Xác Ấm
-
Chương 11
Chúng tôi quay về chỗ chiếc 747. Vẫn chưa giải quyết được vấn đề gì, nhưng nàng đã đồng ý hoãn cuộc đào tẩu của mình lại. Sau cảnh rắc rối mà chúng tôi vừa gây ra, tốt hơn hết chúng tôi nên lánh mặt một thời gian. Tôi không biết đám Xương Khô sẽ phản đối sự có mặt trái quy luật của Julie đến mức nào, bởi vì đây là lần đầu tiên tôi có lý do để chống lại chúng. Chuyện này chưa hề có tiền lệ.
Chúng tôi đi vào một hành lang qua đường nằm phía trên một bãi đổ xe, tóc Julie bay tung trong làn gió đang xào xạc thổi qua những ô kính vỡ. Những chậu cây cảnh trong nhà tràn ngập hoa cúc dại. Khi nhìn thấy chúng, Julie mỉm cười hái một bó. Tôi nhặt một bông trong tay nàng và vụng về cài nó vào tóc nàng. Bông hoa vẫn còn lá và chĩa ra chỏng chơ từ một bên đầu nàng. Nhưng nàng cứ để yên như thế.
“Anh có nhớ sống với những người khác là như thế nào không?” nàng hỏi trong lúc chúng tôi đi. “Trước khi anh chết ấy?”
Tôi lơ đãng phẩy tay.
“Bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Khi tôi lên mười thì quê tôi mới bị tàn phá và chúng tôi phải đến đây, nên tôi vẫn còn nhớ trước kia như thế nào. Giờ tất cả đều thay đổi nhiều lắm. Mọi thứ đều nhỏ lại, chật chội hơn, ồn ào hơn, và lạnh hơn.” Nàng dừng lại trên hành lang đường bộ và nhìn qua khung cửa trống trơn, ngắm cảnh hoàng hôn nhàn nhạt bên ngoài. “Giờ tất cả chúng tôi đều bị dồn vào sân vận động, chẳng biết làm gì ngoài sống sót cho đến hết ngày. Không ai viết, không ai đọc, thậm chí hầu như chẳng ai nói chuyện với nhau.” Nàng xoay xoay bó hoa cúc trong tay và ngửi một bông. “Chúng tôi không trồng hoa nữa. Chỉ trồng lương thực thôi.”
Tôi nhìn qua cửa sổ đối diện, nhìn hoàng hôn đang tối dần. “Vì chúng tôi.”
“Không, không phải vì các anh. Ý tôi là, ừ, đúng là vì các anh thật, nhưng không chỉ có thế đâu. Anh quả thực không nhớ trước kia thế nào ư? Với những sụp đổ chính trị và xã hội ấy? Lũ lụt toàn cầu? Chiến tranh, bạo loạn, những vụ ném bom không ngừng? Thế giới đã tiến gần đến ngày tận thế lắm rồi, trước khi các anh xuất hiện. Các anh chỉ là phán quyết cuối cùng thôi.”
“Nhưng chúng tôi lại… đang giết các bạn. Trong lúc này.”
Nàng gật đầu. “Đúng thế, lúc này thì Xác Sống là mối nguy hiểm trước mắt. Khi mà gần như ai chết đi cũng sống lại và giết thêm hai người nữa thì… đúng là một phép toán đáng sợ. Nhưng vấn đề cốt lõi lớn hơn thế nhiều, hoặc cũng có thể là nó nhỏ hơn, sâu xa hơn, và cho dù có giết cả triệu Xác Sống thì cũng không thể giải quyết được nữa, bởi vì sẽ luôn có thêm nhiều vấn đề khác.”
Hai Người Chết xuất hiện sau một khúc quanh và lao vào Julie. Tôi dập đầu họ vào nhau và họ gục nhanh chóng, tự hỏi không biết trong cuộc đời trước kia tôi có từng học võ không. Tôi có vẻ khỏe hơn nhiều so với dáng người gầy gò của mình.
“Bố tôi không quan tâm đến những điều đó,” Julie nói tiếp khi chúng tôi đi tới đường lên máy bay và vào trong khoang. “Khi vẫn còn chính phủ thì ông từng là một vị tướng trong quân đội, nên ông chỉ có một cách suy nghĩ duy nhất thôi. Xác định mối nguy, tiêu diệt mối nguy, đợi lệnh từ cấp trên. Nhưng vì cấp trên đã biến mất và những người điều khiển đã chết hết, giờ chúng tôi biết làm gì đây? Không ai biết, nên chúng tôi chẳng làm gì cả. Chỉ gom góp đồ tiếp tế, giết Xác Sống, và mở rộng tường vây vào sâu hơn trong thành phố. Nói đơn giản thì cách cứu nhân loại của bố tôi là xây một cái hộp bê tông thật to, bỏ tất cả mọi người vào đấy, rồi ôm súng đứng canh ngoài cửa cho đến khi chúng tôi chết già.” Nàng ngồi ngả lên ghế, hít một hơi thật sâu, rồi lại thở hắt ra. Giọng nàng nghe mệt mỏi vô cùng. “Ý tôi là sống sót thì tất nhiên là quan trọng rồi,” nàng nói. “Nhưng phải có cái gì đó hơn thế nữa chứ, phải không?”
Tôi lan man nghĩ về mấy ngày vừa qua, và đột nhiên tôi chợt nghĩ đến hai đứa con tôi. Cái cảnh chúng ngồi trong hành lang chơi với cái dập ghim và cười với nhau. Cười. Tôi đã bao giờ thấy đứa trẻ Người Chết nào khác cười chưa? Tôi không nhớ. Nhưng khi nghĩ đến chúng, nghĩ đến ánh mắt chúng khi chúng ôm lấy chân tôi, tôi thấy những cảm xúc lạ lùng trào lên trong lòng. Ánh mắt ấy là gì nhỉ? Nó từ đâu đến? Trong bộ phim tuyệt vời chiếu lên trên mặt chúng ấy, bản nhạc du dương nào đang chơi? Lời thoại nói bằng thứ tiếng gì? Có thể dịch ra được không?
Khoang máy bay im lặng trong chốc lát. Julie nằm ngửa và ngoẹo đầu nhìn ngược ra cửa sổ. “Anh sống trong một cái máy bay, R ạ,” nàng nói. “Thích thật. Tôi nhớ cái cảm giác nhìn thấy máy bay trên trời. Tôi đã nói với anh là tôi nhớ máy bay như thế nào chưa nhỉ?”
-“Come Fly with Me”.
Tôi đi đến chỗ máy quay đĩa. Cái đĩa Sinatra vẫn đang chạy quanh một rãnh trống, vì vậy tôi liền đẩy kim đến bài “Hãy bay cùng tôi”.
Julie mỉm cười. “Hay đấy.”
Tôi nằm lên sàn và đặt tay lên ngực, mắt nhìn lên trần, mồm lẩm nhẩm lung tung theo lời hát.
“Mà tôi cũng đã nói với anh là, theo một cách kỳ quặc nào đó, thì ở đây cũng khá dễ chịu chưa nhỉ?” Julie xoay đầu lại nhìn tôi. “Ý tôi là ngoài việc suýt bị ăn đến bốn lần ấy. Đã bao nhiêu năm rồi tôi mới lại có thời gian rảnh rỗi để hít thở, để suy nghĩ và nhìn ra ngoài cửa sổ. Và anh có một bộ sưu tập đĩa hát cũng không đến nỗi nào.”
Nàng thò tay xuống cắm một bông hoa cúc lên hai bàn tay tôi đang chắp lại, rồi cười khúc khích. Mất một lúc tôi mới nhận ra là trông mình giống một tử thi trong đám tang kiểu xưa. Tôi ngồi bật dậy như bị sét đánh, và Julie cười phá lên. Tôi cũng không thể không mỉm cười.
“Và anh có biết chuyện điên rồ nhất là gì không, R?” nàng nói. “Đôi khi tôi gần như không tin nổi anh là Xác Sống. Đôi khi tôi nghĩ anh chỉ đang bôi phấn hóa trang thôi, bởi vì khi anh cười thì… đúng là khó tin thật.”
Tôi lại nằm xuống và bắt tay sau đầu. Vì ngượng, tôi giữ cho mặt mình vô cảm cho đến khi Julie ngủ thiếp đi. Rồi tôi để cho nụ cười dần dần trở lại trên mặt, và tôi cười nhìn trần nhà trong lúc những ngôi sao dần sáng lên ngoài cửa.
* * *
Chiều muộn ngày hôm sau, tiếng ngáy khe khẽ của nàng dừng lại. Vẫn nằm nguyên trên sàn, tôi đợi nghe những tiếng động nàng phát ra khi thức giấc. Tiếng nàng đổi tư thế, tiếng hít thở sâu, tiếng rên khe khẽ.
“R này,” nàng nói giọng còn ngái ngủ.
“Sao?”
“Anh biết không, họ nói đúng đấy.”
“Ai?”
“Mấy bộ xương ấy mà. Tôi đã thấy những bức ảnh họ chỉ cho anh. Họ đã đúng khi nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra.”
Tôi không nói gì.
“Một người trong số bọn tôi đã thoát. Khi nhóm các anh tấn công, cô bạn Nora của tôi đã trốn dưới một cái bàn. Cô ấy đã thấy anh… bắt tôi. An ninh có thể sẽ mất chút thời gian để phát hiện ra anh đã đưa tôi về tổ nào, nhưng rồi họ sẽ phát hiện ra thôi, và bố tôi sẽ đến. Bố sẽ giết anh.”
“Tôi đã… chết rồi,” tôi nói.
“Không, không phải,” nàng ngồi dậy nói. “Rõ ràng anh chưa chết.”
Tôi nghĩ về điều nàng vừa nói trong giây lát. “Cô muốn… quay về.”
“Không,” nàng nói, rồi có vẻ giật mình. “Ý tôi là có, tất nhiên là có, nhưng…” Nàng rên lên bực dọc. “Cũng chẳng quan trọng gì, tôi phải quay về thôi. Họ sẽ đến đây xóa sổ các anh. Tất cả các anh.”
Tôi lại im bặt.
“Tôi không muốn chịu trách nhiệm vì chuyện đó, được chứ?” Vừa nói nàng vừa có vẻ như đang suy xét điều gì. Giọng nàng căng thẳng, đầy bối rối. “Tôi đã luôn được dạy rằng Xác Sống chỉ là những thây ma biết đi cần phải bị tiêu diệt, nhưng… nhìn anh mà xem. Anh không chỉ là một cái xác, phải không? Vậy lỡ còn nhiều người khác giống như anh thì sao?”
Mặt tôi đanh lại.
Julie thở dài. “R này… có lẽ anh sến đến độ tin rằng tử vì đạo thì thật lãng mạn, nhưng còn những người khác thì sao? Các con anh chẳng hạn? Chúng sẽ ra sao?”
Nàng đang đẩy tâm trí tôi đến những con đường nó ít khi đặt chân tới. Trong suốt bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm ở đây, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng những sinh vật đang đi quanh tôi cũng là con người. Họ có nhân hình, đúng thế, nhưng không phải là con người. Chúng tôi ăn, ngủ và đi qua màn sương, như đang tham gia một cuộc ma ra tông không có đích, không có huy chương, không được ai cổ vũ. Không một cư dân nào của sân bay tỏ ra kinh hoàng khi tôi giết bốn người đồng loại. Chúng tôi coi mình cũng như Người Sống thôi: là thịt. Vô danh, vô hình, có thể bị vứt bỏ. Nhưng Julie đã đúng. Tôi có suy nghĩ. Tôi cũng có một chút linh hồn, cho dù cái linh hồn ấy có teo tóp vô dụng đến thế nào đi chăng nữa. Vì vậy có lẽ những người kia cũng thế. Có thể ở đây còn cái gì đó đáng được cứu.
“Được,” tôi nói. “Cô sẽ… phải về.”
Nàng lẳng lặng gật đầu.
“Nhưng tôi sẽ… đi cùng.”
Nàng bật cười. “R! Đi đến sân vận động à? Anh điên rồi chắc?”
Tôi lắc đầu.
“Được, thế thì hãy nghĩ về việc này một chút đã, được chứ? Anh ấy à? Là một Xác Sống. Cho dù anh có được bảo quản tốt và có vẻ dễ thương đến thế nào đi chăng nữa thì anh cũng vẫn cứ là Xác Sống, và thử đoán xem tất cả những người từ mười tuổi trở lên trong sân vận động đã luyện tập cái gì bảy ngày một tuần nào?”
Tôi không đáp.
“Chính xác. Giết Xác Sống. Vì thế, để tôi nói cho rõ hơn – anh không thể đi với tôi được. Vì họ sẽ giết anh.”
Tôi nghiến răng. “Thì sao?”
Nàng nghiêng đầu sang bên, và vẻ mỉa mai của nàng biến mất. Giọng nàng trở nên ngần ngừ. “Anh nói ‘thì sao’ nghĩa là thế nào? Anh muốn chết à? Chết thực sự ấy?”
Phản ứng đầu tiên của tôi là nhún vai. Đã từ lâu tôi luôn trả lời mọi câu hỏi bằng cái nhún vai. Nhưng khi nằm trên sàn, thấy cặp mắt lo lắng của nàng nhìn xuống tôi, tôi chợt nhớ đến cảm giác đã xuyên suốt qua tôi khi tôi thức dậy ngày hôm qua, cái cảm giác của Không! và Có! Cái cảm giác chống-nhún-vai.
“Không,” tôi nói với trần máy bay. “Tôi không muốn chết.”
Nói dứt lời, tôi mới nhận ra tôi vừa phá vỡ kỷ lục về âm tiết của chính mình.
Julie gật đầu. “Tốt.”
Tôi hít một hơi thật sâu và đứng dậy. “Cần… suy nghĩ,” tôi nói nhưng tránh nhìn vào mắt nàng. “Quay lại… ngay. Khóa… cửa.”
Tôi rời khỏi máy bay, và mắt nàng dõi theo tôi.
* * *
Chúng tôi đi vào một hành lang qua đường nằm phía trên một bãi đổ xe, tóc Julie bay tung trong làn gió đang xào xạc thổi qua những ô kính vỡ. Những chậu cây cảnh trong nhà tràn ngập hoa cúc dại. Khi nhìn thấy chúng, Julie mỉm cười hái một bó. Tôi nhặt một bông trong tay nàng và vụng về cài nó vào tóc nàng. Bông hoa vẫn còn lá và chĩa ra chỏng chơ từ một bên đầu nàng. Nhưng nàng cứ để yên như thế.
“Anh có nhớ sống với những người khác là như thế nào không?” nàng hỏi trong lúc chúng tôi đi. “Trước khi anh chết ấy?”
Tôi lơ đãng phẩy tay.
“Bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Khi tôi lên mười thì quê tôi mới bị tàn phá và chúng tôi phải đến đây, nên tôi vẫn còn nhớ trước kia như thế nào. Giờ tất cả đều thay đổi nhiều lắm. Mọi thứ đều nhỏ lại, chật chội hơn, ồn ào hơn, và lạnh hơn.” Nàng dừng lại trên hành lang đường bộ và nhìn qua khung cửa trống trơn, ngắm cảnh hoàng hôn nhàn nhạt bên ngoài. “Giờ tất cả chúng tôi đều bị dồn vào sân vận động, chẳng biết làm gì ngoài sống sót cho đến hết ngày. Không ai viết, không ai đọc, thậm chí hầu như chẳng ai nói chuyện với nhau.” Nàng xoay xoay bó hoa cúc trong tay và ngửi một bông. “Chúng tôi không trồng hoa nữa. Chỉ trồng lương thực thôi.”
Tôi nhìn qua cửa sổ đối diện, nhìn hoàng hôn đang tối dần. “Vì chúng tôi.”
“Không, không phải vì các anh. Ý tôi là, ừ, đúng là vì các anh thật, nhưng không chỉ có thế đâu. Anh quả thực không nhớ trước kia thế nào ư? Với những sụp đổ chính trị và xã hội ấy? Lũ lụt toàn cầu? Chiến tranh, bạo loạn, những vụ ném bom không ngừng? Thế giới đã tiến gần đến ngày tận thế lắm rồi, trước khi các anh xuất hiện. Các anh chỉ là phán quyết cuối cùng thôi.”
“Nhưng chúng tôi lại… đang giết các bạn. Trong lúc này.”
Nàng gật đầu. “Đúng thế, lúc này thì Xác Sống là mối nguy hiểm trước mắt. Khi mà gần như ai chết đi cũng sống lại và giết thêm hai người nữa thì… đúng là một phép toán đáng sợ. Nhưng vấn đề cốt lõi lớn hơn thế nhiều, hoặc cũng có thể là nó nhỏ hơn, sâu xa hơn, và cho dù có giết cả triệu Xác Sống thì cũng không thể giải quyết được nữa, bởi vì sẽ luôn có thêm nhiều vấn đề khác.”
Hai Người Chết xuất hiện sau một khúc quanh và lao vào Julie. Tôi dập đầu họ vào nhau và họ gục nhanh chóng, tự hỏi không biết trong cuộc đời trước kia tôi có từng học võ không. Tôi có vẻ khỏe hơn nhiều so với dáng người gầy gò của mình.
“Bố tôi không quan tâm đến những điều đó,” Julie nói tiếp khi chúng tôi đi tới đường lên máy bay và vào trong khoang. “Khi vẫn còn chính phủ thì ông từng là một vị tướng trong quân đội, nên ông chỉ có một cách suy nghĩ duy nhất thôi. Xác định mối nguy, tiêu diệt mối nguy, đợi lệnh từ cấp trên. Nhưng vì cấp trên đã biến mất và những người điều khiển đã chết hết, giờ chúng tôi biết làm gì đây? Không ai biết, nên chúng tôi chẳng làm gì cả. Chỉ gom góp đồ tiếp tế, giết Xác Sống, và mở rộng tường vây vào sâu hơn trong thành phố. Nói đơn giản thì cách cứu nhân loại của bố tôi là xây một cái hộp bê tông thật to, bỏ tất cả mọi người vào đấy, rồi ôm súng đứng canh ngoài cửa cho đến khi chúng tôi chết già.” Nàng ngồi ngả lên ghế, hít một hơi thật sâu, rồi lại thở hắt ra. Giọng nàng nghe mệt mỏi vô cùng. “Ý tôi là sống sót thì tất nhiên là quan trọng rồi,” nàng nói. “Nhưng phải có cái gì đó hơn thế nữa chứ, phải không?”
Tôi lan man nghĩ về mấy ngày vừa qua, và đột nhiên tôi chợt nghĩ đến hai đứa con tôi. Cái cảnh chúng ngồi trong hành lang chơi với cái dập ghim và cười với nhau. Cười. Tôi đã bao giờ thấy đứa trẻ Người Chết nào khác cười chưa? Tôi không nhớ. Nhưng khi nghĩ đến chúng, nghĩ đến ánh mắt chúng khi chúng ôm lấy chân tôi, tôi thấy những cảm xúc lạ lùng trào lên trong lòng. Ánh mắt ấy là gì nhỉ? Nó từ đâu đến? Trong bộ phim tuyệt vời chiếu lên trên mặt chúng ấy, bản nhạc du dương nào đang chơi? Lời thoại nói bằng thứ tiếng gì? Có thể dịch ra được không?
Khoang máy bay im lặng trong chốc lát. Julie nằm ngửa và ngoẹo đầu nhìn ngược ra cửa sổ. “Anh sống trong một cái máy bay, R ạ,” nàng nói. “Thích thật. Tôi nhớ cái cảm giác nhìn thấy máy bay trên trời. Tôi đã nói với anh là tôi nhớ máy bay như thế nào chưa nhỉ?”
-“Come Fly with Me”.
Tôi đi đến chỗ máy quay đĩa. Cái đĩa Sinatra vẫn đang chạy quanh một rãnh trống, vì vậy tôi liền đẩy kim đến bài “Hãy bay cùng tôi”.
Julie mỉm cười. “Hay đấy.”
Tôi nằm lên sàn và đặt tay lên ngực, mắt nhìn lên trần, mồm lẩm nhẩm lung tung theo lời hát.
“Mà tôi cũng đã nói với anh là, theo một cách kỳ quặc nào đó, thì ở đây cũng khá dễ chịu chưa nhỉ?” Julie xoay đầu lại nhìn tôi. “Ý tôi là ngoài việc suýt bị ăn đến bốn lần ấy. Đã bao nhiêu năm rồi tôi mới lại có thời gian rảnh rỗi để hít thở, để suy nghĩ và nhìn ra ngoài cửa sổ. Và anh có một bộ sưu tập đĩa hát cũng không đến nỗi nào.”
Nàng thò tay xuống cắm một bông hoa cúc lên hai bàn tay tôi đang chắp lại, rồi cười khúc khích. Mất một lúc tôi mới nhận ra là trông mình giống một tử thi trong đám tang kiểu xưa. Tôi ngồi bật dậy như bị sét đánh, và Julie cười phá lên. Tôi cũng không thể không mỉm cười.
“Và anh có biết chuyện điên rồ nhất là gì không, R?” nàng nói. “Đôi khi tôi gần như không tin nổi anh là Xác Sống. Đôi khi tôi nghĩ anh chỉ đang bôi phấn hóa trang thôi, bởi vì khi anh cười thì… đúng là khó tin thật.”
Tôi lại nằm xuống và bắt tay sau đầu. Vì ngượng, tôi giữ cho mặt mình vô cảm cho đến khi Julie ngủ thiếp đi. Rồi tôi để cho nụ cười dần dần trở lại trên mặt, và tôi cười nhìn trần nhà trong lúc những ngôi sao dần sáng lên ngoài cửa.
* * *
Chiều muộn ngày hôm sau, tiếng ngáy khe khẽ của nàng dừng lại. Vẫn nằm nguyên trên sàn, tôi đợi nghe những tiếng động nàng phát ra khi thức giấc. Tiếng nàng đổi tư thế, tiếng hít thở sâu, tiếng rên khe khẽ.
“R này,” nàng nói giọng còn ngái ngủ.
“Sao?”
“Anh biết không, họ nói đúng đấy.”
“Ai?”
“Mấy bộ xương ấy mà. Tôi đã thấy những bức ảnh họ chỉ cho anh. Họ đã đúng khi nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra.”
Tôi không nói gì.
“Một người trong số bọn tôi đã thoát. Khi nhóm các anh tấn công, cô bạn Nora của tôi đã trốn dưới một cái bàn. Cô ấy đã thấy anh… bắt tôi. An ninh có thể sẽ mất chút thời gian để phát hiện ra anh đã đưa tôi về tổ nào, nhưng rồi họ sẽ phát hiện ra thôi, và bố tôi sẽ đến. Bố sẽ giết anh.”
“Tôi đã… chết rồi,” tôi nói.
“Không, không phải,” nàng ngồi dậy nói. “Rõ ràng anh chưa chết.”
Tôi nghĩ về điều nàng vừa nói trong giây lát. “Cô muốn… quay về.”
“Không,” nàng nói, rồi có vẻ giật mình. “Ý tôi là có, tất nhiên là có, nhưng…” Nàng rên lên bực dọc. “Cũng chẳng quan trọng gì, tôi phải quay về thôi. Họ sẽ đến đây xóa sổ các anh. Tất cả các anh.”
Tôi lại im bặt.
“Tôi không muốn chịu trách nhiệm vì chuyện đó, được chứ?” Vừa nói nàng vừa có vẻ như đang suy xét điều gì. Giọng nàng căng thẳng, đầy bối rối. “Tôi đã luôn được dạy rằng Xác Sống chỉ là những thây ma biết đi cần phải bị tiêu diệt, nhưng… nhìn anh mà xem. Anh không chỉ là một cái xác, phải không? Vậy lỡ còn nhiều người khác giống như anh thì sao?”
Mặt tôi đanh lại.
Julie thở dài. “R này… có lẽ anh sến đến độ tin rằng tử vì đạo thì thật lãng mạn, nhưng còn những người khác thì sao? Các con anh chẳng hạn? Chúng sẽ ra sao?”
Nàng đang đẩy tâm trí tôi đến những con đường nó ít khi đặt chân tới. Trong suốt bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm ở đây, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng những sinh vật đang đi quanh tôi cũng là con người. Họ có nhân hình, đúng thế, nhưng không phải là con người. Chúng tôi ăn, ngủ và đi qua màn sương, như đang tham gia một cuộc ma ra tông không có đích, không có huy chương, không được ai cổ vũ. Không một cư dân nào của sân bay tỏ ra kinh hoàng khi tôi giết bốn người đồng loại. Chúng tôi coi mình cũng như Người Sống thôi: là thịt. Vô danh, vô hình, có thể bị vứt bỏ. Nhưng Julie đã đúng. Tôi có suy nghĩ. Tôi cũng có một chút linh hồn, cho dù cái linh hồn ấy có teo tóp vô dụng đến thế nào đi chăng nữa. Vì vậy có lẽ những người kia cũng thế. Có thể ở đây còn cái gì đó đáng được cứu.
“Được,” tôi nói. “Cô sẽ… phải về.”
Nàng lẳng lặng gật đầu.
“Nhưng tôi sẽ… đi cùng.”
Nàng bật cười. “R! Đi đến sân vận động à? Anh điên rồi chắc?”
Tôi lắc đầu.
“Được, thế thì hãy nghĩ về việc này một chút đã, được chứ? Anh ấy à? Là một Xác Sống. Cho dù anh có được bảo quản tốt và có vẻ dễ thương đến thế nào đi chăng nữa thì anh cũng vẫn cứ là Xác Sống, và thử đoán xem tất cả những người từ mười tuổi trở lên trong sân vận động đã luyện tập cái gì bảy ngày một tuần nào?”
Tôi không đáp.
“Chính xác. Giết Xác Sống. Vì thế, để tôi nói cho rõ hơn – anh không thể đi với tôi được. Vì họ sẽ giết anh.”
Tôi nghiến răng. “Thì sao?”
Nàng nghiêng đầu sang bên, và vẻ mỉa mai của nàng biến mất. Giọng nàng trở nên ngần ngừ. “Anh nói ‘thì sao’ nghĩa là thế nào? Anh muốn chết à? Chết thực sự ấy?”
Phản ứng đầu tiên của tôi là nhún vai. Đã từ lâu tôi luôn trả lời mọi câu hỏi bằng cái nhún vai. Nhưng khi nằm trên sàn, thấy cặp mắt lo lắng của nàng nhìn xuống tôi, tôi chợt nhớ đến cảm giác đã xuyên suốt qua tôi khi tôi thức dậy ngày hôm qua, cái cảm giác của Không! và Có! Cái cảm giác chống-nhún-vai.
“Không,” tôi nói với trần máy bay. “Tôi không muốn chết.”
Nói dứt lời, tôi mới nhận ra tôi vừa phá vỡ kỷ lục về âm tiết của chính mình.
Julie gật đầu. “Tốt.”
Tôi hít một hơi thật sâu và đứng dậy. “Cần… suy nghĩ,” tôi nói nhưng tránh nhìn vào mắt nàng. “Quay lại… ngay. Khóa… cửa.”
Tôi rời khỏi máy bay, và mắt nàng dõi theo tôi.
* * *
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook