăn. Bà nghe được hết câu chuyện có phần căng thẳng giữa Nakano và con gái mình, và như mọi lần bà cố gắng đóng vai người hòa giải bằng thái độ vui vẻ và hiếu khách.
- Con bé lúc nào cũng vậy đấy. Từ bé nó đã sống theo ý mình.
Nakamori đáp:
- Bướng bỉnh là một dấu hiệu của người thành công, nhưng đừng có bướng quá. Thời tiết đôi khi thất thường, nên cẩn thận là hơn.
Lúc về, cô hỏi:
- Anh cảm nhận bão tuyết sẽ đến sớm ư?
- Đúng vậy. Anh hoàn toàn chắc chắn về điều đó.
- Martha ngang lắm. Con bé không nghe ai cả.
- Nó giống em.
- Em không ngang như vậy, hơn nữa em luôn nghe lời anh.
Nakano vuốt mái tóc cô. Lúc ở nhà, hai người đã không còn dùng tiếng Đức mà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt.
Người chồng là Hoàng tử Quỷ còn người vợ chính là Tuyết Lan. Trong hai năm qua, họ đã sống ở đây với thân phận của đôi vợ chồng người Nhật Bản để trốn tránh sự truy đuổi của kẻ thù. Kẻ thù của họ quá nhiều, cho dù Hoàng tử Quỷ mạnh đến đâu cũng không thể đấu lại được.
Sau khi đến đây, Hoàng tử Quỷ mất một tháng trời mới có thể tách linh hồn của Tuyết Lan ra khỏi con chim đỏ và khôi phục lại thần trí của cô. Quá trình ấy quá đỗi phức tạp, gần như làm cho tâm thần của hắn bị phân liệt. Bây giờ nghĩ lại hắn vẫn còn cảm thấy run rẩy.
Mọi chuyện bắt đầu vào thời điểm hắn tìm cách chạy trốn số Hai và Vua Quỷ. Hắn đã làm nổ tung các giọt Quỷ huyết, nhưng đó chỉ là hành động để che mắt, những hạt Quỷ huyết nhỏ li ti đã được hắn bố trí trôi nổi quanh người, vào thời điểm chạy trốn, những hạt Quỷ huyết li ti đã bao lại tạo thành tấm màn che đậy dấu vết cho hắn. Tấm màn này rất lợi hại, giống như mở một cánh cửa cho phép hắn bước thẳng đến vùng đất xa lạ mà không hề phải mất công di chuyển, cho dù kẻ thù của hắn đều rất lợi hại cũng không thể phát hiện ra được, tuy nhiên cách này phải trả giá quá lớn, tiêu hao hết một phần ba lượng máu trong cơ thể, rất may nhờ lột xác thành công mà hắn hồi phục được máu huyết như cũ.
Hắn chọn điểm đến một cách ngẫu nhiên. Đến nơi mới nhận ra ngôi làng này hẻo lánh, lạnh lẽo và buồn tẻ, nhưng chính vì thế mà lại cực kỳ thích hợp với lối sống mai danh ẩn tích của hắn. Hắn tận dụng thời gian tấm màn che vẫn còn hiệu quả, dựng nên một cái nhà, tự tạo cho mình một thân phận để bước vào cuộc sống trong làng. Sau đó mới bắt đầu quá trình cứu chữa cho Tuyết Lan.
Việc đầu tiên cần làm là tách các mảnh linh hồn hỗn tạp để tạo thành một linh hồn thuần khiết, việc này tuy không khó nhưng cực kỳ mất thời gian. Có thể nói rằng trong tổng số thời gian cần thiết là một tháng thì hắn đã dùng đến hai mươi chín ngày chỉ để tỉ mẩn gạt bỏ các mảnh linh hồn chim đỏ ra khỏi linh hồn Tuyết Lan. Càng làm, hắn càng nhận ra giai đoạn hai của quá trình này mới là điểm mấu chốt. Các mảnh linh hồn của Tuyết Lan đã bị đứt vỡ, tách rời, không có cách nào nối lại cho liền lạc để tạo thành một chỉnh thể có trí nhớ, tư duy và tình cảm như cũ; thứ mà hắn đang nhận được trên thực tế là một mớ hỗn độn, để dễ hiểu có thể ví chúng như những mảnh giấy vụn chui ra từ một cái máy cắt giấy. Làm thế nào mới có thể chắp nối các mảnh giấy vụn thành tờ giấy đẹp đẽ như cũ?
Cùng thời điểm ấy, hiệu lực của tấm màn che bắt đầu tiêu biến. Hắn chỉ còn đúng một ngày để cứu cô, sau ngày ấy, nếu hắn sử dụng quyền năng dù chỉ một chút thôi cũng sẽ đánh động những kẻ đáng sợ đang truy sát hắn và hắn sẽ lại phải bỏ trốn một lần nữa, hơn thế, lần này bỏ trốn chưa chắc đã thoát. Ít nhất thì hắn cũng không thể chạy trốn khỏi một số Hai đã hoàn toàn thức tỉnh.
Thời gian cấp bách và độ khó của vấn đề kết hợp lại khiến hắn như phát cuồng. Hắn giống như thí sinh chỉ còn năm phút nữa là phải nộp bài thi nhưng câu hỏi quan trọng nhất vẫn chưa tìm ra manh mối. Trong thời khắc quyết định, hắn chợt nảy ra một ý tưởng điên khùng. Hắn quyết định dung nhập các mảnh linh hồn của Tuyết Lan vào chính linh hồn mình, dùng dưỡng chất dạt dào của một trong những linh hồn hùng mạnh nhất thế giới để tẩm bổ cho linh hồn cô. Đó chỉ là hành động bột phát trong lúc bí bách, chưa được tính toán kỹ lưỡng. Mãi sau này hắn mới nhận ra đây là canh bạc chín phần thua, một phần thắng. Các mảnh linh hồn của Tuyết Lan khi được tắm trong linh hồn của hắn quả thật hồi sinh nhanh chóng, các mảnh vỡ liền mạch, tư duy và ký ức đồng thời tái hiện, mọi thứ diễn ra cực kỳ thuận lợi cho đến công đoạn cuối cùng là tách hồn thì hắn chợt nhận ra hắn không làm được.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook