Diary In Grey Tower
-
Chương 7
Edgar luôn lấy tôi làm người mẫu vẽ, sau này có bữa lật coi tập phác thảo của cậu ta, thấy bức vẽ một gã thanh niên lôi thôi nhếch nhác, gầy hom hem tiêu điều, tôi liền ý kiến: “Cậu lụt nghề hả? Tranh vẽ chả giống gì hết.”
Edgar nói ấy chính là bộ dạng của tôi từ cuối năm ba đến năm tư ở Cambridge. Bùng học, tóc không cắt, suốt ngày ngồi lì trong phòng sinh hoạt câu lạc bộ toán học cặm cụi giải mã, bữa trưa bữa tối toàn gặm bánh mì nướng tạm bợ với cà phê đen.
Mỗi tuần Lindon đến hai lần. Nửa đêm bọn tôi khóa cửa phòng sinh hoạt, cậu ta bắt đầu chép ra giấy những đoạn mã không giải được trong tuần theo trí nhớ, rồi đưa cho tôi, tôi đưa kết quả giải mã và những ý kiến nghĩ ra trong tuần trước cho cậu ta. Sau đó chúng tôi tự hủy giấy của mình.
Những mật mã này hầu hết là tôi giải một mình, một phần nhỏ là Lindon tự nghĩ ra, một phần nữa là không thể giải được, buộc phải để nguyên mà hủy.
Bọn tôi tắt đèn, Lindon thích nhất ngồi suy nghĩ và trao đổi trong bóng tối.
Lindon vô cùng sùng bái Andemund, nói rằng tự ảnh độc lập giải được rất nhiều mật mã cao cấp của nước ngoài, hơn nữa cách tư duy lại độc nhất vô nhị, giỏi như thần luôn… “Cả giáo trình huấn luyện thành viên mới của bọn tôi cũng do ngài ấy viết!”
Bóng tối có thể khiến tư duy người ta tập trung hơn rất nhiều, mà chìa khóa giải mã thường thường loáng lên trước mắt ta giống như một vệt sáng lòa trong đêm đen, khiến ta kích động vô cùng.
Mật mã Lindon mang đến cũng không khó lắm, thậm chí cấp độ còn thấp hơn mã số S tôi giải trước kia. Cậu ta vẫn là người mới, thành tích chưa có gì, không đời nào được tiếp cận với những thông tin cơ mật. Những đoạn tin tôi dịch được nhờ vào vốn tiếng Đức nghèo nàn của mình phần lớn đều là lệnh điều động nhân sự, trả lương và các món vay cho gián điệp ở hải ngoại, vân vân. Có một số tin còn nhắc đến cái tên “Ưng non” trong đoạn mã tôi giải hồi mới gặp Andemund. Người đó hình như đang được bố trí ở cạnh một đối tượng rất quan trọng, tổng cục tình báo Đức đã chấp nhận tăng lương cho hắn ta.
Đến một hôm, đột nhiên Lindon hớn hở đến tìm tôi, bảo tháng này thành tích của cậu ta đứng đầu cả đội, phải mời tôi ăn một bữa.
Những gì tôi làm cho cậu ta không phải một hai bữa cơm mà đền đáp được. Đói bụng tôi đã có Edgar để vay tiền, chưa bao giờ tôi phải sầu đời vì miếng ăn. Tôi giúp Lindon là để chứng minh với Andemund năng lực của tôi, và cả lòng trung thành với nước Anh.
Andemund, em đáng được tin tưởng, kể cả anh không tin em.
Lindon mời tôi đến một nhà hàng rất được gần đó. Giữa bữa, cậu ta ngậm bánh mì hỏi tôi: “Alan, cậu họ Castor hả?”
Tôi đáp: “Vớ vẩn.”
Cậu ta nghĩ nghĩ: “Họp đánh giá tháng này, ngài Garcia khen tôi, bảo tư duy giải mã của tôi rất tương đồng với phu nhân Castor… phu nhân Castor là chuyên gia giải mã rất nổi tiếng đó, cậu biết không? Tự dưng tôi nhớ ra hai người cùng họ.”
“Đó là mẹ tôi. Trước kia bà là chuyên viên nghiên cứu mật mã.” Tôi cố hết sức giữ giọng bình thản: “Bà mất năm tôi năm tuổi, nhưng chưa ai bảo với tôi… bà rất nổi tiếng.”
Kiến thức về mật mã của tôi phần lớn đều từ những ghi chép và sách mẹ tôi để lại, lối tư duy của tôi tương tự với bà là không thể tránh được.
Cánh tay đang với dĩa ăn của Lindon khựng lại.
“Xin lỗi nhé.” cậu ta phân bua.
“Không sao.” tôi nói.
“Ngài Garcia muốn chuyển tôi lên văn phòng số 1, công việc sau này chắc sẽ khó hơn nhiều.” cậu ta nói với vẻ ngượng nghịu: “Alan, cảm ơn cậu đã giúp tôi.”
Trang trại Plymton có rất nhiều đội giải mã, sắp xếp theo độ quan trọng từ văn phòng số 1 trở xuống, mỗi phòng được quản lý bởi một chuyên gia mật mã khác nhau. Văn phòng số 1 là đội trực thuộc Andemund, phụ trách dịch những mật mã cao cấp nhất.
“Vậy chắc là phải giải ‘Mê’.” tôi tiện miệng nói.
Trong một giây, biểu cảm trên mặt Lindon như kiểu cậu ta vừa thấy em bồi bàn không mặc quần áo.
“Báo có đăng mà.” tôi không thể nói Andemund nói cho tôi biết, đành phải giải thích: “Người Đức đưa loại mật mã thương mại này vào dùng trong quân đội, nghe nói là không thể giải được.”
Có ý kiến cho rằng, hệ thống mã hóa càng hoàn hảo càng không ngại bị công bố rộng rãi. Kể cả có được máy mã hóa hay một vài đoạn tin trao đổi thì phương pháp mã hóa phức tạp của nó cũng khiến ta bất lực. Người Đức vẫn tự tin vào khả năng mã hóa “Mê” của mình, vì vậy họ không hề giấu giếm sự tồn tại của nó.
Cậu ta thở phào: “Đúng là “Mê” đấy, bọn tôi vẫn luôn muốn giải nó.”
Nhà ăn rộng rãi sáng sủa, nhưng thực khách còn thưa thớt. Bọn tôi ngồi trong một góc chẳng ai để ý, lại vi phạm quy định của tổ chức, Lindon thì thào giải thích cho tôi nguyên lý mã hóa “Mê”. Cơ quan tình báo Balan phục chế được một cỗ máy mã hóa “Mê” từ Sứ quán Đức, còn cái chúng tôi đang có là phục chế lại từ chiếc phục chế đó.
Bề ngoài nó giống một cái máy chữ, cấu tạo gồm ba bánh quay chuyển hoán có khắc chữ cái, một bánh quay phản xạ, sáu ổ giắc và hai bảng chữ cái. Sáu ổ giắc quyết định sáu cặp chữ cái sẽ đổi vị trí lẫn nhau. Khi gõ một chữ cái lên bảng chữ cái A, qua bánh quay chuyển hoán và phản xạ, sẽ sinh ra ít nhất 4-7 dạng mã hóa, sau đó tín hiệu truyền đến bảng B, trở thành văn bản mã hóa.
“3 bánh quay chuyển hoán sẽ có 6 phương pháp sắp xếp, mỗi bánh quay chuyển hoán có 26 chữ cái.”
“17 576 cách chuyển động bánh quay.” Tôi thốt lên.
Lindon gật đầu: “Nhân lên sáu cặp chuyển hoán chữ cái sẽ thành… 105869…”
“1 058 691 676 442 000 khả năng.” tôi thấy não mình muốn nổ tung luôn.
Lindon nhún vai: “Rất nhiều người nói ngài Garcia đang phụ trách một mật mã cơ bản không thể giải được.”
Tôi nghĩ chỉ cần có Andemund ở đó, tuyệt đối không có mật mã không thể giải được. Nếu bảo về toán học tôi và Lindon là thiên tài, thì anh ấy phải là đồ biến thái. Trong khi bọn tôi còn đang mày mò tìm kiếm quy luật từ một đống số má lộn xộn, thì ảnh đã lập được một đội ngũ chuyên gia giải mã từ nhà toán học, ngôn ngữ học đến kiện tướng cờ vua, biến họ thành những bóng ma chẹn trên yết hầu người Đức trong đêm.
Sau khi vào văn phòng số 1, Lindon được tiếp xúc với thần tượng thường xuyên hơn. Đương nhiên là cậu ta rất hưng phấn, bởi vậy mỗi lần gặp mặt tôi lại bị bắt nghe cả đống chuyện về Andemund… nào ảnh công khai khen ngợi thành tích của Lindon (mà hầu hết là của tôi) trước mặt mọi người, nào ảnh cùng Lindon ăn tối… thật ra chỉ là uống cà phê, nào là ảnh giữ cậu ta lại bàn bạc công việc sau giờ cơm chiều. Riêng với chuyện cuối cùng, tôi hơi bực mình. Tôi vẫn nghĩ mình là người duy nhất được ở cạnh Andemund lúc anh ấy làm việc, giờ hiển nhiên là không phải thế.
Ý kiến Lindon tự đề xuất luôn luôn dở tệ, lắm lúc tôi tức quá, hỏi thẳng cậu ta: “Cuối cùng thì Andemund ưng ý cậu chỗ nào nhất hả?”
“Ngài ấy nói cách tư duy của tôi rất độc đáo, từ góc độ nào đó mà nói thì rất tương tự với ngài ấy.”
Một thời gian ngắn lúc đầu, tôi và Andemund đều bó tay với “Mê”. Sau khi có được máy mã hóa phục chế, điệp báo viên của anh ấy cung cấp cho chúng tôi rất nhiều văn bản mã hóa cũ từ cục mật mã Đức, lại được ảnh biến thái mò ra được luôn phương pháp mã hóa. Nhưng bảng mã “Mê” biến đổi mỗi ngày, chưa nói phương thức mã hóa quá sức phức tạp, bất kể việc chỉ cần đến đó thôi đã đủ vượt quá khả năng phân tích của chúng tôi.
“Mê” không chỉ đơn giản là một cái tên.
Sau đó đến một ngày, tôi chợt nghĩ đến những ghi chép của mẹ. Đó là mùa hè năm 1938, tôi đã đốt đến cuốn vở cuối cùng mẹ để lại. Nhớ đến ý tưởng lợi dụng công thức toán học để giải mã của bà, tôi định bám vào đó để suy diễn tiếp, rồi vận dụng vào “Mê”.
Tôi suy nghĩ rất lâu, viết hết những ý tưởng ấy ra được ba tờ bản thảo, bổ sung luận chứng nữa là tròn ba chục trang rồi đưa cho Lindon. Lindon coi nó như trò cười: “Quy nạp phương pháp giải “Mê” thành công thức số học á? Chà, cậu điên rồi Alan!”
Cuối cùng, sau nhiều sự nài nỉ lẫn quyết liệt yêu cầu, cậu ta cũng miễn cưỡng trình lý luận của tôi lên.
Trong ký ức của tôi, mùa hè năm 1938 vô cùng dịu dàng. Ánh mặt trời vẫn ấm áp, ngày lại không quá nóng nực. Tôi và Lindon đi cùng một số thành viên khác của câu lạc bộ toán học ra khỏi thư viện, nắng bên ngoài rọi chói mắt. Tôi thấy Andemund và xe của ảnh, đứng sừng sững cạnh thảm cỏ trước thư viện.
Tôi hoàn toàn không nghĩ anh ấy sẽ đến, thành ra đã bị sững người một hồi.
Lúc sau tôi lười biếng tiến về phía ảnh: “Chào người đẹp, nhớ em sao?”
Andemund liếc mắt nhìn tôi, như kiểu đang cười. Ảnh lướt qua tôi để đi thẳng đến trước mặt Lindon: “Công thức quy nạp lần trước cậu trình lên không tồi chút nào. Giờ sắp có họp khẩn, ta sẽ cùng về.”
Andemund chưa bao giờ cười cổ vũ tôi như thế. Ảnh lúc nào cũng nói, Alan, em còn nhỏ, Alan, cái đó không quan trọng, Alan, em không thể vào trang trại Plymton.
Tôi cũng chưa từng thấy Lindon cười lộ liễu như thế, một hàng răng trắng phô ra hết trơn.
Tôi nghe được họ nói với nhau lúc lên xe, giọng Andemund có vẻ rất sung sướng: “Lindon, lần trước phương pháp đặt vấn đề cậu nghĩ ra sau khi giam mình dưới gầm giường đúng là rất thú vị…”
Không thể nói là không có cảm giác gì. Tôi nhận ra hình như mình và Lindon đang đổi chỗ cho nhau mất rồi. Tôi suốt ngày ngồi thu lu trong phòng sinh hoạt câu lạc bộ toán học giải mã, trở nên giống hệt thằng Lindon lôi thôi lếch thếch, tóc tai bù xù như cỏ khô trước kia, còn Lindon lại bắt đầu xúng xính sơ-mi, quần âu, đàng hoàng và bóng bẩy như ai. Trước kia tôi vào quán bar còn được các em bồi bàn đá lông nheo chíu chíu, giờ tôi có tò tò bám theo mông con gái cũng chẳng ai thèm để mắt.
Đột nhiên có người vỗ vai, hại tôi suýt nhảy dựng.
“Hôm nay ngài Garcia đặc biệt đến quận Cambridge đón người ta đấy nhé.”
Là gã đeo kính gọng vàng đi theo Andemund lần trước.
Anh ta đi chung xe với Andemund tới, nhưng không về cùng.
“Alan, hai mắt cậu đang tóe lửa kìa.” anh ta cười tủm tỉm, chìa tay ra với tôi, tự giới thiệu: “Ta đã gặp nhau rồi, tôi là Arnold Visco, làm ở “Hội nghiên cứu golf và cờ vua”. Nghe nói cậu biết chỗ đó rồi.”
Tôi nhún nhún vai: “Hôm nay anh không mặc quân phục hả.”
Kính gọng vàng bữa nay mặc rất tùy tiện, áo ba lỗ đen khoác ngoài bằng sơ-mi rộng thùng thình. Anh ta cười hiền lành: “Bởi vì hôm nay tôi không tới gặp cậu dưới danh nghĩa trang trại Plymton, tôi chỉ đi xử lý việc riêng cho ngài Garcia.”
Arnold Visco là bác sĩ tâm lý của MI-6, phụ trách phân tích tình báo ở trang trại Plymton, thuộc quyền quản lý trực tiếp của Andemund.
“Việc riêng Andemund sai anh làm thì liên quan gì đến tôi?”
Chúng tôi vào ngồi quán rượu tôi vẫn ghé hồi trước. Gió xế trưa nóng quá, tôi gọi một vại bia thường, anh ta gọi Blue Margarita. Cằm Arnold nhọn hoắt, cặp mắt mảnh dài sau cái kính gọng vàng luôn nheo nheo lại, khiến người ta khó đoán được ý đồ của anh ta.
Có điều anh ta lại rất thẳng thắn: “Cậu biết đấy, tôi là bác sĩ tâm lý. Tình cảm của cậu với ngài Garcia làm phiền ngài ấy rất nhiều. Vậy nên ngài ấy bảo tôi… làm cho cậu không thích ngài ấy nữa.
Edgar nói ấy chính là bộ dạng của tôi từ cuối năm ba đến năm tư ở Cambridge. Bùng học, tóc không cắt, suốt ngày ngồi lì trong phòng sinh hoạt câu lạc bộ toán học cặm cụi giải mã, bữa trưa bữa tối toàn gặm bánh mì nướng tạm bợ với cà phê đen.
Mỗi tuần Lindon đến hai lần. Nửa đêm bọn tôi khóa cửa phòng sinh hoạt, cậu ta bắt đầu chép ra giấy những đoạn mã không giải được trong tuần theo trí nhớ, rồi đưa cho tôi, tôi đưa kết quả giải mã và những ý kiến nghĩ ra trong tuần trước cho cậu ta. Sau đó chúng tôi tự hủy giấy của mình.
Những mật mã này hầu hết là tôi giải một mình, một phần nhỏ là Lindon tự nghĩ ra, một phần nữa là không thể giải được, buộc phải để nguyên mà hủy.
Bọn tôi tắt đèn, Lindon thích nhất ngồi suy nghĩ và trao đổi trong bóng tối.
Lindon vô cùng sùng bái Andemund, nói rằng tự ảnh độc lập giải được rất nhiều mật mã cao cấp của nước ngoài, hơn nữa cách tư duy lại độc nhất vô nhị, giỏi như thần luôn… “Cả giáo trình huấn luyện thành viên mới của bọn tôi cũng do ngài ấy viết!”
Bóng tối có thể khiến tư duy người ta tập trung hơn rất nhiều, mà chìa khóa giải mã thường thường loáng lên trước mắt ta giống như một vệt sáng lòa trong đêm đen, khiến ta kích động vô cùng.
Mật mã Lindon mang đến cũng không khó lắm, thậm chí cấp độ còn thấp hơn mã số S tôi giải trước kia. Cậu ta vẫn là người mới, thành tích chưa có gì, không đời nào được tiếp cận với những thông tin cơ mật. Những đoạn tin tôi dịch được nhờ vào vốn tiếng Đức nghèo nàn của mình phần lớn đều là lệnh điều động nhân sự, trả lương và các món vay cho gián điệp ở hải ngoại, vân vân. Có một số tin còn nhắc đến cái tên “Ưng non” trong đoạn mã tôi giải hồi mới gặp Andemund. Người đó hình như đang được bố trí ở cạnh một đối tượng rất quan trọng, tổng cục tình báo Đức đã chấp nhận tăng lương cho hắn ta.
Đến một hôm, đột nhiên Lindon hớn hở đến tìm tôi, bảo tháng này thành tích của cậu ta đứng đầu cả đội, phải mời tôi ăn một bữa.
Những gì tôi làm cho cậu ta không phải một hai bữa cơm mà đền đáp được. Đói bụng tôi đã có Edgar để vay tiền, chưa bao giờ tôi phải sầu đời vì miếng ăn. Tôi giúp Lindon là để chứng minh với Andemund năng lực của tôi, và cả lòng trung thành với nước Anh.
Andemund, em đáng được tin tưởng, kể cả anh không tin em.
Lindon mời tôi đến một nhà hàng rất được gần đó. Giữa bữa, cậu ta ngậm bánh mì hỏi tôi: “Alan, cậu họ Castor hả?”
Tôi đáp: “Vớ vẩn.”
Cậu ta nghĩ nghĩ: “Họp đánh giá tháng này, ngài Garcia khen tôi, bảo tư duy giải mã của tôi rất tương đồng với phu nhân Castor… phu nhân Castor là chuyên gia giải mã rất nổi tiếng đó, cậu biết không? Tự dưng tôi nhớ ra hai người cùng họ.”
“Đó là mẹ tôi. Trước kia bà là chuyên viên nghiên cứu mật mã.” Tôi cố hết sức giữ giọng bình thản: “Bà mất năm tôi năm tuổi, nhưng chưa ai bảo với tôi… bà rất nổi tiếng.”
Kiến thức về mật mã của tôi phần lớn đều từ những ghi chép và sách mẹ tôi để lại, lối tư duy của tôi tương tự với bà là không thể tránh được.
Cánh tay đang với dĩa ăn của Lindon khựng lại.
“Xin lỗi nhé.” cậu ta phân bua.
“Không sao.” tôi nói.
“Ngài Garcia muốn chuyển tôi lên văn phòng số 1, công việc sau này chắc sẽ khó hơn nhiều.” cậu ta nói với vẻ ngượng nghịu: “Alan, cảm ơn cậu đã giúp tôi.”
Trang trại Plymton có rất nhiều đội giải mã, sắp xếp theo độ quan trọng từ văn phòng số 1 trở xuống, mỗi phòng được quản lý bởi một chuyên gia mật mã khác nhau. Văn phòng số 1 là đội trực thuộc Andemund, phụ trách dịch những mật mã cao cấp nhất.
“Vậy chắc là phải giải ‘Mê’.” tôi tiện miệng nói.
Trong một giây, biểu cảm trên mặt Lindon như kiểu cậu ta vừa thấy em bồi bàn không mặc quần áo.
“Báo có đăng mà.” tôi không thể nói Andemund nói cho tôi biết, đành phải giải thích: “Người Đức đưa loại mật mã thương mại này vào dùng trong quân đội, nghe nói là không thể giải được.”
Có ý kiến cho rằng, hệ thống mã hóa càng hoàn hảo càng không ngại bị công bố rộng rãi. Kể cả có được máy mã hóa hay một vài đoạn tin trao đổi thì phương pháp mã hóa phức tạp của nó cũng khiến ta bất lực. Người Đức vẫn tự tin vào khả năng mã hóa “Mê” của mình, vì vậy họ không hề giấu giếm sự tồn tại của nó.
Cậu ta thở phào: “Đúng là “Mê” đấy, bọn tôi vẫn luôn muốn giải nó.”
Nhà ăn rộng rãi sáng sủa, nhưng thực khách còn thưa thớt. Bọn tôi ngồi trong một góc chẳng ai để ý, lại vi phạm quy định của tổ chức, Lindon thì thào giải thích cho tôi nguyên lý mã hóa “Mê”. Cơ quan tình báo Balan phục chế được một cỗ máy mã hóa “Mê” từ Sứ quán Đức, còn cái chúng tôi đang có là phục chế lại từ chiếc phục chế đó.
Bề ngoài nó giống một cái máy chữ, cấu tạo gồm ba bánh quay chuyển hoán có khắc chữ cái, một bánh quay phản xạ, sáu ổ giắc và hai bảng chữ cái. Sáu ổ giắc quyết định sáu cặp chữ cái sẽ đổi vị trí lẫn nhau. Khi gõ một chữ cái lên bảng chữ cái A, qua bánh quay chuyển hoán và phản xạ, sẽ sinh ra ít nhất 4-7 dạng mã hóa, sau đó tín hiệu truyền đến bảng B, trở thành văn bản mã hóa.
“3 bánh quay chuyển hoán sẽ có 6 phương pháp sắp xếp, mỗi bánh quay chuyển hoán có 26 chữ cái.”
“17 576 cách chuyển động bánh quay.” Tôi thốt lên.
Lindon gật đầu: “Nhân lên sáu cặp chuyển hoán chữ cái sẽ thành… 105869…”
“1 058 691 676 442 000 khả năng.” tôi thấy não mình muốn nổ tung luôn.
Lindon nhún vai: “Rất nhiều người nói ngài Garcia đang phụ trách một mật mã cơ bản không thể giải được.”
Tôi nghĩ chỉ cần có Andemund ở đó, tuyệt đối không có mật mã không thể giải được. Nếu bảo về toán học tôi và Lindon là thiên tài, thì anh ấy phải là đồ biến thái. Trong khi bọn tôi còn đang mày mò tìm kiếm quy luật từ một đống số má lộn xộn, thì ảnh đã lập được một đội ngũ chuyên gia giải mã từ nhà toán học, ngôn ngữ học đến kiện tướng cờ vua, biến họ thành những bóng ma chẹn trên yết hầu người Đức trong đêm.
Sau khi vào văn phòng số 1, Lindon được tiếp xúc với thần tượng thường xuyên hơn. Đương nhiên là cậu ta rất hưng phấn, bởi vậy mỗi lần gặp mặt tôi lại bị bắt nghe cả đống chuyện về Andemund… nào ảnh công khai khen ngợi thành tích của Lindon (mà hầu hết là của tôi) trước mặt mọi người, nào ảnh cùng Lindon ăn tối… thật ra chỉ là uống cà phê, nào là ảnh giữ cậu ta lại bàn bạc công việc sau giờ cơm chiều. Riêng với chuyện cuối cùng, tôi hơi bực mình. Tôi vẫn nghĩ mình là người duy nhất được ở cạnh Andemund lúc anh ấy làm việc, giờ hiển nhiên là không phải thế.
Ý kiến Lindon tự đề xuất luôn luôn dở tệ, lắm lúc tôi tức quá, hỏi thẳng cậu ta: “Cuối cùng thì Andemund ưng ý cậu chỗ nào nhất hả?”
“Ngài ấy nói cách tư duy của tôi rất độc đáo, từ góc độ nào đó mà nói thì rất tương tự với ngài ấy.”
Một thời gian ngắn lúc đầu, tôi và Andemund đều bó tay với “Mê”. Sau khi có được máy mã hóa phục chế, điệp báo viên của anh ấy cung cấp cho chúng tôi rất nhiều văn bản mã hóa cũ từ cục mật mã Đức, lại được ảnh biến thái mò ra được luôn phương pháp mã hóa. Nhưng bảng mã “Mê” biến đổi mỗi ngày, chưa nói phương thức mã hóa quá sức phức tạp, bất kể việc chỉ cần đến đó thôi đã đủ vượt quá khả năng phân tích của chúng tôi.
“Mê” không chỉ đơn giản là một cái tên.
Sau đó đến một ngày, tôi chợt nghĩ đến những ghi chép của mẹ. Đó là mùa hè năm 1938, tôi đã đốt đến cuốn vở cuối cùng mẹ để lại. Nhớ đến ý tưởng lợi dụng công thức toán học để giải mã của bà, tôi định bám vào đó để suy diễn tiếp, rồi vận dụng vào “Mê”.
Tôi suy nghĩ rất lâu, viết hết những ý tưởng ấy ra được ba tờ bản thảo, bổ sung luận chứng nữa là tròn ba chục trang rồi đưa cho Lindon. Lindon coi nó như trò cười: “Quy nạp phương pháp giải “Mê” thành công thức số học á? Chà, cậu điên rồi Alan!”
Cuối cùng, sau nhiều sự nài nỉ lẫn quyết liệt yêu cầu, cậu ta cũng miễn cưỡng trình lý luận của tôi lên.
Trong ký ức của tôi, mùa hè năm 1938 vô cùng dịu dàng. Ánh mặt trời vẫn ấm áp, ngày lại không quá nóng nực. Tôi và Lindon đi cùng một số thành viên khác của câu lạc bộ toán học ra khỏi thư viện, nắng bên ngoài rọi chói mắt. Tôi thấy Andemund và xe của ảnh, đứng sừng sững cạnh thảm cỏ trước thư viện.
Tôi hoàn toàn không nghĩ anh ấy sẽ đến, thành ra đã bị sững người một hồi.
Lúc sau tôi lười biếng tiến về phía ảnh: “Chào người đẹp, nhớ em sao?”
Andemund liếc mắt nhìn tôi, như kiểu đang cười. Ảnh lướt qua tôi để đi thẳng đến trước mặt Lindon: “Công thức quy nạp lần trước cậu trình lên không tồi chút nào. Giờ sắp có họp khẩn, ta sẽ cùng về.”
Andemund chưa bao giờ cười cổ vũ tôi như thế. Ảnh lúc nào cũng nói, Alan, em còn nhỏ, Alan, cái đó không quan trọng, Alan, em không thể vào trang trại Plymton.
Tôi cũng chưa từng thấy Lindon cười lộ liễu như thế, một hàng răng trắng phô ra hết trơn.
Tôi nghe được họ nói với nhau lúc lên xe, giọng Andemund có vẻ rất sung sướng: “Lindon, lần trước phương pháp đặt vấn đề cậu nghĩ ra sau khi giam mình dưới gầm giường đúng là rất thú vị…”
Không thể nói là không có cảm giác gì. Tôi nhận ra hình như mình và Lindon đang đổi chỗ cho nhau mất rồi. Tôi suốt ngày ngồi thu lu trong phòng sinh hoạt câu lạc bộ toán học giải mã, trở nên giống hệt thằng Lindon lôi thôi lếch thếch, tóc tai bù xù như cỏ khô trước kia, còn Lindon lại bắt đầu xúng xính sơ-mi, quần âu, đàng hoàng và bóng bẩy như ai. Trước kia tôi vào quán bar còn được các em bồi bàn đá lông nheo chíu chíu, giờ tôi có tò tò bám theo mông con gái cũng chẳng ai thèm để mắt.
Đột nhiên có người vỗ vai, hại tôi suýt nhảy dựng.
“Hôm nay ngài Garcia đặc biệt đến quận Cambridge đón người ta đấy nhé.”
Là gã đeo kính gọng vàng đi theo Andemund lần trước.
Anh ta đi chung xe với Andemund tới, nhưng không về cùng.
“Alan, hai mắt cậu đang tóe lửa kìa.” anh ta cười tủm tỉm, chìa tay ra với tôi, tự giới thiệu: “Ta đã gặp nhau rồi, tôi là Arnold Visco, làm ở “Hội nghiên cứu golf và cờ vua”. Nghe nói cậu biết chỗ đó rồi.”
Tôi nhún nhún vai: “Hôm nay anh không mặc quân phục hả.”
Kính gọng vàng bữa nay mặc rất tùy tiện, áo ba lỗ đen khoác ngoài bằng sơ-mi rộng thùng thình. Anh ta cười hiền lành: “Bởi vì hôm nay tôi không tới gặp cậu dưới danh nghĩa trang trại Plymton, tôi chỉ đi xử lý việc riêng cho ngài Garcia.”
Arnold Visco là bác sĩ tâm lý của MI-6, phụ trách phân tích tình báo ở trang trại Plymton, thuộc quyền quản lý trực tiếp của Andemund.
“Việc riêng Andemund sai anh làm thì liên quan gì đến tôi?”
Chúng tôi vào ngồi quán rượu tôi vẫn ghé hồi trước. Gió xế trưa nóng quá, tôi gọi một vại bia thường, anh ta gọi Blue Margarita. Cằm Arnold nhọn hoắt, cặp mắt mảnh dài sau cái kính gọng vàng luôn nheo nheo lại, khiến người ta khó đoán được ý đồ của anh ta.
Có điều anh ta lại rất thẳng thắn: “Cậu biết đấy, tôi là bác sĩ tâm lý. Tình cảm của cậu với ngài Garcia làm phiền ngài ấy rất nhiều. Vậy nên ngài ấy bảo tôi… làm cho cậu không thích ngài ấy nữa.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook