Ưng Nô
-
Chương 5
Gió tuyết giăng kín mặt sông, vó ngựa đạp trên tuyết trắng, đường rời Tây Xuyên xa vời vợi, ngàn dặm núi xanh như vẽ chân mày.
Trời mới vào đông, những trận bão tuyết cứ lần lữa mãi không tới, vậy mà vừa tới là kéo theo vạn dặm băng phong càn quét đất trời. Dọc theo con đường rời Tây Xuyên đến Phong Sơn, chỉ thấy người người nhà nhà chạy nạn từ Bắc Cương đến Trung Nguyên cùng với đám binh lính đào ngũ nhỏ nhoi, tuyệt nhiên không thấy bóng nạn dân chạy về phương Bắc.
Chờ sau khi sức khoẻ Lý Khánh Thành khôi phục đã là giữa tháng chạp, hắn giấu trăm lượng bạc trước ngực, cùng thị vệ câm đội tuyết lên đường đi về phương bắc. Hắn mở danh sách thuốc tại dược đường của Nga Nương tại Tây Xuyên, trước tiên đến Đinh Châu nằm cách Phong Sơn sáu trăm dặm, chia ra bốn xe mang theo ba ngàn hộp cao, lại thuê thêm xe ngựa, dọc đường cố tránh các trạm canh gác, hướng về Phong Sơn.
Sông Tiêu Cốt như mồ giấu vạn xác, nước sông chảy xuôi về phía nam, vòng qua Phong Sơn hướng về vùng trũng Tây Xuyên. Dọc hai bên bờ sông, tuyết lớn cuộn cả trời mây, lúc rơi lúc ngừng. Chiến sự đang lúc tạm ngưng, cứ đi tiếp theo hướng bắc là đến tiền tuyến.
Bảy mươi dặm ngoài vùng chiến sự trọng yếu có một tòa thành tĩnh lặng yên ắng. Tường thành cháy đen gần như đã bị thiêu rụi hoàn toàn, một doanh trại mọc lên bên ngoài toà thành, chính là nơi dừng chân tập kết binh lính chi viện của Đại Ngu.
Dưới núi khói bay đầy trời, tuyết đã rơi bớt dày hơn một chút, Lý Khánh Thành nhìn ra xa phía dưới, cả một thành trì to như vậy, giữa gió bấc phần phật tuyết bay tán loạn, lại không nghe thấy tiếng người. Dường như trước đây không lâu nơi này đã bị quân Hung Nô cho một mồi lửa thiêu hủy hoàn toàn.
Doanh trại binh lính bị đập phá tan tành. Hắn nói: “Ưng ca, huynh ở đây trông coi hàng hoá, ta xuống dưới kia xem thử.”
Lý Khánh Thành cẩn thận xuống dưới, Trương Mộ nghiêng người trượt đi, hất tuyết lên, cũng lần theo dốc núi mà trượt xuống.
Lý Khánh Thành vậy nhưng cũng không đuổi gã về, hắn bước qua những thi thể cháy đen rồi trực tiếp tiến vào doanh trại.
“Bọn họ đã bị tập kích bất ngờ.” Lý Khánh Thành khom người kiểm tra một cỗ thi thể: “Là người Hung Nô làm chuyện này sao?”
Trương Mộ ngồi xuống, gã lấy ngón tay vạch áo giáp của một tên lính, áo giáp sắt bị loan đao chém một đường nứt dài, lộ ra vết thương bị đốt cháy đen cùng nội tạng.
“Chuyện xảy ra tối hôm qua.” Trương Mộ nói, nét mặt gã không chút thay đổi.
Một lá cờ chiến phía trên viết một chữ “Phương” vẫn chưa được hạ xuống tung bay phần phật trong gió lạnh. Trương Mộ ngửa đầu nhìn lá cờ kia, Lý Khánh Thành quay người lục soát bộ giáp của đám binh sĩ, tìm được mấy tấm lệnh bài, hắn dùng áo choàng rách rưới bọc lấy chúng.
“Ưng ca, huynh rút là cờ kia đi, chúng ta tiếp tục chuyển hàng đến thành Lang Hoàn.” Lý Khánh Thành nói: “Vừa đúng lúc.”
Trương Mộ nói: “Từ từ đã.”
Hắn cúi người dán lỗ tai sát mặt đất, nghe được từ nơi xa truyền đến tiếng vó ngựa đạp hỗn loạn, mặt hiện vẻ nghiêm trọng. Lý Khánh Thành chẳng hiểu ra sao, vậy nên hắn cũng nằm xuống, mặt đối mặt với Trương Mộ.
Mặt Trương Mộ đỏ lên, Lý Khánh Thành liền lập tức đứng dậy nói: “Bên kia vẫn đang giao chiến sao?”
Hai người trở mình trèo lên ngựa, nhanh chóng lướt đi qua mặt sông Tiêu Cốt đã sớm đóng băng, tiến sang phía bên kia gò núi.
Một trận hỗn chiến kịch liệt đang diễn ra trên bình nguyên, một toán kỵ binh Hung Nô nhỏ bé nhanh chóng đột kích, đánh cho đám lính Đại Ngu tan đàn xẻ nghé, chạy tứ phía dưới núi như những chấm đen bé tẹo.
Lý Khánh Thành đuổi tới vừa đúng lúc hỗn chiến kết thúc, người Hung Nô giành thắng lợi tuyệt đối, toàn quân chia ra đồ sát dã man đám lính thua cuộc.
Sau khi chứng kiến lũ giặc gian không ngừng thảm sát binh bại, uy thế rung chuyển đất trời, Lý Khánh Thành biết chỉ dựa vào sức hai người chủ tớ bọn hắn thì tuyệt đối không thể thay đổi được gì giữa thiên quân vạn mã, đành phải ẩn mình lặng lẽ theo dõi.
“Huynh nhìn nơi đó kìa, Ưng ca.” Lý Khánh Thành khẽ ra hiệu.
Toán lính cuối cùng đặc biệt có tới gần trăm người, tướng lĩnh hốt hoảng trốn chạy thất bại, chỉ còn duy nhất vài binh sĩ khổ sở ra sức bọc hậu.
“Chống lại ta chỉ có chết!” Một tiếng quát lớn vang lên, một tên binh sĩ tầm thường trong số đó hét, mỗi tay y cầm một thanh trường thương, lúc múa võ thì kỹ nghệ tài tình, quét bay cả người lẫn ngựa đám kỵ binh Hung Nô.
Lý Khánh Thành không khỏi kinh hãi, người này trời sinh thể lực cực kỳ mạnh mẽ, sao có thể chỉ là một binh sĩ tầm thường?
Trương Mộ dường như hơi thay đổi sắc mặt, chỉ thấy quân Hung Nô bắt đầu tập trung dồn y vào chỗ chết, Lý Khánh Thành hỏi: “Có thể cứu không?”
Trương Mộ nói cứng nhắc: “Có thể.”
Lý Khánh Thành nói: “Nếu dũng sĩ này chết dưới vây quét của đám người Hung Nô...”
Trương Mộ trở tay rút đại đao phía sau, cao giọng hét một tiếng thật dài.
Không chờ Lý Khánh Thành nói chuyện đại nghĩa quốc gia, Trương Mộ đã như cú vọ xám trong tuyết trắng, nhào mình xuống dưới núi!
Một màn kia ập đến quá mức chấn động, đến nỗi Lý Khánh Thành suốt đời này khó quên nổi màn võ nghệ của Trương Mộ.
Dù là Đường Hồng của nhiều năm sau, chỉ cần một mình đã đủ trấn giữ quan ải, y nghiêng tay nắm xoay hải kích, một người một ngựa cản bước mười vạn kỵ binh Hung Nô nhuộm đỏ sông máu; hoặc Phương Thanh Dư kéo căng thần cung Phá Nguyệt, một mũi tên tru sát thiên tử trên đài Phong Thiện cách xa ngàn bước; hay Trương Mộ rút đao ngân dài dưới đêm trăng sáng, một đao chém cả người lẫn ngựa quốc vương Hung Nô thành hai mảnh trước mặt trăm vạn hùng binh ở Ngọc Bích Quan,… Qua gần trăm trận chiến lớn, hơn ngàn trận chiến nhỏ, tất cả đều không thể sánh được với cảm giác trước trận giao tranh ngày hôm nay, cảm xúc tới càng đột ngột thì càng mãnh liệt.
Trong giây lát Trương Mộ nhập trận, Lý Khánh Thành như cảm nhận được một cỗ nhiệt huyết đang thiêu đốt dữ dội trong cơ thể. Một thân huyết khí dũng mãnh của Trương Mộ có thể sánh ngang võ thần, gã sẽ không bao giờ chiến bại, có gã ở bên người, Lý Khánh Thành sẽ không bao giờ gặp nguy hiểm.
Cho đến tận khi Lý Khánh Thành chết, ý nghĩ này chưa bao giờ thay đổi.
Có lúc chỉ thấy một đường ảnh đao xám như gió giật xuyên thẳng tới, Trương Mộ tung trường đao, đao cùn chỉ tuỳ tiện vung lên, kỵ binh cản đường liền bị chém rơi khỏi mình ngựa, tay áo phiêu đãng, tên phi như mưa cũng không mảy may làm gì được gã.
Trong mắt Trương Mộ độc một màu thanh tịnh, gã vừa như chẳng nhìn ai cả, vừa như thu cả cuộc chiến vào mắt, lao mình lướt qua mưa tên dày đặc. Lúc gã vung đao, đến máu tươi tung toé do ngựa và quân binh phun ra cũng không vương một giọt trên áo.
Gã vất vả chém mở một con đường máu, thi thể quân địch đã sớm bị vứt bỏ sau lưng, chỉ trong chốc lát giết cho quân Hung Nô đại bại, phải quay ngựa bỏ chạy. Gã bẻ gãy cờ chiến, cán cờ dài hơn một trượng ngang tàng bay đi phát ra tiếng gió sắc bén. Tiếng ngựa hí thảm thiết trước khi chết vang lên, lực dư từ cán cờ gãy còn chưa hết, đâm xuyên ngực sáu tên binh sĩ Hung Nô cùng lúc!
Trương Mộ dừng bước, thu đao.
Binh sĩ Hung Nô kết thành đội hình vững chãi như tường sắt, nhưng không ai dám tiến lên.
Trương Mộ giết đến hứng khởi, trong mắt dày đặc huyết sắc, vẫn còn muốn chiến một trận kịch liệt, tiến lên phía trước một bước.
Đội hình binh sĩ Hung Nô hơi loạn, lùi lại nửa bước.
Trương Mộ xoay tay lại, đao đặt sát lưng, không giết ai hết.
Gã nhấc binh sĩ dũng mãnh cản quân vừa nãy lên, đặt ở trên lưng ngựa, dắt ngựa quay người bỏ đi, ba ngàn binh sĩ Hung Nô không ai dám cản, Lý Khánh Thành chờ trên sườn núi, thấy Trương Mộ trở về, vội vàng trở mình lên ngựa, rời đi trên con đường đầy gió tuyết.
Đại học sĩ kể đến đây thì dừng lại.
Lý Hiệu nghe tới chỗ này chỉ trầm mặc không nói, ngồi tựa trên ghế rồng nhấc cao ngón tay day huyệt Thái Dương, thái giám quanh người vội lấy khăn nóng, nhẹ nhàng đặt lên bàn tay hoàng đế.
“Người này nhất định có thân thế không bình thường.” Lý Hiệu bỗng nói.
Đại học sĩ nhẹ gật đầu, chậm rãi nói: “Bệ hạ cảm thấy hắn là ai?”
Lý Hiệu không đoán ra được, lắc đầu: “Tiên sinh cứ kể tiếp đi, hôm nay cô không phê tấu chương.”
Đại học sĩ ranh mãnh nói: “Bệ hạ, chuyện này nói ra rất dài.”
Lý Hiệu nói: “Chuyện tiên sinh muốn nói chính là…”
Đại học sĩ: “Thái hậu tuyên lão thần đến gặp là để…”
Lý Hiệu đành phải nhượng bộ: “Vậy hôm nay kể đến đây thôi.”
Đã qua hơn hai canh giờ, đại học sĩ qua tuổi thất tuần, mặc dù tinh thần minh mẫn, rốt cuộc lại vì tuổi già sức yếu, không ngồi lâu nổi.
Đại học sĩ đứng dậy cáo lui, Lý Hiệu lại nói: “Đêm qua thái hậu cũng đã nói, mời tiên sinh có rảnh thì đến Tây Cung một chút trò chuyện với người.”
Đại học sĩ vuốt râu nói: “Lão già này cũng đang có một chuyện muốn tâm sự cùng thái hậu, Bệ hạ, tên nhóc hôm qua đã bị giam lại rồi sao?”
Lý Hiệu nói: “Lúc dẫn tới hắn đã bất tỉnh nhân sự, cô sai người chữa bệnh cho hắn, đưa vào tích viện, đợi khi nào có thể mở miệng thì thẩm tra tiếp.”
Đại học sĩ lại nói: “Lão thần dưới gối không con, thị vệ này khi còn bé đã từng tìm tới lão thần. Nghe nói có cuộc thi tuyển võ quan tại kinh thành, lão thần mới để hắn đến ứng tuyển, may mắn được lọt mắt xanh…”
Lý Hiệu không rõ vui giận: “Sao không nói sớm? Thị vệ tiên sinh tiến cử, cô sẽ lưu ý.”
Đại học sĩ mỉm cười nói: “Tiểu tử kia ngày thường có tâm sự gì đều để trong bụng, tính cách lại quật cường, nếu như hắn làm bệ hạ không vui thì cứ đánh một trận, để lão thần đưa hắn về nhà.”
Lý Hiệu khoát tay nói: “Thôi, tiên sinh đã mở miệng, cô sẽ không làm khó hắn, tội đàm tiếu về quân vương, xá đi.”
Đại học sĩ chậm rãi gật đầu, Lý Hiệu lại nói: “Cô sai người dẫn hắn tới nhé?”
Đại học sĩ vội nói: “Bệ hạ không cần tốn sức, tạ bệ hạ khai ân, để lão thần chạy một vòng đến tích viện là được.”
Lý Hiệu nói: “Đã vậy, sau đó cũng đưa tiên sinh qua một chuyến.”
Lý Hiệu xem tiếp tấu chương, danh sách những thứ cần chuẩn bị cho hôn lễ đã được bộ Lễ kiểm tra lại vừa được trình lên, chữ trên tấu chương vừa nhỏ vừa chi chít, gã nhìn đến mệt cả đầu óc, xem được một lát lại gác bút, về điện.
Người hầu tiến lên hầu hạ, Lý Hiệu thay long bào, nhận lấy khăn nóng lau mặt, tỉ mỉ quan sát chính bản thân mình trong tấm gương đồng.
Chiều cao chín thước, ánh mắt tuổi hai mươi trẻ trung sắc bén, bên mặt lại có một vết bớt đỏ sậm như một ấn ký sỉ nhục, kéo từ bên tai đến dưới khóe mắt, hình dáng như một chú bướm.
Lý Hiệu nhìn chằm chằm mặt mình trong gương, ngoại hình gã không tính là ngọc thụ lâm phong, so với mấy người anh em của mình, gã như một kẻ ngoại lai. Da gã màu đồng cổ, môi mỏng bạc tình, mũi hơi giống mỏ ưng, tuy tướng mạo đoan chính, lại không phải loại mỹ nam. Từ nhỏ gã đã thích đi săn, không thích đọc sách, thích tập võ, không thích ngồi một chỗ, cũng có chút khí khái hào hùng của người quân sĩ.
Trong lòng Lý Hiệu rõ ràng, cho dù là dáng vẻ, thân thế, hay là văn chương, đều không phải yếu tố quyết định việc gã đăng cơ. Thậm chí ngoại hình gã cũng không giống các tiên đế chút nào. Hoàng đế Đại Ngu đời nào cũng đều sở hữu dáng dấp ngọc thụ lâm phong, mày rậm mắt to, vô cùng tuấn tú.
Bề ngoài Lý Hiệu dù có khí khái mạnh mẽ hào hùng, lại chẳng có vẻ gì là liên quan đến “tuấn tú”, nếu gã mặc trang phục thị vệ, trải qua kỳ thi tuyển võ quan, chắc chắn cũng sẽ bị loại vì gương mặt có khiếm khuyết.
Thậm chí đôi khi gã còn hoài nghi liệu mình có đúng là hậu duệ hoàng thất Đại Ngu hay không. Lúc gã vừa mới đăng cơ được vài năm, thái hậu vẫn còn buông rèm nhiếp chính, trên phố truyền nhau lời đồn đại, nói tiểu thái tử đương triều thực ra không phải là con ruột của tiên đế, gã bị tần phi bí mật đánh tráo, cốt nhục hoàng gia chân chính thì lưu lạc dân gian, không rõ sống chết. Lời đồn truyền vào trong cung, vì thế mà thái hậu nổi cơn thịnh nộ, cuối cùng quyết đuổi tận giết tuyệt bè lũ ủng hộ cựu thái tử trước gã.
Rất lâu trước đây, gần mười một năm trước, cựu thái tử chết, hoàng bào mới rơi vào tay gã, dù là như thế, tùy tiện chỉ một kẻ bất kỳ họ Lý, ai cũng tuấn lãng hơn gã, lại càng có thần thái văn nhã, càng được triều thần yêu thích.
Từ nhỏ đến lớn, cũng chưa từng có ai chủ động bày tỏ yêu thích gã – không một ai ngoại trừ tên thị vệ tâm tư bất lương kia.
Giờ đây sắp thành hôn, thực ra thì Lâm Uyển cưới ghế rồng, không phải cưới gã.
Trong điện Dưỡng Tâm, đại học sĩ và thái hậu ngồi uống trà, họ là những kẻ sinh cùng thời, đều có vẻ đã trải qua nhiều sóng to gió lớn.
Sau khi Thành Tổ băng hà hơn trăm năm, hoạn quan nắm giữ triều chính, chính nhờ đại học sĩ dốc hết sức thuyết phục võ tướng trong triều, lấy lý do đổi quân canh phòng, gửi một phong mật thư triệu Đường đại tướng quân trấn thủ biên cương hồi kinh, huyết tẩy hoàng cung giữa đêm khuya. Thái hậu thì hết mực thực hiện chức trách của người làm chủ hậu cung, bày mưu tính kế dụ đám hoạn quan tụ hợp vào một chỗ, cuối cùng thành công hốt gọn một mẻ.
Đương nhiên, bà cũng thuận tay dẹp luôn ấu đế đương triều, nâng con mình lên ngai rồng, bên ngoài có Đại học sĩ, bên trong có mẹ con thái hậu, Đại Ngu khó khăn lắm mới được mười năm bình an vô sự.
“Sau khi thành gia lập thất, người làm cha rồi thì tính cách cũng sẽ cùng ôn hoà đi, thái hậu không cần lo lắng.” Đại học sĩ chậm rãi nói.
Thái hậu cất lời bình đạm: “Sao có thể không lo lắng? Hoàng đế lúc nào cũng như chưa trưởng thành vậy. Bệ hạ đang làm gì?”
Một thái giám già khom người nói: “Hồi bẩm thái hậu, bệ hạ đuổi hết người hầu, đứng một mình trong ngự hoa viên đã một canh giờ.”
Thái hậu lắc đầu, đại học sĩ mỉm cười nói: “Bệ hạ từ nhỏ đã thế, không thích nói nhiều, đứng đấy từ từ suy nghĩ một lát, tự nhiên sáng tỏ.”
Thái hậu lại thở dài, hỏi: “Đứa con gái nhà họ Lâm ông cũng gặp rồi.”
Đại học sĩ gật đầu, không ngừng đánh giá, thái hậu lại không nhịn được mà nói: “Phù Phong, sau khi hoàng nhi thành hôn ông sẽ cáo lão…”
Đại học sĩ cười bảo: “Sắp lập gia đình rồi, trong lòng sẽ luôn có một nút thắt, phải học cách làm chồng, làm cha, đời người đều như thế đấy.”
Nói xong, đại học sĩ lấy cuốn sách thái giám mang lên rồi cáo lui, băng qua Tây Cung tiến về tích viện.
Lý Hiệu đứng một canh giờ trong ngự hoa viên, sau khi trở về thì ngã bệnh.
Hôm sau không lên triều, thái y sang khám bệnh, dặn dò bệ hạ vốn là người tập võ, nền tảng sức khoẻ vốn tốt, tĩnh dưỡng mấy ngày là có thể khôi phục.
Lại ba ngày trôi qua, còn năm ngày nữa sẽ tới lễ thành hôn, trong cung khẩn trương chuẩn bị hôn sự, trong đầu Lý Hiệu lại chẳng có ý niệm nào về việc thành hôn. Hôm đó, sau khi ăn sáng xong, gã mệt mỏi vô cùng, bèn tuyên gọi đại học sĩ đến thư phòng, muốn nghe tiếp chuyện xưa.
Đại học sĩ không tới, người tới lại là một người khác – Hứa Lăng Vân. Thương thế trên người Hứa Lăng Vân đã lành lại một chút, máu bầm trên mắt còn chưa tiêu, vết rách ở khóe miệng vẫn đang kết vảy, hắn ôm một chồng sách ố vàng, đứng ở ngoài cửa thư phòng chờ tuyên.
Trời mới vào đông, những trận bão tuyết cứ lần lữa mãi không tới, vậy mà vừa tới là kéo theo vạn dặm băng phong càn quét đất trời. Dọc theo con đường rời Tây Xuyên đến Phong Sơn, chỉ thấy người người nhà nhà chạy nạn từ Bắc Cương đến Trung Nguyên cùng với đám binh lính đào ngũ nhỏ nhoi, tuyệt nhiên không thấy bóng nạn dân chạy về phương Bắc.
Chờ sau khi sức khoẻ Lý Khánh Thành khôi phục đã là giữa tháng chạp, hắn giấu trăm lượng bạc trước ngực, cùng thị vệ câm đội tuyết lên đường đi về phương bắc. Hắn mở danh sách thuốc tại dược đường của Nga Nương tại Tây Xuyên, trước tiên đến Đinh Châu nằm cách Phong Sơn sáu trăm dặm, chia ra bốn xe mang theo ba ngàn hộp cao, lại thuê thêm xe ngựa, dọc đường cố tránh các trạm canh gác, hướng về Phong Sơn.
Sông Tiêu Cốt như mồ giấu vạn xác, nước sông chảy xuôi về phía nam, vòng qua Phong Sơn hướng về vùng trũng Tây Xuyên. Dọc hai bên bờ sông, tuyết lớn cuộn cả trời mây, lúc rơi lúc ngừng. Chiến sự đang lúc tạm ngưng, cứ đi tiếp theo hướng bắc là đến tiền tuyến.
Bảy mươi dặm ngoài vùng chiến sự trọng yếu có một tòa thành tĩnh lặng yên ắng. Tường thành cháy đen gần như đã bị thiêu rụi hoàn toàn, một doanh trại mọc lên bên ngoài toà thành, chính là nơi dừng chân tập kết binh lính chi viện của Đại Ngu.
Dưới núi khói bay đầy trời, tuyết đã rơi bớt dày hơn một chút, Lý Khánh Thành nhìn ra xa phía dưới, cả một thành trì to như vậy, giữa gió bấc phần phật tuyết bay tán loạn, lại không nghe thấy tiếng người. Dường như trước đây không lâu nơi này đã bị quân Hung Nô cho một mồi lửa thiêu hủy hoàn toàn.
Doanh trại binh lính bị đập phá tan tành. Hắn nói: “Ưng ca, huynh ở đây trông coi hàng hoá, ta xuống dưới kia xem thử.”
Lý Khánh Thành cẩn thận xuống dưới, Trương Mộ nghiêng người trượt đi, hất tuyết lên, cũng lần theo dốc núi mà trượt xuống.
Lý Khánh Thành vậy nhưng cũng không đuổi gã về, hắn bước qua những thi thể cháy đen rồi trực tiếp tiến vào doanh trại.
“Bọn họ đã bị tập kích bất ngờ.” Lý Khánh Thành khom người kiểm tra một cỗ thi thể: “Là người Hung Nô làm chuyện này sao?”
Trương Mộ ngồi xuống, gã lấy ngón tay vạch áo giáp của một tên lính, áo giáp sắt bị loan đao chém một đường nứt dài, lộ ra vết thương bị đốt cháy đen cùng nội tạng.
“Chuyện xảy ra tối hôm qua.” Trương Mộ nói, nét mặt gã không chút thay đổi.
Một lá cờ chiến phía trên viết một chữ “Phương” vẫn chưa được hạ xuống tung bay phần phật trong gió lạnh. Trương Mộ ngửa đầu nhìn lá cờ kia, Lý Khánh Thành quay người lục soát bộ giáp của đám binh sĩ, tìm được mấy tấm lệnh bài, hắn dùng áo choàng rách rưới bọc lấy chúng.
“Ưng ca, huynh rút là cờ kia đi, chúng ta tiếp tục chuyển hàng đến thành Lang Hoàn.” Lý Khánh Thành nói: “Vừa đúng lúc.”
Trương Mộ nói: “Từ từ đã.”
Hắn cúi người dán lỗ tai sát mặt đất, nghe được từ nơi xa truyền đến tiếng vó ngựa đạp hỗn loạn, mặt hiện vẻ nghiêm trọng. Lý Khánh Thành chẳng hiểu ra sao, vậy nên hắn cũng nằm xuống, mặt đối mặt với Trương Mộ.
Mặt Trương Mộ đỏ lên, Lý Khánh Thành liền lập tức đứng dậy nói: “Bên kia vẫn đang giao chiến sao?”
Hai người trở mình trèo lên ngựa, nhanh chóng lướt đi qua mặt sông Tiêu Cốt đã sớm đóng băng, tiến sang phía bên kia gò núi.
Một trận hỗn chiến kịch liệt đang diễn ra trên bình nguyên, một toán kỵ binh Hung Nô nhỏ bé nhanh chóng đột kích, đánh cho đám lính Đại Ngu tan đàn xẻ nghé, chạy tứ phía dưới núi như những chấm đen bé tẹo.
Lý Khánh Thành đuổi tới vừa đúng lúc hỗn chiến kết thúc, người Hung Nô giành thắng lợi tuyệt đối, toàn quân chia ra đồ sát dã man đám lính thua cuộc.
Sau khi chứng kiến lũ giặc gian không ngừng thảm sát binh bại, uy thế rung chuyển đất trời, Lý Khánh Thành biết chỉ dựa vào sức hai người chủ tớ bọn hắn thì tuyệt đối không thể thay đổi được gì giữa thiên quân vạn mã, đành phải ẩn mình lặng lẽ theo dõi.
“Huynh nhìn nơi đó kìa, Ưng ca.” Lý Khánh Thành khẽ ra hiệu.
Toán lính cuối cùng đặc biệt có tới gần trăm người, tướng lĩnh hốt hoảng trốn chạy thất bại, chỉ còn duy nhất vài binh sĩ khổ sở ra sức bọc hậu.
“Chống lại ta chỉ có chết!” Một tiếng quát lớn vang lên, một tên binh sĩ tầm thường trong số đó hét, mỗi tay y cầm một thanh trường thương, lúc múa võ thì kỹ nghệ tài tình, quét bay cả người lẫn ngựa đám kỵ binh Hung Nô.
Lý Khánh Thành không khỏi kinh hãi, người này trời sinh thể lực cực kỳ mạnh mẽ, sao có thể chỉ là một binh sĩ tầm thường?
Trương Mộ dường như hơi thay đổi sắc mặt, chỉ thấy quân Hung Nô bắt đầu tập trung dồn y vào chỗ chết, Lý Khánh Thành hỏi: “Có thể cứu không?”
Trương Mộ nói cứng nhắc: “Có thể.”
Lý Khánh Thành nói: “Nếu dũng sĩ này chết dưới vây quét của đám người Hung Nô...”
Trương Mộ trở tay rút đại đao phía sau, cao giọng hét một tiếng thật dài.
Không chờ Lý Khánh Thành nói chuyện đại nghĩa quốc gia, Trương Mộ đã như cú vọ xám trong tuyết trắng, nhào mình xuống dưới núi!
Một màn kia ập đến quá mức chấn động, đến nỗi Lý Khánh Thành suốt đời này khó quên nổi màn võ nghệ của Trương Mộ.
Dù là Đường Hồng của nhiều năm sau, chỉ cần một mình đã đủ trấn giữ quan ải, y nghiêng tay nắm xoay hải kích, một người một ngựa cản bước mười vạn kỵ binh Hung Nô nhuộm đỏ sông máu; hoặc Phương Thanh Dư kéo căng thần cung Phá Nguyệt, một mũi tên tru sát thiên tử trên đài Phong Thiện cách xa ngàn bước; hay Trương Mộ rút đao ngân dài dưới đêm trăng sáng, một đao chém cả người lẫn ngựa quốc vương Hung Nô thành hai mảnh trước mặt trăm vạn hùng binh ở Ngọc Bích Quan,… Qua gần trăm trận chiến lớn, hơn ngàn trận chiến nhỏ, tất cả đều không thể sánh được với cảm giác trước trận giao tranh ngày hôm nay, cảm xúc tới càng đột ngột thì càng mãnh liệt.
Trong giây lát Trương Mộ nhập trận, Lý Khánh Thành như cảm nhận được một cỗ nhiệt huyết đang thiêu đốt dữ dội trong cơ thể. Một thân huyết khí dũng mãnh của Trương Mộ có thể sánh ngang võ thần, gã sẽ không bao giờ chiến bại, có gã ở bên người, Lý Khánh Thành sẽ không bao giờ gặp nguy hiểm.
Cho đến tận khi Lý Khánh Thành chết, ý nghĩ này chưa bao giờ thay đổi.
Có lúc chỉ thấy một đường ảnh đao xám như gió giật xuyên thẳng tới, Trương Mộ tung trường đao, đao cùn chỉ tuỳ tiện vung lên, kỵ binh cản đường liền bị chém rơi khỏi mình ngựa, tay áo phiêu đãng, tên phi như mưa cũng không mảy may làm gì được gã.
Trong mắt Trương Mộ độc một màu thanh tịnh, gã vừa như chẳng nhìn ai cả, vừa như thu cả cuộc chiến vào mắt, lao mình lướt qua mưa tên dày đặc. Lúc gã vung đao, đến máu tươi tung toé do ngựa và quân binh phun ra cũng không vương một giọt trên áo.
Gã vất vả chém mở một con đường máu, thi thể quân địch đã sớm bị vứt bỏ sau lưng, chỉ trong chốc lát giết cho quân Hung Nô đại bại, phải quay ngựa bỏ chạy. Gã bẻ gãy cờ chiến, cán cờ dài hơn một trượng ngang tàng bay đi phát ra tiếng gió sắc bén. Tiếng ngựa hí thảm thiết trước khi chết vang lên, lực dư từ cán cờ gãy còn chưa hết, đâm xuyên ngực sáu tên binh sĩ Hung Nô cùng lúc!
Trương Mộ dừng bước, thu đao.
Binh sĩ Hung Nô kết thành đội hình vững chãi như tường sắt, nhưng không ai dám tiến lên.
Trương Mộ giết đến hứng khởi, trong mắt dày đặc huyết sắc, vẫn còn muốn chiến một trận kịch liệt, tiến lên phía trước một bước.
Đội hình binh sĩ Hung Nô hơi loạn, lùi lại nửa bước.
Trương Mộ xoay tay lại, đao đặt sát lưng, không giết ai hết.
Gã nhấc binh sĩ dũng mãnh cản quân vừa nãy lên, đặt ở trên lưng ngựa, dắt ngựa quay người bỏ đi, ba ngàn binh sĩ Hung Nô không ai dám cản, Lý Khánh Thành chờ trên sườn núi, thấy Trương Mộ trở về, vội vàng trở mình lên ngựa, rời đi trên con đường đầy gió tuyết.
Đại học sĩ kể đến đây thì dừng lại.
Lý Hiệu nghe tới chỗ này chỉ trầm mặc không nói, ngồi tựa trên ghế rồng nhấc cao ngón tay day huyệt Thái Dương, thái giám quanh người vội lấy khăn nóng, nhẹ nhàng đặt lên bàn tay hoàng đế.
“Người này nhất định có thân thế không bình thường.” Lý Hiệu bỗng nói.
Đại học sĩ nhẹ gật đầu, chậm rãi nói: “Bệ hạ cảm thấy hắn là ai?”
Lý Hiệu không đoán ra được, lắc đầu: “Tiên sinh cứ kể tiếp đi, hôm nay cô không phê tấu chương.”
Đại học sĩ ranh mãnh nói: “Bệ hạ, chuyện này nói ra rất dài.”
Lý Hiệu nói: “Chuyện tiên sinh muốn nói chính là…”
Đại học sĩ: “Thái hậu tuyên lão thần đến gặp là để…”
Lý Hiệu đành phải nhượng bộ: “Vậy hôm nay kể đến đây thôi.”
Đã qua hơn hai canh giờ, đại học sĩ qua tuổi thất tuần, mặc dù tinh thần minh mẫn, rốt cuộc lại vì tuổi già sức yếu, không ngồi lâu nổi.
Đại học sĩ đứng dậy cáo lui, Lý Hiệu lại nói: “Đêm qua thái hậu cũng đã nói, mời tiên sinh có rảnh thì đến Tây Cung một chút trò chuyện với người.”
Đại học sĩ vuốt râu nói: “Lão già này cũng đang có một chuyện muốn tâm sự cùng thái hậu, Bệ hạ, tên nhóc hôm qua đã bị giam lại rồi sao?”
Lý Hiệu nói: “Lúc dẫn tới hắn đã bất tỉnh nhân sự, cô sai người chữa bệnh cho hắn, đưa vào tích viện, đợi khi nào có thể mở miệng thì thẩm tra tiếp.”
Đại học sĩ lại nói: “Lão thần dưới gối không con, thị vệ này khi còn bé đã từng tìm tới lão thần. Nghe nói có cuộc thi tuyển võ quan tại kinh thành, lão thần mới để hắn đến ứng tuyển, may mắn được lọt mắt xanh…”
Lý Hiệu không rõ vui giận: “Sao không nói sớm? Thị vệ tiên sinh tiến cử, cô sẽ lưu ý.”
Đại học sĩ mỉm cười nói: “Tiểu tử kia ngày thường có tâm sự gì đều để trong bụng, tính cách lại quật cường, nếu như hắn làm bệ hạ không vui thì cứ đánh một trận, để lão thần đưa hắn về nhà.”
Lý Hiệu khoát tay nói: “Thôi, tiên sinh đã mở miệng, cô sẽ không làm khó hắn, tội đàm tiếu về quân vương, xá đi.”
Đại học sĩ chậm rãi gật đầu, Lý Hiệu lại nói: “Cô sai người dẫn hắn tới nhé?”
Đại học sĩ vội nói: “Bệ hạ không cần tốn sức, tạ bệ hạ khai ân, để lão thần chạy một vòng đến tích viện là được.”
Lý Hiệu nói: “Đã vậy, sau đó cũng đưa tiên sinh qua một chuyến.”
Lý Hiệu xem tiếp tấu chương, danh sách những thứ cần chuẩn bị cho hôn lễ đã được bộ Lễ kiểm tra lại vừa được trình lên, chữ trên tấu chương vừa nhỏ vừa chi chít, gã nhìn đến mệt cả đầu óc, xem được một lát lại gác bút, về điện.
Người hầu tiến lên hầu hạ, Lý Hiệu thay long bào, nhận lấy khăn nóng lau mặt, tỉ mỉ quan sát chính bản thân mình trong tấm gương đồng.
Chiều cao chín thước, ánh mắt tuổi hai mươi trẻ trung sắc bén, bên mặt lại có một vết bớt đỏ sậm như một ấn ký sỉ nhục, kéo từ bên tai đến dưới khóe mắt, hình dáng như một chú bướm.
Lý Hiệu nhìn chằm chằm mặt mình trong gương, ngoại hình gã không tính là ngọc thụ lâm phong, so với mấy người anh em của mình, gã như một kẻ ngoại lai. Da gã màu đồng cổ, môi mỏng bạc tình, mũi hơi giống mỏ ưng, tuy tướng mạo đoan chính, lại không phải loại mỹ nam. Từ nhỏ gã đã thích đi săn, không thích đọc sách, thích tập võ, không thích ngồi một chỗ, cũng có chút khí khái hào hùng của người quân sĩ.
Trong lòng Lý Hiệu rõ ràng, cho dù là dáng vẻ, thân thế, hay là văn chương, đều không phải yếu tố quyết định việc gã đăng cơ. Thậm chí ngoại hình gã cũng không giống các tiên đế chút nào. Hoàng đế Đại Ngu đời nào cũng đều sở hữu dáng dấp ngọc thụ lâm phong, mày rậm mắt to, vô cùng tuấn tú.
Bề ngoài Lý Hiệu dù có khí khái mạnh mẽ hào hùng, lại chẳng có vẻ gì là liên quan đến “tuấn tú”, nếu gã mặc trang phục thị vệ, trải qua kỳ thi tuyển võ quan, chắc chắn cũng sẽ bị loại vì gương mặt có khiếm khuyết.
Thậm chí đôi khi gã còn hoài nghi liệu mình có đúng là hậu duệ hoàng thất Đại Ngu hay không. Lúc gã vừa mới đăng cơ được vài năm, thái hậu vẫn còn buông rèm nhiếp chính, trên phố truyền nhau lời đồn đại, nói tiểu thái tử đương triều thực ra không phải là con ruột của tiên đế, gã bị tần phi bí mật đánh tráo, cốt nhục hoàng gia chân chính thì lưu lạc dân gian, không rõ sống chết. Lời đồn truyền vào trong cung, vì thế mà thái hậu nổi cơn thịnh nộ, cuối cùng quyết đuổi tận giết tuyệt bè lũ ủng hộ cựu thái tử trước gã.
Rất lâu trước đây, gần mười một năm trước, cựu thái tử chết, hoàng bào mới rơi vào tay gã, dù là như thế, tùy tiện chỉ một kẻ bất kỳ họ Lý, ai cũng tuấn lãng hơn gã, lại càng có thần thái văn nhã, càng được triều thần yêu thích.
Từ nhỏ đến lớn, cũng chưa từng có ai chủ động bày tỏ yêu thích gã – không một ai ngoại trừ tên thị vệ tâm tư bất lương kia.
Giờ đây sắp thành hôn, thực ra thì Lâm Uyển cưới ghế rồng, không phải cưới gã.
Trong điện Dưỡng Tâm, đại học sĩ và thái hậu ngồi uống trà, họ là những kẻ sinh cùng thời, đều có vẻ đã trải qua nhiều sóng to gió lớn.
Sau khi Thành Tổ băng hà hơn trăm năm, hoạn quan nắm giữ triều chính, chính nhờ đại học sĩ dốc hết sức thuyết phục võ tướng trong triều, lấy lý do đổi quân canh phòng, gửi một phong mật thư triệu Đường đại tướng quân trấn thủ biên cương hồi kinh, huyết tẩy hoàng cung giữa đêm khuya. Thái hậu thì hết mực thực hiện chức trách của người làm chủ hậu cung, bày mưu tính kế dụ đám hoạn quan tụ hợp vào một chỗ, cuối cùng thành công hốt gọn một mẻ.
Đương nhiên, bà cũng thuận tay dẹp luôn ấu đế đương triều, nâng con mình lên ngai rồng, bên ngoài có Đại học sĩ, bên trong có mẹ con thái hậu, Đại Ngu khó khăn lắm mới được mười năm bình an vô sự.
“Sau khi thành gia lập thất, người làm cha rồi thì tính cách cũng sẽ cùng ôn hoà đi, thái hậu không cần lo lắng.” Đại học sĩ chậm rãi nói.
Thái hậu cất lời bình đạm: “Sao có thể không lo lắng? Hoàng đế lúc nào cũng như chưa trưởng thành vậy. Bệ hạ đang làm gì?”
Một thái giám già khom người nói: “Hồi bẩm thái hậu, bệ hạ đuổi hết người hầu, đứng một mình trong ngự hoa viên đã một canh giờ.”
Thái hậu lắc đầu, đại học sĩ mỉm cười nói: “Bệ hạ từ nhỏ đã thế, không thích nói nhiều, đứng đấy từ từ suy nghĩ một lát, tự nhiên sáng tỏ.”
Thái hậu lại thở dài, hỏi: “Đứa con gái nhà họ Lâm ông cũng gặp rồi.”
Đại học sĩ gật đầu, không ngừng đánh giá, thái hậu lại không nhịn được mà nói: “Phù Phong, sau khi hoàng nhi thành hôn ông sẽ cáo lão…”
Đại học sĩ cười bảo: “Sắp lập gia đình rồi, trong lòng sẽ luôn có một nút thắt, phải học cách làm chồng, làm cha, đời người đều như thế đấy.”
Nói xong, đại học sĩ lấy cuốn sách thái giám mang lên rồi cáo lui, băng qua Tây Cung tiến về tích viện.
Lý Hiệu đứng một canh giờ trong ngự hoa viên, sau khi trở về thì ngã bệnh.
Hôm sau không lên triều, thái y sang khám bệnh, dặn dò bệ hạ vốn là người tập võ, nền tảng sức khoẻ vốn tốt, tĩnh dưỡng mấy ngày là có thể khôi phục.
Lại ba ngày trôi qua, còn năm ngày nữa sẽ tới lễ thành hôn, trong cung khẩn trương chuẩn bị hôn sự, trong đầu Lý Hiệu lại chẳng có ý niệm nào về việc thành hôn. Hôm đó, sau khi ăn sáng xong, gã mệt mỏi vô cùng, bèn tuyên gọi đại học sĩ đến thư phòng, muốn nghe tiếp chuyện xưa.
Đại học sĩ không tới, người tới lại là một người khác – Hứa Lăng Vân. Thương thế trên người Hứa Lăng Vân đã lành lại một chút, máu bầm trên mắt còn chưa tiêu, vết rách ở khóe miệng vẫn đang kết vảy, hắn ôm một chồng sách ố vàng, đứng ở ngoài cửa thư phòng chờ tuyên.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook