Xác Ấm
-
Chương 8
Tối hôm đó chúng tôi ngồi trong chiếc 747, xếp bằng ở giữa lối đi. Một đĩa mì xào Thái đã được quay trong lò vi sóng đặt trên sàn trước mặt Julie, đang nguội ngắt đi. Tôi im lặng nhìn nàng đẩy mì qua lại trên đĩa. Ngay cả khi nàng không nói gì hay không làm gì tôi vẫn ngắm nàng không chán mắt. Nàng nghiêng đầu, mắt nhìn vô định, rồi nàng mỉm cười và đổi tư thế. Những ý nghĩ của nàng hiển hiện rõ trên mặt như một thước phim được chiếu lên vậy.
“Trong này im lặng quá,” nàng nói rồi đứng dậy. Nàng lục lọi đống đĩa hát của tôi. “Sao toàn đĩa than thế? Anh không biết cách dùng iPod à?”
“Nghe… hay hơn.”
Nàng bật cười. “À, hóa ra anh theo chủ nghĩa thuần túy.”
Tôi đưa ngón tay quay vòng trong không trung. “Thật hơn. Sống động… hơn.”
Nàng gật đầu. “Phải, đúng vậy. Nhưng cũng rắc rối hơn nữa.” Nàng nhíu mày lật lật chồng đĩa. “Trong này chẳng có cái nào ra sau năm 1999 cả. Có phải đấy là khi anh chết không?”
Tôi ngẫm nghĩ một lát, rồi nhún vai. Cũng có thể là thế, nhưng sự thực là tôi chẳng biết mình chết từ khi nào nữa. Người ta có thể đoán được ngày chết của tôi dựa vào độ phân hủy của cơ thể tôi, nhưng không phải ai cũng thối rữa với tốc độ như nhau. Một số người trong chúng tôi tươi rói suốt hàng năm trời như mới được đưa đến nhà tang lễ, có người lại teo đi chỉ còn bộ xương chỉ trong vòng vài tháng, da thịt khô đét như bọt biển mất nước. Tôi không biết vì sao lại có sự chênh lệch này. Có lẽ cơ thể chúng tôi cũng giống như trí não chúng tôi vậy. Một số người bỏ cuộc một cách dễ dàng, những người khác thì lại cố cầm cự.
Một khó khăn khác trong việc đoán tuổi của tôi: tôi không biết đang là năm bao nhiêu. Năm 1999 có thể đã là cả thập kỷ trước, hoặc mới là ngày hôm qua. Ta có thể suy ra được một dòng thời gian bằng cách quan sát những con phố đổ nát, những hạ tầng cơ sở sụp đổ, nhưng mọi nơi trên thế giới cũng phân hủy theo tốc độ riêng của chúng. Có những thành phố có thể bị nhầm với tàn tích từ thời Aztec, và có những thành phố mới chỉ bị bỏ hoang từ tuần trước, với những chiếc ti vi đầy tiếng nhiễu vẫn bật cả đêm và trứng tráng ở các quán cà phê mới bắt đầu lên mốc.
Chuyện xảy ra với thế giới này hết sức từ từ. Tôi không còn nhớ cụ thể nó là chuyện gì nữa, nhưng tôi vẫn còn chút ký ức mờ nhạt nhưng rất thật rằng mọi chuyện đã như thế nào. Nỗi sợ âm ỉ nhưng không bao giờ bùng lên cho tới khi chẳng còn gì để cho nó bùng lên nữa. Mỗi bước tiếp theo lại khiến chúng tôi bàng hoàng hơn. Rồi một ngày kia chúng tôi thức dậy và tất cả đã biết mất.
“Anh lại thế rồi kìa,” Julie nói. “Lại nghĩ lan man. Tôi rất muốn biết anh đang nghĩ chuyện gì mà mặt đờ ra như thế.” Tôi nhún vai, và nàng thở ra một hơi bực dọc. “Lại nhún vai nữa rồi. Đừng nhún vai nữa, đồ hay nhún vai! Trả lời câu hỏi của tôi đi. Sao thị hiếu âm nhạc của anh lại chậm tiến thế?”
Tôi định nhún vai nhưng ngừng lại kịp, tuy hơi khó khăn. Làm sao tôi có thể tìm ra lời để giải thích với nàng đây? Cái chết hao mòn của Don Quixote. Dừng mọi sứ mệnh, từ bỏ mọi ham muốn, để làm quen và an bài với số phận không thể tránh khỏi của Người Chết.
“Chúng tôi không… nghĩ ra… những điều mới,” tôi bắt đầu, cố vượt qua cách nói rút gọn của mình. “Đôi khi… tôi vớ được… các thứ. Nhưng chúng tôi không… đi tìm.”
“Thế à,” Julie nói. “Thê thảm gớm nhỉ.” Nàng vẫn tiếp tục lật chồng đĩa của tôi, nhưng giọng nàng mỗi lúc một gay gắt. “Anh không nghĩ được điều gì mới ư? Anh không ‘đi tìm’ ư? Thế là thế nào? Anh không đi tìm cái gì? âm nhạc ư? âm nhạc chính là cuộc sống! Nó là tình cảm chuyển thành dạng vật chất – anh có thể chạm vào nó! Nó là năng lượng bên ngoài của linh hồn được hút ra và chuyển thành sóng âm cho tai anh. Anh định nói với tôi như thế là nhàm chán ư? Anh không có thời gian cho việc đó ư?”
Tôi không biết phải trả lời ra sao. Tôi chỉ biết cầu nguyện với bầu trời xám xịt đang há hoác miệng kia rằng Julie sẽ không bao giờ thay đổi. Rằng nàng sẽ không bao giờ thức dậy vào một ngày kia, già cỗi và khôn ngoan hơn.
“Nhưng dù sao thì ở đây cũng có vài đĩa hay đấy,” nàng nói, cơn giận dịu dần. “Rất hay là đằng khác. Đây, bật lại cái này đi. Frank không bao giờ làm ta thất vọng cả.” Nàng đặt một cái đĩa lên máy và quay lại với món mì xào. Bài “The Lady is a Tramp” vang vọng khắp khoang máy bay, và nàng nhoẻn miệng cười với tôi. “Bài hát chủ đề của tôi đấy,” nàng nói, và nhồi đầy mì vào miệng.
Bị thôi thúc bởi sự tò mò bệnh hoạn, tôi lấy một sợi mì trên đĩa của nàng nhai thử. Nó chẳng có vị gì cả. Giống như ăn thức ăn giả vờ hay nhai không khí vậy. Tôi quay đầu đi nhổ nó ra tay. Julie không để ý. Nàng lại như đang phiêu diêu đi một nơi khác, và tôi ngắm những màu sắc cùng hình ảnh trong bộ phim – ý nghĩ của nàng chập chờn trên mặt nàng. Mấy phút sau, nàng nuốt miếng mì và ngước lên nhìn tôi.
“R này,” nàng nói với giọng hiếu kỳ bình thản. “Anh đã giết ai?”
Tôi sững người. Tiếng nhạc bay biến khỏi đầu tôi.
“Trong tòa nhà cao tầng ấy. Trước khi anh cứu tôi. Tôi đã nhìn thấy máu trên mặt anh. Là máu của ai thế?”
Tôi chỉ biết nhìn nàng. Sao nàng lại phải hỏi tôi câu ấy. Sao trí nhớ của nàng không mờ nhạt đi như trí nhớ của tôi. Tại sao nàng không thể sống với tôi một mình trong bóng tối, bơi trong vực thẳm của mọi ký ức đã bị xóa nhòa.
“Tôi chỉ cần biết đó là ai thôi.” Vẻ mặt nàng không để lộ điều gì. Mắt nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, không chớp.
“Không ai cả,” tôi lầm bầm. “Một… gã nào đó.”
“Có môt giả thiết nói rằng các anh ăn óc là vì các anh sẽ được sống qua cuộc đời của người đó. Có đúng không?”
Tôi nhún vai, cố không co rúm người lại. Tôi cảm thấy như một đứa bé bị bắt quả tang vừa bôi bẩn lên tường. Hoặc là vừa giết hàng chục người.
“Đó là ai?” nàng gặng hỏi. “Anh không nhớ ư?”
Tôi định nói dối. Tôi còn nhớ một số khuôn mặt trong căn phòng ấy; tôi có thể đánh liều chọn bừa một ai đó, có thể là một tên lính mới mà nàng cũng không quen, và nàng sẽ cho qua, không bao giờ nhắc lại chuyện này nữa. Nhưng tôi không thể. Tôi không thể nói dối nàng cũng như không thể thốt ra sự thật khó nuốt. Tôi bị mắc kẹt.
Mắt Julie nhìn tôi suốt một phút đồng hồ như muốn xuyên thấu, rồi thôi. Nàng nhìn xuống lớp thảm cáu bẩn trên sàn máy bay. “Có phải là Berg không” nàng hỏi, khẽ đến nỗi nghe như nàng đang nói với chính mình. “Thằng nhóc mặt đầy trứng cá ấy? Tôi cá là Berg. Nó là thằng chó đểu. Nó gọi Nora là đồ con lai và suốt buổi thu gom hôm đó nó cứ nhìn mông tôi suốt. Mà tất nhiên Perry còn chẳng thèm nhận ra nữa. Nếu đúng là Berg thì tôi gần như lấy làm mừng vì anh đã xử nó.”
Tôi cố nhìn thẳng vào mắt nàng để hiểu xem sự đảo lộn này nghĩa là thế nào, nhưng giờ nàng lại tránh ánh mắt tôi. “Dù sao thì,” nàng nói, “dù ai giết Perry đi chăng nữa… tôi cũng muốn anh biết là tôi không trách họ đâu.”
Tôi lại gồng người lên. “Không… ư?”
“Không. Ý tôi là, tôi nghĩ là tôi hiểu được. Các anh không có sự lựa chọn nào khác phải không? Và nói thật… tôi sẽ không cho ai biết điều này đâu, nhưng mà…” Nàng đảo đảo đĩa thức ăn. “Tôi gần như thấy nhẹ cả người vì cuối cùng nó cũng xảy ra.”
Tôi cau mày. “Gì cơ?”
“Cuối cùng thì tôi cũng thôi không phải sợ hãi nữa.”
“Perry… chết?”
Vừa thốt ra cái tên ấy, tôi lập tức thấy hối tiếc. Trên lưỡi tôi, từng âm trong cái tên đó đều có vị máu của gã.
Julie gật đầu, mắt vẫn nhìn vào đĩa thức ăn. Khi lên tiếng giọng nàng nhỏ và dịu hẳn lại, tiếng nói của những ký ức không muốn bị khơi dậy nữa. “Có chuyện gì đó đã… xảy ra với anh ấy. Đúng hơn là rất nhiều chuyện. Có lẽ đã đến lúc anh ấy không thể chịu đựng thêm được nữa, thế nên anh ấy phải biến thành một người khác. Trước kia anh ấy là chàng trai thông minh, nồng nhiệt, rất kỳ cục, vui tính và đầy mơ mộng, thế rồi… bỗng dưng anh ấy từ bỏ hết mọi kế hoạch và tham gia vào đội An ninh… anh ấy thay đổi nhanh đến phát sợ. Anh ấy nói anh ấy làm tất cả là vì tôi, rằng đã đến lúc anh ấy phải trưởng thành và đối mặt với thực tế, phải tỏ ra có trách nhiệm, đại loại thế. Nhưng tất cả những gì tôi yêu ở anh ấy – tất cả những gì thuộc về bản chất trước kia của anh ấy – đều bắt đầu thối nát. Nói tóm lại là anh ấy đã bỏ cuộc. Từ bỏ cuộc sống. Cái chết thực sự chỉ là bước logic tiếp theo mà thôi.” Nàng đẩy đĩa mì sang bên. “Chúng tôi rất hay nói về cái chết. Chính anh ấy liên tục nhắc đến. Thỉnh thoảng có lúc đang âu yếm nhau anh ấy tự nhiên dừng lại và nói, ‘Julie này, em nghĩ tuổi thọ trung bình bây giờ là bao nhiêu nhỉ?’ Hoặc là, ‘Julie này, khi anh chết liệu em có chặt đầu anh không?’ Lãng mạn quá phải không?”
Nàng nhìn qua cửa sổ máy bay, ngắm rặng núi ở đằng xa. “Tôi đã cố làm anh ấy bình thường lại. Cố hết sức để giữ anh ấy ở đây, nhưng trong mấy năm vừa rồi thì ai cũng thấy đấy. Anh ấy đã… đi rồi. Tôi không biết là nếu Chúa cứu thế hay vua Arthur sống lại để giải nguy cho cả thế giới thì liệu anh ấy có quay lại được không. Chứ tôi thì chắc chắn là không đủ sức.” Nàng nhìn tôi. “Nhưng liệu anh ấy có quay lại nữa không? Thành một người như các anh ấy?”
Tôi cụp mắt xuống, vẫn nhớ rõ mồn một vị óc mềm ngọt của gã. Tôi lắc đầu.
Nàng im lặng hồi lâu. “Không phải là tôi không buồn vì anh ấy chết. Tôi buồn chứ, tôi…” Giọng nàng hơi run run. Nàng ngừng lại và hắng giọng. “Tôi thực lòng thấy buồn. Nhưng anh ấy muốn chết. Tôi biết là anh ấy muốn thế.” Một giọt nước mắt trào ra, làm nàng có vẻ giật mình. Nàng gạt nó đi như gạt một con muỗi.
Tôi đứng dậy, cầm đĩa thức ăn của nàng bỏ vào thùng rác. Khi tôi ngồi xuống thì mắt nàng đã khô nhưng vẫn còn đỏ. Nàng sụt sịt mũi và yếu ớt mỉm cười với tôi. “Có lẽ tôi đã nói xấu Perry nhiều quá, nhưng tôi cũng chẳng phải là người vui vẻ lạc quan gì cho cam, anh biết không? Tôi cũng tan tác lắm. Chỉ khác là tôi… vẫn còn sống thôi. Như một vụ tai nạn đang tiếp diễn.” Nàng cất một tiếng cười ngắn, khùng khục. “Kỳ cục thật, tôi chưa bao giờ nói những chuyện này với bất kỳ ai, nhưng anh thì… ý tôi là anh im lặng quá, anh cứ ngồi đó lăng nghe, giống như là nói chuyện với…” Nụ cười của nàng tan biến và nàng lại có vẻ tư lự hồi lâu. Khi nàng lại lên tiếng, giọng nàng trở nên thận trọng nhưng dứt khoát hơn, và mắt nàng nhìn khắp cabin, xem xét từng cái đinh tán trên cửa sổ và những nhãn cảnh báo. “Hồi còn nhỏ tôi từng dùng ma túy. Bắt đầu lúc mười hai tuổi, và tôi đã thử gần như đủ mọi thứ. Giờ khi có dịp tôi vẫn uống rượu và hút cần sa. Thậm chí hồi mười ba tuổi có lần tôi từng ngủ với một gã để lấy tiền. Không phải vì tôi cần tiền – ngay từ hồi ấy tiền đã chẳng còn giá trị gì nữa. Chỉ vì đó là một việc khủng khiếp, và hình như tôi thấy tôi đáng bị như vậy.” Nàng nhìn xuống cổ tay, nhìn những vết sẹo mờ như dấu vào cửa của một buổi ca nhạc khủng khiếp nào đó. “Tất cả những điều tệ hại mà người ta tự làm với chính mình… có thể chỉ cùng là một điều thôi, anh biết không? Một cách để nhấn chìm giọng nói của mình. Để giết ký ức của mình mà không phải tự giết mình.”
Một quãng dài im lặng. Mắt nàng đưa khắp sàn, trong khi mắt tôi không rời mặt nàng, chờ đợi nàng trở lại. Nàng hít một hơi thật sâu, nhìn tôi, và khẽ nhún vai. “Nhún vai,” nàng nói nhỏ, rồi cố nặn ra một nụ cười.
Tôi chậm rãi đứng lên đi ra chỗ máy quay đĩa. Tôi chọn một trong những cái đĩa yêu thích của mình, một cái đĩa vô danh tập hợp các bài hát của Sinatra từ nhiều album khác nhau. Tôi cũng không biết sao tôi lại thích nó đến thế. Có lần tôi đã ngồi suốt ba ngày trời trước máy hát chỉ để ngắm chiếc đĩa quay. Tôi biết từng đường rãnh trên chiếc đĩa này còn rõ hơn những đường rãnh trên lòng bàn tay tôi. Người ta thường nói âm nhạc là một cách truyền đạt tuyệt vời; tôi tự hỏi không biết điều đó có còn đúng nữa không trong cái thế giới ít người sống nhiều hơn người chết này. Tôi đặt đĩa lên, và khi nhạc cất lên tôi bắt đầu dịch chuyển cái kim, nhảy qua từng đoạn nhạc, từng bài hát, nhảy quanh từng vòng đĩa để tìm những lời tôi muốn đưa vào trong không khí. Từng lời hát vang lên lỗi điệu, lỗi nhạc, điểm thêm những tiếng xoèn xoẹt như xé vải, nhưng ý nghĩa thì không chê vào đâu được. Cho dù tôi có cách diễn đạt của một người nhà Kennedy đi chăng nữa thì giọng nam trung êm ái của Frank cũng nói được những điều tôi muốn nói giỏi hơn chất giọng khàn đục của tôi nhiều. Tôi đứng bên cái đĩa hát, cắt dán tiếng nói lòng tôi thành một bức tranh trong không gian.
Tôi không quan tâm nếu em bị gọi là–xoẹt–khi mọi người nói rằng em là-xoẹt–phép phù thủy xấu xa–xoẹt–đừng thay đổi với tôi dù chỉ là một sợi tóc, nếu em-xoẹt–vì em rất tuyệt vời–xoẹt–chỉ em đúng như thế này–xoẹt–em rất tuyệt vời… tuyệt vời… thế thôi…
Tôi để cái đĩa hát chơi bình thường cho đến hết và ngồi xuống trước mặt Julie. Nàng nhìn tôi chăm chú bằng cặp mắt ướt lệ, đỏ hoe. Tôi áp tay vào ngực nàng, cảm nhận tiếng đập nhẹ nhàng bên trong. Một chất giọng nhỏ xíu nói bằng mật mã.
Julie sụt sịt. Nàng quẹt một ngón tay qua mũi. “Anh là cái gì?” nàng hỏi tôi lần thứ hai.
Tôi thoáng mỉm cười. Rồi tôi đứng lên ra khỏi máy bay, để câu hỏi của nàng đọng lại đó mà vẫn không có câu trả lời. Trong lòng bàn tay mình tôi cảm thấy nhịp tim nàng vọng về, thay thế nhịp tim thiếu vắng của tôi.
* * *
“Trong này im lặng quá,” nàng nói rồi đứng dậy. Nàng lục lọi đống đĩa hát của tôi. “Sao toàn đĩa than thế? Anh không biết cách dùng iPod à?”
“Nghe… hay hơn.”
Nàng bật cười. “À, hóa ra anh theo chủ nghĩa thuần túy.”
Tôi đưa ngón tay quay vòng trong không trung. “Thật hơn. Sống động… hơn.”
Nàng gật đầu. “Phải, đúng vậy. Nhưng cũng rắc rối hơn nữa.” Nàng nhíu mày lật lật chồng đĩa. “Trong này chẳng có cái nào ra sau năm 1999 cả. Có phải đấy là khi anh chết không?”
Tôi ngẫm nghĩ một lát, rồi nhún vai. Cũng có thể là thế, nhưng sự thực là tôi chẳng biết mình chết từ khi nào nữa. Người ta có thể đoán được ngày chết của tôi dựa vào độ phân hủy của cơ thể tôi, nhưng không phải ai cũng thối rữa với tốc độ như nhau. Một số người trong chúng tôi tươi rói suốt hàng năm trời như mới được đưa đến nhà tang lễ, có người lại teo đi chỉ còn bộ xương chỉ trong vòng vài tháng, da thịt khô đét như bọt biển mất nước. Tôi không biết vì sao lại có sự chênh lệch này. Có lẽ cơ thể chúng tôi cũng giống như trí não chúng tôi vậy. Một số người bỏ cuộc một cách dễ dàng, những người khác thì lại cố cầm cự.
Một khó khăn khác trong việc đoán tuổi của tôi: tôi không biết đang là năm bao nhiêu. Năm 1999 có thể đã là cả thập kỷ trước, hoặc mới là ngày hôm qua. Ta có thể suy ra được một dòng thời gian bằng cách quan sát những con phố đổ nát, những hạ tầng cơ sở sụp đổ, nhưng mọi nơi trên thế giới cũng phân hủy theo tốc độ riêng của chúng. Có những thành phố có thể bị nhầm với tàn tích từ thời Aztec, và có những thành phố mới chỉ bị bỏ hoang từ tuần trước, với những chiếc ti vi đầy tiếng nhiễu vẫn bật cả đêm và trứng tráng ở các quán cà phê mới bắt đầu lên mốc.
Chuyện xảy ra với thế giới này hết sức từ từ. Tôi không còn nhớ cụ thể nó là chuyện gì nữa, nhưng tôi vẫn còn chút ký ức mờ nhạt nhưng rất thật rằng mọi chuyện đã như thế nào. Nỗi sợ âm ỉ nhưng không bao giờ bùng lên cho tới khi chẳng còn gì để cho nó bùng lên nữa. Mỗi bước tiếp theo lại khiến chúng tôi bàng hoàng hơn. Rồi một ngày kia chúng tôi thức dậy và tất cả đã biết mất.
“Anh lại thế rồi kìa,” Julie nói. “Lại nghĩ lan man. Tôi rất muốn biết anh đang nghĩ chuyện gì mà mặt đờ ra như thế.” Tôi nhún vai, và nàng thở ra một hơi bực dọc. “Lại nhún vai nữa rồi. Đừng nhún vai nữa, đồ hay nhún vai! Trả lời câu hỏi của tôi đi. Sao thị hiếu âm nhạc của anh lại chậm tiến thế?”
Tôi định nhún vai nhưng ngừng lại kịp, tuy hơi khó khăn. Làm sao tôi có thể tìm ra lời để giải thích với nàng đây? Cái chết hao mòn của Don Quixote. Dừng mọi sứ mệnh, từ bỏ mọi ham muốn, để làm quen và an bài với số phận không thể tránh khỏi của Người Chết.
“Chúng tôi không… nghĩ ra… những điều mới,” tôi bắt đầu, cố vượt qua cách nói rút gọn của mình. “Đôi khi… tôi vớ được… các thứ. Nhưng chúng tôi không… đi tìm.”
“Thế à,” Julie nói. “Thê thảm gớm nhỉ.” Nàng vẫn tiếp tục lật chồng đĩa của tôi, nhưng giọng nàng mỗi lúc một gay gắt. “Anh không nghĩ được điều gì mới ư? Anh không ‘đi tìm’ ư? Thế là thế nào? Anh không đi tìm cái gì? âm nhạc ư? âm nhạc chính là cuộc sống! Nó là tình cảm chuyển thành dạng vật chất – anh có thể chạm vào nó! Nó là năng lượng bên ngoài của linh hồn được hút ra và chuyển thành sóng âm cho tai anh. Anh định nói với tôi như thế là nhàm chán ư? Anh không có thời gian cho việc đó ư?”
Tôi không biết phải trả lời ra sao. Tôi chỉ biết cầu nguyện với bầu trời xám xịt đang há hoác miệng kia rằng Julie sẽ không bao giờ thay đổi. Rằng nàng sẽ không bao giờ thức dậy vào một ngày kia, già cỗi và khôn ngoan hơn.
“Nhưng dù sao thì ở đây cũng có vài đĩa hay đấy,” nàng nói, cơn giận dịu dần. “Rất hay là đằng khác. Đây, bật lại cái này đi. Frank không bao giờ làm ta thất vọng cả.” Nàng đặt một cái đĩa lên máy và quay lại với món mì xào. Bài “The Lady is a Tramp” vang vọng khắp khoang máy bay, và nàng nhoẻn miệng cười với tôi. “Bài hát chủ đề của tôi đấy,” nàng nói, và nhồi đầy mì vào miệng.
Bị thôi thúc bởi sự tò mò bệnh hoạn, tôi lấy một sợi mì trên đĩa của nàng nhai thử. Nó chẳng có vị gì cả. Giống như ăn thức ăn giả vờ hay nhai không khí vậy. Tôi quay đầu đi nhổ nó ra tay. Julie không để ý. Nàng lại như đang phiêu diêu đi một nơi khác, và tôi ngắm những màu sắc cùng hình ảnh trong bộ phim – ý nghĩ của nàng chập chờn trên mặt nàng. Mấy phút sau, nàng nuốt miếng mì và ngước lên nhìn tôi.
“R này,” nàng nói với giọng hiếu kỳ bình thản. “Anh đã giết ai?”
Tôi sững người. Tiếng nhạc bay biến khỏi đầu tôi.
“Trong tòa nhà cao tầng ấy. Trước khi anh cứu tôi. Tôi đã nhìn thấy máu trên mặt anh. Là máu của ai thế?”
Tôi chỉ biết nhìn nàng. Sao nàng lại phải hỏi tôi câu ấy. Sao trí nhớ của nàng không mờ nhạt đi như trí nhớ của tôi. Tại sao nàng không thể sống với tôi một mình trong bóng tối, bơi trong vực thẳm của mọi ký ức đã bị xóa nhòa.
“Tôi chỉ cần biết đó là ai thôi.” Vẻ mặt nàng không để lộ điều gì. Mắt nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, không chớp.
“Không ai cả,” tôi lầm bầm. “Một… gã nào đó.”
“Có môt giả thiết nói rằng các anh ăn óc là vì các anh sẽ được sống qua cuộc đời của người đó. Có đúng không?”
Tôi nhún vai, cố không co rúm người lại. Tôi cảm thấy như một đứa bé bị bắt quả tang vừa bôi bẩn lên tường. Hoặc là vừa giết hàng chục người.
“Đó là ai?” nàng gặng hỏi. “Anh không nhớ ư?”
Tôi định nói dối. Tôi còn nhớ một số khuôn mặt trong căn phòng ấy; tôi có thể đánh liều chọn bừa một ai đó, có thể là một tên lính mới mà nàng cũng không quen, và nàng sẽ cho qua, không bao giờ nhắc lại chuyện này nữa. Nhưng tôi không thể. Tôi không thể nói dối nàng cũng như không thể thốt ra sự thật khó nuốt. Tôi bị mắc kẹt.
Mắt Julie nhìn tôi suốt một phút đồng hồ như muốn xuyên thấu, rồi thôi. Nàng nhìn xuống lớp thảm cáu bẩn trên sàn máy bay. “Có phải là Berg không” nàng hỏi, khẽ đến nỗi nghe như nàng đang nói với chính mình. “Thằng nhóc mặt đầy trứng cá ấy? Tôi cá là Berg. Nó là thằng chó đểu. Nó gọi Nora là đồ con lai và suốt buổi thu gom hôm đó nó cứ nhìn mông tôi suốt. Mà tất nhiên Perry còn chẳng thèm nhận ra nữa. Nếu đúng là Berg thì tôi gần như lấy làm mừng vì anh đã xử nó.”
Tôi cố nhìn thẳng vào mắt nàng để hiểu xem sự đảo lộn này nghĩa là thế nào, nhưng giờ nàng lại tránh ánh mắt tôi. “Dù sao thì,” nàng nói, “dù ai giết Perry đi chăng nữa… tôi cũng muốn anh biết là tôi không trách họ đâu.”
Tôi lại gồng người lên. “Không… ư?”
“Không. Ý tôi là, tôi nghĩ là tôi hiểu được. Các anh không có sự lựa chọn nào khác phải không? Và nói thật… tôi sẽ không cho ai biết điều này đâu, nhưng mà…” Nàng đảo đảo đĩa thức ăn. “Tôi gần như thấy nhẹ cả người vì cuối cùng nó cũng xảy ra.”
Tôi cau mày. “Gì cơ?”
“Cuối cùng thì tôi cũng thôi không phải sợ hãi nữa.”
“Perry… chết?”
Vừa thốt ra cái tên ấy, tôi lập tức thấy hối tiếc. Trên lưỡi tôi, từng âm trong cái tên đó đều có vị máu của gã.
Julie gật đầu, mắt vẫn nhìn vào đĩa thức ăn. Khi lên tiếng giọng nàng nhỏ và dịu hẳn lại, tiếng nói của những ký ức không muốn bị khơi dậy nữa. “Có chuyện gì đó đã… xảy ra với anh ấy. Đúng hơn là rất nhiều chuyện. Có lẽ đã đến lúc anh ấy không thể chịu đựng thêm được nữa, thế nên anh ấy phải biến thành một người khác. Trước kia anh ấy là chàng trai thông minh, nồng nhiệt, rất kỳ cục, vui tính và đầy mơ mộng, thế rồi… bỗng dưng anh ấy từ bỏ hết mọi kế hoạch và tham gia vào đội An ninh… anh ấy thay đổi nhanh đến phát sợ. Anh ấy nói anh ấy làm tất cả là vì tôi, rằng đã đến lúc anh ấy phải trưởng thành và đối mặt với thực tế, phải tỏ ra có trách nhiệm, đại loại thế. Nhưng tất cả những gì tôi yêu ở anh ấy – tất cả những gì thuộc về bản chất trước kia của anh ấy – đều bắt đầu thối nát. Nói tóm lại là anh ấy đã bỏ cuộc. Từ bỏ cuộc sống. Cái chết thực sự chỉ là bước logic tiếp theo mà thôi.” Nàng đẩy đĩa mì sang bên. “Chúng tôi rất hay nói về cái chết. Chính anh ấy liên tục nhắc đến. Thỉnh thoảng có lúc đang âu yếm nhau anh ấy tự nhiên dừng lại và nói, ‘Julie này, em nghĩ tuổi thọ trung bình bây giờ là bao nhiêu nhỉ?’ Hoặc là, ‘Julie này, khi anh chết liệu em có chặt đầu anh không?’ Lãng mạn quá phải không?”
Nàng nhìn qua cửa sổ máy bay, ngắm rặng núi ở đằng xa. “Tôi đã cố làm anh ấy bình thường lại. Cố hết sức để giữ anh ấy ở đây, nhưng trong mấy năm vừa rồi thì ai cũng thấy đấy. Anh ấy đã… đi rồi. Tôi không biết là nếu Chúa cứu thế hay vua Arthur sống lại để giải nguy cho cả thế giới thì liệu anh ấy có quay lại được không. Chứ tôi thì chắc chắn là không đủ sức.” Nàng nhìn tôi. “Nhưng liệu anh ấy có quay lại nữa không? Thành một người như các anh ấy?”
Tôi cụp mắt xuống, vẫn nhớ rõ mồn một vị óc mềm ngọt của gã. Tôi lắc đầu.
Nàng im lặng hồi lâu. “Không phải là tôi không buồn vì anh ấy chết. Tôi buồn chứ, tôi…” Giọng nàng hơi run run. Nàng ngừng lại và hắng giọng. “Tôi thực lòng thấy buồn. Nhưng anh ấy muốn chết. Tôi biết là anh ấy muốn thế.” Một giọt nước mắt trào ra, làm nàng có vẻ giật mình. Nàng gạt nó đi như gạt một con muỗi.
Tôi đứng dậy, cầm đĩa thức ăn của nàng bỏ vào thùng rác. Khi tôi ngồi xuống thì mắt nàng đã khô nhưng vẫn còn đỏ. Nàng sụt sịt mũi và yếu ớt mỉm cười với tôi. “Có lẽ tôi đã nói xấu Perry nhiều quá, nhưng tôi cũng chẳng phải là người vui vẻ lạc quan gì cho cam, anh biết không? Tôi cũng tan tác lắm. Chỉ khác là tôi… vẫn còn sống thôi. Như một vụ tai nạn đang tiếp diễn.” Nàng cất một tiếng cười ngắn, khùng khục. “Kỳ cục thật, tôi chưa bao giờ nói những chuyện này với bất kỳ ai, nhưng anh thì… ý tôi là anh im lặng quá, anh cứ ngồi đó lăng nghe, giống như là nói chuyện với…” Nụ cười của nàng tan biến và nàng lại có vẻ tư lự hồi lâu. Khi nàng lại lên tiếng, giọng nàng trở nên thận trọng nhưng dứt khoát hơn, và mắt nàng nhìn khắp cabin, xem xét từng cái đinh tán trên cửa sổ và những nhãn cảnh báo. “Hồi còn nhỏ tôi từng dùng ma túy. Bắt đầu lúc mười hai tuổi, và tôi đã thử gần như đủ mọi thứ. Giờ khi có dịp tôi vẫn uống rượu và hút cần sa. Thậm chí hồi mười ba tuổi có lần tôi từng ngủ với một gã để lấy tiền. Không phải vì tôi cần tiền – ngay từ hồi ấy tiền đã chẳng còn giá trị gì nữa. Chỉ vì đó là một việc khủng khiếp, và hình như tôi thấy tôi đáng bị như vậy.” Nàng nhìn xuống cổ tay, nhìn những vết sẹo mờ như dấu vào cửa của một buổi ca nhạc khủng khiếp nào đó. “Tất cả những điều tệ hại mà người ta tự làm với chính mình… có thể chỉ cùng là một điều thôi, anh biết không? Một cách để nhấn chìm giọng nói của mình. Để giết ký ức của mình mà không phải tự giết mình.”
Một quãng dài im lặng. Mắt nàng đưa khắp sàn, trong khi mắt tôi không rời mặt nàng, chờ đợi nàng trở lại. Nàng hít một hơi thật sâu, nhìn tôi, và khẽ nhún vai. “Nhún vai,” nàng nói nhỏ, rồi cố nặn ra một nụ cười.
Tôi chậm rãi đứng lên đi ra chỗ máy quay đĩa. Tôi chọn một trong những cái đĩa yêu thích của mình, một cái đĩa vô danh tập hợp các bài hát của Sinatra từ nhiều album khác nhau. Tôi cũng không biết sao tôi lại thích nó đến thế. Có lần tôi đã ngồi suốt ba ngày trời trước máy hát chỉ để ngắm chiếc đĩa quay. Tôi biết từng đường rãnh trên chiếc đĩa này còn rõ hơn những đường rãnh trên lòng bàn tay tôi. Người ta thường nói âm nhạc là một cách truyền đạt tuyệt vời; tôi tự hỏi không biết điều đó có còn đúng nữa không trong cái thế giới ít người sống nhiều hơn người chết này. Tôi đặt đĩa lên, và khi nhạc cất lên tôi bắt đầu dịch chuyển cái kim, nhảy qua từng đoạn nhạc, từng bài hát, nhảy quanh từng vòng đĩa để tìm những lời tôi muốn đưa vào trong không khí. Từng lời hát vang lên lỗi điệu, lỗi nhạc, điểm thêm những tiếng xoèn xoẹt như xé vải, nhưng ý nghĩa thì không chê vào đâu được. Cho dù tôi có cách diễn đạt của một người nhà Kennedy đi chăng nữa thì giọng nam trung êm ái của Frank cũng nói được những điều tôi muốn nói giỏi hơn chất giọng khàn đục của tôi nhiều. Tôi đứng bên cái đĩa hát, cắt dán tiếng nói lòng tôi thành một bức tranh trong không gian.
Tôi không quan tâm nếu em bị gọi là–xoẹt–khi mọi người nói rằng em là-xoẹt–phép phù thủy xấu xa–xoẹt–đừng thay đổi với tôi dù chỉ là một sợi tóc, nếu em-xoẹt–vì em rất tuyệt vời–xoẹt–chỉ em đúng như thế này–xoẹt–em rất tuyệt vời… tuyệt vời… thế thôi…
Tôi để cái đĩa hát chơi bình thường cho đến hết và ngồi xuống trước mặt Julie. Nàng nhìn tôi chăm chú bằng cặp mắt ướt lệ, đỏ hoe. Tôi áp tay vào ngực nàng, cảm nhận tiếng đập nhẹ nhàng bên trong. Một chất giọng nhỏ xíu nói bằng mật mã.
Julie sụt sịt. Nàng quẹt một ngón tay qua mũi. “Anh là cái gì?” nàng hỏi tôi lần thứ hai.
Tôi thoáng mỉm cười. Rồi tôi đứng lên ra khỏi máy bay, để câu hỏi của nàng đọng lại đó mà vẫn không có câu trả lời. Trong lòng bàn tay mình tôi cảm thấy nhịp tim nàng vọng về, thay thế nhịp tim thiếu vắng của tôi.
* * *
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook