Diary In Grey Tower
-
Chương 5
Tôi đứng cạnh cửa sổ, thấy xe Andemund đã xuất hiện từ đầu đường, rồi dừng bánh dưới tầng. Xuống xe, ảnh ngẩng lên nhìn thấy tôi, mỉm cười. Lát sau anh ấy đẩy cửa bước vào, ngồi xuống sô pha, có vẻ mệt mỏi: “Alan, em tới thì nói với anh một tiếng chứ.”
Tôi chìa tấm hình cho anh ấy: “Nhét trong khung ảnh kia. Em tưởng anh không quen mẹ em?”
Đang nới cà-vạt, Andemund chợt khựng lại. Anh ấy cầm bức hình, gương mặt bỗng nhiên trở nên quái lạ. Tôi vẫn đợi anh ấy giải thích, nhưng ảnh chỉ rút cuốn Emile của Jean-Jacques Rousseau khỏi giá sách, rồi cẩn thận cất tấm ảnh vào đó.
“Em không nên tự tiện lục đồ của anh.” anh ấy mở cửa ra: “Để Annie dẫn em lên nhà ăn trên lầu. Trưa nay đợi anh, tối muốn ăn gì?”
Tôi quyết không để ảnh lảng chuyện: “Cái ảnh ấy em cũng chưa thấy bao giờ.”
Andemund gật đầu: “Vậy à?”
Tôi cũng chẳng biết phải nói gì nữa, rốt cuộc trước Andemund tôi luôn cảm thấy nhụt chí như thế. Tôi không hiểu vì sao anh ấy giữ một bức ảnh từ bao nhiêu năm trước của mẹ tôi bên cạnh, không hiểu thực ra anh ấy là ai, kể cả vì sao anh ấy đồng ý thử yêu tôi, anh ấy có tình cảm với tôi thật hay không tôi cũng không biết. Chậm chạp lê bước ra cửa, đột nhiên tôi nghe giọng anh ấy vang lên sau lưng:
“Đây là hình phu nhân Castor chụp khi tham dự lễ trao huân chương số học Pulitzer của anh, lúc đó em mới năm tuổi. Anh đã rất ngưỡng mộ những quan điểm của mẹ em về mật mã học. Bà ấy là thần tượng của anh thời thanh niên… chỉ đơn thuần về học thuật mà thôi.”
Ra hành lang tôi gặp Lindon Brown. Cậu ta ôm một tập sách đi sượt qua tôi. Cả hai chúng tôi đều kinh ngạc. Gần đây tôi không thấy cậu ta, cứ nghĩ cậu ta lại bùng tiết nữa rồi. Không ngờ là đến đây.
“Cậu chứng minh được Vấn đề của Warren rồi à?!”
Lindon thận trọng đặt chồng sách trong lòng xuống bậu cửa sổ: “Cậu chứng minh ra rồi sao?!”
Chúng tôi cùng lắc đầu quầy quậy.
“Một số dữ kiện quan trọng không giống. Tôi liệt kê ra mọi điểm có thể chứng minh được, rồi nhờ trường chuyển cho giáo sư, sau đó thì được đưa đến đây. Cậu thì sao?”
Tôi nhún vai: “Tôi lấy mấy dữ kiện quan trọng ấy làm số điện thoại, gọi thì tới đây. Tôi cũng muốn vào, cơ mà ngài Garcia không thèm tôi. Nhưng tôi sắp giải xong mã số S rồi, nhất định ổng sẽ đổi ý.”
Lindon nhìn tôi hết sức kỳ dị: “Không thể nào, Alan. Cậu đã được đào tạo đâu, làm sao giải được mật mã cao cấp như thế? Những chuyện ấy đừng nói giỡn.” Cậu ta lại vội vàng ôm sách lên: “Sắp đến giờ tập huấn rồi, tôi đi đây.”
Đến bữa ăn, tôi ấm ức trách Andemund: “Sao Lindon thì được mà em anh lại không muốn?”
Ảnh nheo mắt cười, hôn má tôi: “Cưng à, không phải mình đang yêu nhau sao?”
“Em giải được S rồi, sao vẫn không cho em vào trang trại Plymton?… rõ ràng anh đã bảo nó rất khó mà!”
Andemund gật đầu, lại cười: “Ừm, anh đã nói vậy. Nhưng nó chỉ được sử dụng trong bộ phận khí tượng của hải quân, vốn không có gì quan trọng cả.”
“Không quan trọng sao còn bảo em giải! Mẹ kiếp sao anh không tự đi mà làm!”
Câu trả lời của ảnh rất đương nhiên, ấy là vì ảnh bận.
“Nếu anh tập trung hết sức, không cần đến ba tháng, có lẽ chỉ ba tuần sẽ giải xong. Hơn nữa dưới anh còn cả một đội chuyên gia mật mã… có điều hầu hết những đoạn mã đó đã quá lâu rồi, mà trọng tâm công việc của anh không phải chỉ có thế.” Andemund bước tới, ôm vai tôi, rồi cúi xuống hôn tôi.
“Alan, em rất xuất sắc, xuất sắc còn hơn anh tưởng. Nhưng em không thể vào trang trại Plymton.”
Đây là lần đầu tiên Andemund chủ động hôn tôi.
Anh ấy hôn rất nhẹ. Dường như còn muốn cho tôi thời gian thích ứng, mới đầu chỉ là khẽ chạm môi một chút, rồi khéo léo trượt lưỡi vào, nhẹ nhàng tiếp xúc với đầu lưỡi tôi. Mỗi cử động dù thật nhỏ của lưỡi anh ấy đều có thể khiến toàn thân tôi run rẩy.
Nụ hôn của Andemund thật thanh khiết, khiến tôi nhớ đến những buổi nghỉ mát ở biệt thự bên bờ biển, để gió biển khoan khoái phả trên mặt mỗi lần mở cửa sổ ra. Quần áo anh ấy vẫn luôn mang mùi hương dịu mát của lá cây râm như thế. Tôi muốn hôn lại anh ấy, nhưng quyền chủ động không thuộc về tôi. Cánh tay anh ấy ôm ngang thắt lưng tôi quá mạnh, anh ấy ép tôi tì người lên cửa sổ, làm tôi không cách nào cử động được.
Trong trí nhớ của tôi, nụ hôn ấy rất dài, cho đến khi anh ấy buông ta, tôi đã muốn thở hết nổi.
Như thể một nụ hôn giã biệt.
“Alan, cha mẹ em… không mất trong hỏa hoạn. Họ đưa em về vùng quê Bedford là để bảo vệ em. Dòng họ Castor đã hy sinh hai con người cho nước Anh, anh không hy vọng em trở thành người thứ ba. Nơi này một khi đã dấn thân vào, em sẽ không thể bước ra được nữa.”
“Nếu em chỉ là chán số học, cảm thấy mật mã thú vị hơn…” anh ấy nói: “Em có thể đến biệt thự của anh, ở đó có rất nhiều mật mã giống như S để em giải trí.”
Andemund nói đúng. Trang trại Plymton là trường dạy mật mã chính quy của MI-6, nơi một khi đã bước vào, rất khó để thoát ra.
“Alan, ở đây người ta làm việc vì tổ quốc. Mạng sống của em sẽ không còn thuộc về em nữa.” Giọng Andemund thật nhẹ: “Sẽ có gián điệp nước ngoài âm mưu tiếp cận em. Nếu cần thiết, cuộc sống riêng tư của em cũng bị giám sát. Nếu bị phán quyết phản quốc, em sẽ bị xử lý trong im lặng. Nếu cấp trên nghi ngờ em phản quốc mà không có chứng cứ, rất có thể có một ngày em sẽ bất cẩn ngã khỏi xe khách, vừa hay gãy cổ. Đó là quy định của tổ chức, vì sự an toàn của tất cả mọi người.”
Tôi hỏi vặn lại anh ấy: “Sắp đặt tai nạn để giải quyết thành viên không còn được tín nhiệm… anh là người ra những mệnh lệnh ấy hả?”
Andemund cụp mắt, che đậy hai con ngươi màu lục sẫm.
Anh ấy im lặng hồi lâu, tôi đã cho rằng ảnh sẽ không nói nữa, rồi lại nghe anh ấy trả lời: “Không phải toàn bộ, nhưng anh đã từng ra lệnh. Có điều mệnh lệnh với cha mẹ em không phải anh đưa ra. Khi đó anh chưa đến trang trại Plymton.”
Mệnh lệnh với cha mẹ em không phải anh đưa ra.
Peter lái xe đưa tôi về Cambridge. Nhiều ngày sau đó tôi hoàn toàn chán đời. Edgar lôi tôi dậy từ trên giường, nhồi tôi vào áo quần, rồi quẳng tôi xuống quán bar, chuốc tôi uống. Bar rất đông, một nàng gái gọi nóng bỏng lại gần bọn tôi, ngỏ ý hỏi có thể mời nàng một ly không. Quả nhiên là người đẹp, ngực đồ sộ, mà tôi không ưa mùi son phấn trên người cô ta.
Edgar khuyên tôi hãy bình thường chút đi.
“Cả con gái cậu cũng chán rồi.” Cậu ta nói.
Từ hôm đó tôi không hề chủ động liên lạc với Andemund nữa. Anh ta nói thì khéo léo lắm, nhưng tôi thừa hiểu. Tôi không thể vào trang trại Plymton, không phải vì khả năng của tôi không đủ, mà là Andemund không tin tôi. Anh ta đi điều tra lý lịch tôi, cha mẹ tôi có tì vết, họ không chết vì hỏa hoạn, mà là bị cơ quan tình báo của chính phủ “xử lý” vì tình nghi họ để lộ thông tin.
Andemund nói quá rõ ràng, tôi có vết nhơ trong lý lịch. Một ngày không còn được tín nhiệm, rất có thể tôi cũng sẽ bị chính phủ “xử lý” giống như cha mẹ mình.
Mệnh lệnh đó sẽ từ chính anh ấy.
Tôi tin rằng điều ấy với tôi, với cả anh ấy mà nói, đều là một sự dằn vặt. Mà tôi theo đuổi anh ấy, thật tình cũng là một nỗi phiền nhiễu ghê gớm với Andemund.
“Tôi không thích Andemund nữa.” Tôi thề thốt với Edgar: “Từ sau nếu cậu thấy tôi đi London, phải lôi tôi xuống xe. Nếu tôi chống cự, cho cậu đánh tôi một trận.”
Mùa hè năm ấy qua rất nhanh. Chớp mắt đã thấy lá thu rụng đầy mặt đất. Cambridge cũng có rất nhiều quán rượu nhỏ yên tĩnh, ngoài cửa treo chùm chuông gió thủy tinh, mỗi lần gió thổi thì kêu lanh canh trong vắt. Từ bữa Edgar lôi tôi xuống quán bar, tôi cũng ít muốn bỏ đi đâu khác. Vốn chỉ định xuống uống một ly nhỏ, nhưng bất giác cứ thế ngồi đến lúc mặt trời lặn. Khách về hết cả, bóng ghế dựa tà tà ngả xiêu vẹo từ đầu này qua đầu kia phòng.
Tôi cho rằng mình vốn không phải đồng tính luyến ái, chẳng qua số xui xẻo, tự dưng Andemund lại là đàn ông. Nhưng Cambridge ít sinh viên nữ, thành ra dân đồng tính ngầm không hề thiếu.
Có bữa tôi đã uống rất nhiều, một gã sinh viên cao lớn đến gần ghé sát cạnh tôi bảo, cưng à, gần đây có nhà trọ qua đêm được đấy, muốn đi chơi không?
Lúc ấy là chập tối, ngoài trời gió to, trong quán chỉ có hai chúng tôi là khách. Chủ quán hình như đang đứng xa xa cặm cụi chùi ly. Mới đầu tôi không hiểu hắn ta định làm gì, đến khi hắn xốc tôi đang ngồi nhũn một đống trên ghế dậy, tha tôi ra cửa.
Dù khổ vai hắn rất rộng, coi bộ khỏe ra trò, nhưng tôi nghĩ mình dư sức ẩu đả với hắn một trận… ấy là nếu tôi chưa uống nhiều như này.
Nốc lắm rum quá, tôi đứng dậy mới thấy đầu óc choáng váng. Hắn ta cười cười đỡ tôi, còn thừa dịp thò tay vào áo tôi.
Hình như lúc ấy uống nhiều thật, tôi nghĩ mình nhìn thấy chiếc xe màu đen của Andemund chạy đến, cán vụn lá khô, rồi dừng ngoài cửa quán rượu. Peter xuống xe, mặt lạnh như tiền mở cửa sau. Andemund bước xuống, đi qua cánh cửa kính quay tròn để tiến về phía tôi. Peter thụi cho gã sinh viên kia một đấm, lôi hắn quăng ra cửa, rồi xốc tôi ngồi xuống ghế.
Từ đầu đến cuối Andemund chỉ đứng tựa vào quầy bar, không nói lời nào. Hôm ấy anh ấy mặc Âu phục màu trắng, thắt cà vạt đen mảnh, tay đút túi quần. Khi những cuộn lá vàng theo gió cuốn qua ô cửa sổ sau lưng anh ấy, trông anh ấy như được chạm nổi giữa một khung tranh.
Rốt cuộc anh ấy nói: “Alan, bỏ anh, không có nghĩa là em được tùy tiện tìm đàn ông.”
Edgar thuyết phục tôi rằng ấy đích thị là tôi xỉn quá nên bị ảo giác. Bởi vì chính là cậu ấy đưa tôi từ quán rượu về nhà trọ, chỉ thấy tôi nằm bò trên bàn ngủ như lợn chết, chẳng có chuyện gì xảy ra hết.
Cậu ta ném tôi lên giường, đấm tôi một cú, đánh đến tôi tỉnh thì thôi. Mở mắt dậy, thấy Edgar đang lật coi sổ tay của tôi. Tôi giật lại, cậu ấy xòe tay: “Viết cái gì tôi đọc chẳng hiểu.”
Hôm sau tôi hủy hết mọi giấy tờ ghi chép quá trình giải mã số S.
“Cứ thế này học kỳ này của cậu tiêu rồi.” Edgar vẽ bộ dạng say khướt của tôi thành tranh đả kích, xong lấy ra dọa tôi: “Nếu cậu dám học lại, tôi sẽ chép bức này thành một trăm bản, dán khắp đường ngang ngõ tắt Cambridge.”
Tôi lại đụng độ Lindon. Cậu ta vác quả đầu cỏ khô đến nhận bằng tốt nghiệp, từ sau này sẽ vào trang trại Plymton, phục vụ tổ quốc. Bọn tôi trước giờ không quá ưa nhau, nhưng cũng không đến nỗi kiềng mặt. Cậu ta hỏi lại chuyện tôi nói về mã số S lần trước, tôi nhún vai: “Giỡn đó.”
Lindon cười toe, khoe mấy cái răng trắng, rồi chỉ chỉ tôi: “Cuối cùng cậu thua nhé, tôi vào trang trại Plymton, cậu bị loại rồi.”
Tôi hỏi đùa Edgar, nếu cha mẹ cậu bị tình nghi phản quốc, cậu sẽ làm gì?
Edgar đang vẽ, tôi làm người mẫu miễn phí, đứng một tư thế độ khó hơi bị cao. Đột nhiên cậu ta dừng lại, quay sang ôm tôi, thở dài: “Cha mẹ mình còn không tin, cậu sẽ tin ai nữa đây? Phải không, Alan?”
Khi cậu ta thở dài, tôi thực sự cảm thấy điều gì đó trong ánh mắt cậu ta. Hoàn cảnh gia đình Edgar tôi vốn chẳng biết gì. Chỉ biết nhà cậu ta không dư giả, trước nay vẫn tự bán tranh để đóng học phí. Cậu ta quen thân với mọi phòng triển lãm ở đây, vẫn thường mang tranh vẽ xong đi bán, xong lại bê tranh của người khác về vẽ lại.
Tôi từng xem tranh của cậu ta, có phong cảnh, có sự vật, có chân dung, lắm khi tranh vẽ tôi cậu ta cũng đem bán lấy tiền luôn. Còn cả mấy bức trường phái ấn tượng, lúc ấy là một môn tiên phong trong giới mỹ thuật tạo hình, toàn là những đường màu vòng vèo lẫn lộn nhìn không hiểu nổi. Tôi vẫn bảo tranh ấn tượng thì để đó tôi làm giùm cho cũng được, riêng cái ấy tôi biết vẽ từ hồi ba tuổi.
Giáng sinh tôi về nhà chú ở Bedford hai tuần. Edgar không về nhà, ở lại nhà trọ bán tranh. Hai tuần sau tôi trở lại, cậu ta nói Andemund đến tìm tôi. Anh ấy đến một mình.
“Tôi bảo cậu về nhà rồi, anh ta đi luôn.”
Lúc ấy là năm 1937, ba đế quốc đang trỗi dậy, Italia ly khai Liên minh Quốc tế, ký kết đồng minh quân sự với Đức và Nhật, Tây Ban Nha xảy ra nội chiến.
Tôi gửi hai hòm đựng sách và các ghi chép của cha mẹ ở Bedford lên London, bắt đầu quá trình học tập dài đằng đẵng. Đọc xong quyển nào tôi đốt quyển đó, đến mùa hè năm 1938, chính thức đốt hết hai hòm sách.
Tôi chìa tấm hình cho anh ấy: “Nhét trong khung ảnh kia. Em tưởng anh không quen mẹ em?”
Đang nới cà-vạt, Andemund chợt khựng lại. Anh ấy cầm bức hình, gương mặt bỗng nhiên trở nên quái lạ. Tôi vẫn đợi anh ấy giải thích, nhưng ảnh chỉ rút cuốn Emile của Jean-Jacques Rousseau khỏi giá sách, rồi cẩn thận cất tấm ảnh vào đó.
“Em không nên tự tiện lục đồ của anh.” anh ấy mở cửa ra: “Để Annie dẫn em lên nhà ăn trên lầu. Trưa nay đợi anh, tối muốn ăn gì?”
Tôi quyết không để ảnh lảng chuyện: “Cái ảnh ấy em cũng chưa thấy bao giờ.”
Andemund gật đầu: “Vậy à?”
Tôi cũng chẳng biết phải nói gì nữa, rốt cuộc trước Andemund tôi luôn cảm thấy nhụt chí như thế. Tôi không hiểu vì sao anh ấy giữ một bức ảnh từ bao nhiêu năm trước của mẹ tôi bên cạnh, không hiểu thực ra anh ấy là ai, kể cả vì sao anh ấy đồng ý thử yêu tôi, anh ấy có tình cảm với tôi thật hay không tôi cũng không biết. Chậm chạp lê bước ra cửa, đột nhiên tôi nghe giọng anh ấy vang lên sau lưng:
“Đây là hình phu nhân Castor chụp khi tham dự lễ trao huân chương số học Pulitzer của anh, lúc đó em mới năm tuổi. Anh đã rất ngưỡng mộ những quan điểm của mẹ em về mật mã học. Bà ấy là thần tượng của anh thời thanh niên… chỉ đơn thuần về học thuật mà thôi.”
Ra hành lang tôi gặp Lindon Brown. Cậu ta ôm một tập sách đi sượt qua tôi. Cả hai chúng tôi đều kinh ngạc. Gần đây tôi không thấy cậu ta, cứ nghĩ cậu ta lại bùng tiết nữa rồi. Không ngờ là đến đây.
“Cậu chứng minh được Vấn đề của Warren rồi à?!”
Lindon thận trọng đặt chồng sách trong lòng xuống bậu cửa sổ: “Cậu chứng minh ra rồi sao?!”
Chúng tôi cùng lắc đầu quầy quậy.
“Một số dữ kiện quan trọng không giống. Tôi liệt kê ra mọi điểm có thể chứng minh được, rồi nhờ trường chuyển cho giáo sư, sau đó thì được đưa đến đây. Cậu thì sao?”
Tôi nhún vai: “Tôi lấy mấy dữ kiện quan trọng ấy làm số điện thoại, gọi thì tới đây. Tôi cũng muốn vào, cơ mà ngài Garcia không thèm tôi. Nhưng tôi sắp giải xong mã số S rồi, nhất định ổng sẽ đổi ý.”
Lindon nhìn tôi hết sức kỳ dị: “Không thể nào, Alan. Cậu đã được đào tạo đâu, làm sao giải được mật mã cao cấp như thế? Những chuyện ấy đừng nói giỡn.” Cậu ta lại vội vàng ôm sách lên: “Sắp đến giờ tập huấn rồi, tôi đi đây.”
Đến bữa ăn, tôi ấm ức trách Andemund: “Sao Lindon thì được mà em anh lại không muốn?”
Ảnh nheo mắt cười, hôn má tôi: “Cưng à, không phải mình đang yêu nhau sao?”
“Em giải được S rồi, sao vẫn không cho em vào trang trại Plymton?… rõ ràng anh đã bảo nó rất khó mà!”
Andemund gật đầu, lại cười: “Ừm, anh đã nói vậy. Nhưng nó chỉ được sử dụng trong bộ phận khí tượng của hải quân, vốn không có gì quan trọng cả.”
“Không quan trọng sao còn bảo em giải! Mẹ kiếp sao anh không tự đi mà làm!”
Câu trả lời của ảnh rất đương nhiên, ấy là vì ảnh bận.
“Nếu anh tập trung hết sức, không cần đến ba tháng, có lẽ chỉ ba tuần sẽ giải xong. Hơn nữa dưới anh còn cả một đội chuyên gia mật mã… có điều hầu hết những đoạn mã đó đã quá lâu rồi, mà trọng tâm công việc của anh không phải chỉ có thế.” Andemund bước tới, ôm vai tôi, rồi cúi xuống hôn tôi.
“Alan, em rất xuất sắc, xuất sắc còn hơn anh tưởng. Nhưng em không thể vào trang trại Plymton.”
Đây là lần đầu tiên Andemund chủ động hôn tôi.
Anh ấy hôn rất nhẹ. Dường như còn muốn cho tôi thời gian thích ứng, mới đầu chỉ là khẽ chạm môi một chút, rồi khéo léo trượt lưỡi vào, nhẹ nhàng tiếp xúc với đầu lưỡi tôi. Mỗi cử động dù thật nhỏ của lưỡi anh ấy đều có thể khiến toàn thân tôi run rẩy.
Nụ hôn của Andemund thật thanh khiết, khiến tôi nhớ đến những buổi nghỉ mát ở biệt thự bên bờ biển, để gió biển khoan khoái phả trên mặt mỗi lần mở cửa sổ ra. Quần áo anh ấy vẫn luôn mang mùi hương dịu mát của lá cây râm như thế. Tôi muốn hôn lại anh ấy, nhưng quyền chủ động không thuộc về tôi. Cánh tay anh ấy ôm ngang thắt lưng tôi quá mạnh, anh ấy ép tôi tì người lên cửa sổ, làm tôi không cách nào cử động được.
Trong trí nhớ của tôi, nụ hôn ấy rất dài, cho đến khi anh ấy buông ta, tôi đã muốn thở hết nổi.
Như thể một nụ hôn giã biệt.
“Alan, cha mẹ em… không mất trong hỏa hoạn. Họ đưa em về vùng quê Bedford là để bảo vệ em. Dòng họ Castor đã hy sinh hai con người cho nước Anh, anh không hy vọng em trở thành người thứ ba. Nơi này một khi đã dấn thân vào, em sẽ không thể bước ra được nữa.”
“Nếu em chỉ là chán số học, cảm thấy mật mã thú vị hơn…” anh ấy nói: “Em có thể đến biệt thự của anh, ở đó có rất nhiều mật mã giống như S để em giải trí.”
Andemund nói đúng. Trang trại Plymton là trường dạy mật mã chính quy của MI-6, nơi một khi đã bước vào, rất khó để thoát ra.
“Alan, ở đây người ta làm việc vì tổ quốc. Mạng sống của em sẽ không còn thuộc về em nữa.” Giọng Andemund thật nhẹ: “Sẽ có gián điệp nước ngoài âm mưu tiếp cận em. Nếu cần thiết, cuộc sống riêng tư của em cũng bị giám sát. Nếu bị phán quyết phản quốc, em sẽ bị xử lý trong im lặng. Nếu cấp trên nghi ngờ em phản quốc mà không có chứng cứ, rất có thể có một ngày em sẽ bất cẩn ngã khỏi xe khách, vừa hay gãy cổ. Đó là quy định của tổ chức, vì sự an toàn của tất cả mọi người.”
Tôi hỏi vặn lại anh ấy: “Sắp đặt tai nạn để giải quyết thành viên không còn được tín nhiệm… anh là người ra những mệnh lệnh ấy hả?”
Andemund cụp mắt, che đậy hai con ngươi màu lục sẫm.
Anh ấy im lặng hồi lâu, tôi đã cho rằng ảnh sẽ không nói nữa, rồi lại nghe anh ấy trả lời: “Không phải toàn bộ, nhưng anh đã từng ra lệnh. Có điều mệnh lệnh với cha mẹ em không phải anh đưa ra. Khi đó anh chưa đến trang trại Plymton.”
Mệnh lệnh với cha mẹ em không phải anh đưa ra.
Peter lái xe đưa tôi về Cambridge. Nhiều ngày sau đó tôi hoàn toàn chán đời. Edgar lôi tôi dậy từ trên giường, nhồi tôi vào áo quần, rồi quẳng tôi xuống quán bar, chuốc tôi uống. Bar rất đông, một nàng gái gọi nóng bỏng lại gần bọn tôi, ngỏ ý hỏi có thể mời nàng một ly không. Quả nhiên là người đẹp, ngực đồ sộ, mà tôi không ưa mùi son phấn trên người cô ta.
Edgar khuyên tôi hãy bình thường chút đi.
“Cả con gái cậu cũng chán rồi.” Cậu ta nói.
Từ hôm đó tôi không hề chủ động liên lạc với Andemund nữa. Anh ta nói thì khéo léo lắm, nhưng tôi thừa hiểu. Tôi không thể vào trang trại Plymton, không phải vì khả năng của tôi không đủ, mà là Andemund không tin tôi. Anh ta đi điều tra lý lịch tôi, cha mẹ tôi có tì vết, họ không chết vì hỏa hoạn, mà là bị cơ quan tình báo của chính phủ “xử lý” vì tình nghi họ để lộ thông tin.
Andemund nói quá rõ ràng, tôi có vết nhơ trong lý lịch. Một ngày không còn được tín nhiệm, rất có thể tôi cũng sẽ bị chính phủ “xử lý” giống như cha mẹ mình.
Mệnh lệnh đó sẽ từ chính anh ấy.
Tôi tin rằng điều ấy với tôi, với cả anh ấy mà nói, đều là một sự dằn vặt. Mà tôi theo đuổi anh ấy, thật tình cũng là một nỗi phiền nhiễu ghê gớm với Andemund.
“Tôi không thích Andemund nữa.” Tôi thề thốt với Edgar: “Từ sau nếu cậu thấy tôi đi London, phải lôi tôi xuống xe. Nếu tôi chống cự, cho cậu đánh tôi một trận.”
Mùa hè năm ấy qua rất nhanh. Chớp mắt đã thấy lá thu rụng đầy mặt đất. Cambridge cũng có rất nhiều quán rượu nhỏ yên tĩnh, ngoài cửa treo chùm chuông gió thủy tinh, mỗi lần gió thổi thì kêu lanh canh trong vắt. Từ bữa Edgar lôi tôi xuống quán bar, tôi cũng ít muốn bỏ đi đâu khác. Vốn chỉ định xuống uống một ly nhỏ, nhưng bất giác cứ thế ngồi đến lúc mặt trời lặn. Khách về hết cả, bóng ghế dựa tà tà ngả xiêu vẹo từ đầu này qua đầu kia phòng.
Tôi cho rằng mình vốn không phải đồng tính luyến ái, chẳng qua số xui xẻo, tự dưng Andemund lại là đàn ông. Nhưng Cambridge ít sinh viên nữ, thành ra dân đồng tính ngầm không hề thiếu.
Có bữa tôi đã uống rất nhiều, một gã sinh viên cao lớn đến gần ghé sát cạnh tôi bảo, cưng à, gần đây có nhà trọ qua đêm được đấy, muốn đi chơi không?
Lúc ấy là chập tối, ngoài trời gió to, trong quán chỉ có hai chúng tôi là khách. Chủ quán hình như đang đứng xa xa cặm cụi chùi ly. Mới đầu tôi không hiểu hắn ta định làm gì, đến khi hắn xốc tôi đang ngồi nhũn một đống trên ghế dậy, tha tôi ra cửa.
Dù khổ vai hắn rất rộng, coi bộ khỏe ra trò, nhưng tôi nghĩ mình dư sức ẩu đả với hắn một trận… ấy là nếu tôi chưa uống nhiều như này.
Nốc lắm rum quá, tôi đứng dậy mới thấy đầu óc choáng váng. Hắn ta cười cười đỡ tôi, còn thừa dịp thò tay vào áo tôi.
Hình như lúc ấy uống nhiều thật, tôi nghĩ mình nhìn thấy chiếc xe màu đen của Andemund chạy đến, cán vụn lá khô, rồi dừng ngoài cửa quán rượu. Peter xuống xe, mặt lạnh như tiền mở cửa sau. Andemund bước xuống, đi qua cánh cửa kính quay tròn để tiến về phía tôi. Peter thụi cho gã sinh viên kia một đấm, lôi hắn quăng ra cửa, rồi xốc tôi ngồi xuống ghế.
Từ đầu đến cuối Andemund chỉ đứng tựa vào quầy bar, không nói lời nào. Hôm ấy anh ấy mặc Âu phục màu trắng, thắt cà vạt đen mảnh, tay đút túi quần. Khi những cuộn lá vàng theo gió cuốn qua ô cửa sổ sau lưng anh ấy, trông anh ấy như được chạm nổi giữa một khung tranh.
Rốt cuộc anh ấy nói: “Alan, bỏ anh, không có nghĩa là em được tùy tiện tìm đàn ông.”
Edgar thuyết phục tôi rằng ấy đích thị là tôi xỉn quá nên bị ảo giác. Bởi vì chính là cậu ấy đưa tôi từ quán rượu về nhà trọ, chỉ thấy tôi nằm bò trên bàn ngủ như lợn chết, chẳng có chuyện gì xảy ra hết.
Cậu ta ném tôi lên giường, đấm tôi một cú, đánh đến tôi tỉnh thì thôi. Mở mắt dậy, thấy Edgar đang lật coi sổ tay của tôi. Tôi giật lại, cậu ấy xòe tay: “Viết cái gì tôi đọc chẳng hiểu.”
Hôm sau tôi hủy hết mọi giấy tờ ghi chép quá trình giải mã số S.
“Cứ thế này học kỳ này của cậu tiêu rồi.” Edgar vẽ bộ dạng say khướt của tôi thành tranh đả kích, xong lấy ra dọa tôi: “Nếu cậu dám học lại, tôi sẽ chép bức này thành một trăm bản, dán khắp đường ngang ngõ tắt Cambridge.”
Tôi lại đụng độ Lindon. Cậu ta vác quả đầu cỏ khô đến nhận bằng tốt nghiệp, từ sau này sẽ vào trang trại Plymton, phục vụ tổ quốc. Bọn tôi trước giờ không quá ưa nhau, nhưng cũng không đến nỗi kiềng mặt. Cậu ta hỏi lại chuyện tôi nói về mã số S lần trước, tôi nhún vai: “Giỡn đó.”
Lindon cười toe, khoe mấy cái răng trắng, rồi chỉ chỉ tôi: “Cuối cùng cậu thua nhé, tôi vào trang trại Plymton, cậu bị loại rồi.”
Tôi hỏi đùa Edgar, nếu cha mẹ cậu bị tình nghi phản quốc, cậu sẽ làm gì?
Edgar đang vẽ, tôi làm người mẫu miễn phí, đứng một tư thế độ khó hơi bị cao. Đột nhiên cậu ta dừng lại, quay sang ôm tôi, thở dài: “Cha mẹ mình còn không tin, cậu sẽ tin ai nữa đây? Phải không, Alan?”
Khi cậu ta thở dài, tôi thực sự cảm thấy điều gì đó trong ánh mắt cậu ta. Hoàn cảnh gia đình Edgar tôi vốn chẳng biết gì. Chỉ biết nhà cậu ta không dư giả, trước nay vẫn tự bán tranh để đóng học phí. Cậu ta quen thân với mọi phòng triển lãm ở đây, vẫn thường mang tranh vẽ xong đi bán, xong lại bê tranh của người khác về vẽ lại.
Tôi từng xem tranh của cậu ta, có phong cảnh, có sự vật, có chân dung, lắm khi tranh vẽ tôi cậu ta cũng đem bán lấy tiền luôn. Còn cả mấy bức trường phái ấn tượng, lúc ấy là một môn tiên phong trong giới mỹ thuật tạo hình, toàn là những đường màu vòng vèo lẫn lộn nhìn không hiểu nổi. Tôi vẫn bảo tranh ấn tượng thì để đó tôi làm giùm cho cũng được, riêng cái ấy tôi biết vẽ từ hồi ba tuổi.
Giáng sinh tôi về nhà chú ở Bedford hai tuần. Edgar không về nhà, ở lại nhà trọ bán tranh. Hai tuần sau tôi trở lại, cậu ta nói Andemund đến tìm tôi. Anh ấy đến một mình.
“Tôi bảo cậu về nhà rồi, anh ta đi luôn.”
Lúc ấy là năm 1937, ba đế quốc đang trỗi dậy, Italia ly khai Liên minh Quốc tế, ký kết đồng minh quân sự với Đức và Nhật, Tây Ban Nha xảy ra nội chiến.
Tôi gửi hai hòm đựng sách và các ghi chép của cha mẹ ở Bedford lên London, bắt đầu quá trình học tập dài đằng đẵng. Đọc xong quyển nào tôi đốt quyển đó, đến mùa hè năm 1938, chính thức đốt hết hai hòm sách.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook