Mọi người trong xe lục tục bước xuống vây thành vòng tròn quanh người đó, Hoắc Chân thấy rất rõ tất cả những người vừa bước xuống ấy, đầu ông lập tức phình to, trong triều có bảy vị Các lão, thì đã có tới ba vị đến đây, thêm hai ông Tả Hữu thừa tướng, trước sau lại có mấy gã thiếu niên mặt mũi lạ hoắc, toàn bộ trụ cột của quốc gia đều tới cả, Hoàng thượng đang tính làm gì đây!

Tiêu Các lão già nhất cũng đã hơn bảy mươi tuổi rồi, trèo lên được con dốc nhỏ xong thì cũng thở phì phà phì phò, đi được hai ba bước là ho đến kinh thiên động địa, Hoắc Chân cứ nghe thấy là tim muốn bắn ra khỏi lồng ngực.

Hoàng thượng toàn thân mặc trường bào màu xanh ngọc, đi trước dẫn đầu, Hoắc Chân nhắm chuẩn thời cơ, vội vàng bước lên mấy bước nghênh đón, cúi đầu quỳ sụp xuống nói: “Thần! Hoắc Chân tham kiến……”

Hoắc Chân quỳ rất nghiêm túc, nhưng Hoàng thượng lập tức vươn tay ra, vừa đỡ được khuỷu tay của ông xong thì cũng nghiêng luôn cả người theo ông, thiếu chút nữa là đứng không vững, Hoàng thượng vội vàng thì thầm bảo: “Nguyên soái, trẫm không treo hoàng kỳ, tới để quan sát trận chiến thôi, không hề có ý gì khác.”

Hai câu này của Hoàng thượng có hai ý nghĩa: Thứ nhất, ta không treo hoàng kỳ, tức là không bày vẽ nghi thức của hoàng đế, đã không định kinh động đến kẻ địch của ông, thì ông cũng không cần phải làm gióng trống khua chiêng thu hút sự chú ý của người khác làm gì. Thứ hai, ta tới để quan sát trận chiến, nghĩa là ta tới không phải để hoa chân mua tay chỉ đạo, quyền chỉ huy quân đội vẫn thuộc về ông.

Đều là những tay lõi đời chính trị, nghe qua là đọc được vị nhau liền, Hoắc Chân lập tức hiểu ngay. Nhanh chóng hài lòng đứng thẳng người dậy, khuôn mặt nghiêm túc lộ ra vẻ đau lòng sâu sắc: “Thân thể bậc thiên tử đáng giá nghìn vàng không nên ở những nơi nguy hiểm như thế này, người làm vậy……”

Hoàng thượng khẽ tủm tỉm cười: “Khoảnh khắc người Khương đặt chân qua biên giới, thì thân trẫm đã ở trong vòng nguy hiểm rồi, ngài nói có phải không? Nguyên soái?”.

Lời nói của cả hai đều sắc bén như nhau, sắc mặt Hoắc Chân nghiêm lại, duỗi bàn tay to lớn sang bên cạnh, giọng nói âm vang mạnh mẽ: “Mời người!”.

Vệ binh đã quan sát địa thế từ trước, bê tới mấy cái ghê thái sư, ba vị Các lão, hai vị Tả Hữu thừa tướng lấy Tiêu Các lão ngồi đầu ngồi xếp thành một hình bán nguyệt, Hoàng thượng và Hoắc Chân đương nhiên ngồi ở chính giữa, còn về phần mấy tiểu bối đi theo sau vì vật tư thời chiến ngặt nghèo đương nhiên không có chỗ, đành ngoan ngoãn đứng ở sau lưng, thành ra Đường Thế Chương không quan chẳng chức lại càng bị đẩy vào trong xó.

Moi người ổn định chỗ ngồi rồi, Tiêu Các lão vẫn cứ ho khù khụ không ngừng, người hầu liên tục hầu hạ hết đưa khăn lại dâng trà, thu hút không ít sự chú ý từ xung quanh, nên hai vị lão đại ngồi ở giữa chẳng có thời gian đâu mà trao đổi với nhau được đôi câu.

Vương Thọ Đình là người trông không có khí thế nhất giữa cả một đám người đang ngồi tuốt ở phía cuối, đột nhiên ngoái cổ lại nhìn Đường Thế Chương đang ở sau lưng, động tác của ông ta rất đột ngột, nên mấy người bên cạnh Đường Thế Chương đều nhìn về phía ông, Đường Thế Chương vốn dĩ đang bận chào hỏi với Hàn Đường, không ngờ chỉ một thoáng không chú ý bản thân đã trở thành tiêu điểm, đến khi quay đầu lại nhìn thấy người biến mình thành tiêu điểm là một ông lão gầy đét đe như thể lão nông chính hiệu, trong lòng nhận ngay ra đây là ai, liền nở một nụ cười từ xa với ông ta, còn khom người cúi lưng làm động tác vái chào, Vương Thọ Đình cũng xoay người cung tay với ông, nhưng nụ cười thì lại không hề hiền hậu chút nào, khiến sống lưng Đường Thế Chương nổi hết cả da gà.

Động tác rất nhỏ của hai người đều lọt vào mắt của những người xung quanh, đằng sau nó mang một hàm ý rất sâu, có người bắt đầu ít nhiều có tính toán trong lòng, Hoắc Chân cũng nhìn qua đó, bắt gặp ánh mắt của Đường Thế Chương ở giữa không trung, Hoắc Chân liền đưa mắt ra hiệu, Đường Thế Chương liên tuân lênh xoay người rời đi.

Đường Thế Chương vừa đi, chỉ trong nửa canh giờ đã bố trí xong một con đường nhanh chóng thuận tiện nhất thông từ Ký Châu đến Sung Châu, hai ngàn binh sĩ tinh nhuệ nhất đã đợi sẵn, một khi tiền phương có biến, bọn sẽ dùng tốc độ nhanh nhất bảo vệ Hoàng thượng rút về bờ Nam sông Vị ở Sung Châu. Trong lịch sử không phải chưa từng xuất hiện những vị hoàng đế ngự giá thân chinh rồi cuối cùng bị địch bắt làm con tin, Hoắc Chân không dám đùa với lửa.


Cũng may Hoàng thượng cũng không phải người thích giỡn chơi, trên đường đi đã bố trí đâu vào đấy cả rồi, dọc hai bên đường đã có hai vạn ngự lâm quân phụ trách tiếp ứng, trên sông Vị cũng đã chuẩn bị thuyền lớn có thể khởi hành bất cứ lúc nào.

Quay trở lại phía chiến trường, dáng vẻ của Hoàng thượng dường như tới để quan sát trận chiến thật, kể từ lúc ổn định chỗ ngồi xong thì không hề lên tiếng hỏi một câu nào, đúng là một vị vua thấu hiểu cho suy nghĩ của người khác, mấy vị trọng thần của triều đình đi theo Hoàng thượng, cũng trầm ổn vững chãi, thiên quân vạn mã đang chém giết phía dưới, nhưng bọn họ vẫn giữ được cho mặt không đổi sắc hiên ngang lẫm liệt, bất kể đó là thật hay là giả đi chăng nữa, thì suy cho cùng hiện giờ những người này có thể nói là rất trấn tĩnh, vì thế Hoắc Chân ngồi một bên bắt đầu suy nghĩ, rốt cuộc Hoàng thượng dẫn theo đám người này đến đây để làm gì vậy kìa?

Hôm nay Hoàng thượng dẫn theo toán người này đến đây, rất đáng để nghiên cứu đây, trong suốt hai mươi năm qua nội các hầu như đều được sắp xếp như thế này, bảy vị Các lão, người nào người nấy đều thất thập cổ lai hy, hoàn toàn đã là những vị lão thần vinh quang đầy người yên tâm an hưởng bổng lộc tuổi già, nhiều năm qua chuyện triều chính đều tập trung vào tay hai vị Tả Hữu thừa tướng, vậy mà giờ Hoàng thượng lại mang ba người theo, là ba ông già, lấy Tiêu Các lão làm đầu thì người nào người nấy đều là nguyên lão ba triều, tuy rằng không có thực quyền nhưng tất cả đều là người đức cao vọng trọng, nhất hô bá ứng, theo sau là hai vị Tả Hữu thừa tướng Vương Thọ Đình và Hàn Lâm Hiên, Vương Thọ Đình không được Tiên đế trọng dụng, là người có tài hoa có năng lực nhưng lại ba chìm bảy nổi suốt nửa đời người, nay được tân đế rất tin dùng, một người có bản lĩnh như vậy, được bố trí ngồi vào vị trí Tả tướng, thâm ý ẩn trong đó sợ rằng Hàn Lâm Hiên là người rõ nhất, tiếp nữa là mấy đứa tiểu bối mặt mày non choẹt, một vài người trong số đó thậm chí Hoắc Chân còn không biết chức quan và tên tuổi, e là mới vào triều chưa được bao năm, đây có lẽ là Hoàng thượng đang bồi dưỡng thế lực mới.

Cả một đám người tập trung lại với nhau, Hoắc Chân có thể nhìn thấy được sự thay đổi cục diện của triều đình trong một vài năm tới, nội các sẽ được cải tổ lại, quyền lực của Thừa tướng sẽ chỉ còn có tiếng mà không có miếng, đây là viễn cảnh trước mắt Hoắc Chân có thể nhìn thấy được, vậy Hoàng thượng dẫn những nhân vật quan trọng có ảnh hưởng đến sự thay đổi cục diện tương lai của triều đình tới chiến trường để làm gì? Hay là vì ai nhỉ? Hoắc Chân không nghĩ người đó là mình, sau khi chiến tranh chấm dứt ông có thể đại công cáo thành lui về ở ẩn, vì ông không hề có dã tâm, vì thế chẳng có gì là không thể buông bỏ được, ông nghĩ tới Hoắc Thời Anh, nhưng cũng chỉ mới thoáng xẹt qua đầu thôi, đã không dám nghĩ sâu nghĩ xa thêm rồi.

Hoắc Chân chỉ hơi suy tư một tí mà đã thành ra lan man, trong lúc ấy tình hình chiến trường phía trước mặt đã có thay đổi, cùng với tiếng uỳnh cực lớn vang lên, cửa thành phía Nam của phủ Dĩnh Xương sừng sững suốt trăm năm cuối cùng đã đổ sập trước những cú húc dồn dập của xe phá tường thành cỡ đại. Lính liên lạc phi như bay tới bẩm báo: “Báo cáo Nguyên soái! Cửa Nam đã công phá thành công! Lâm Chủ bộ hỏi ngài có tấn công vào thành không?”.

Ngón tay của Hoắc Chân ngõ nhịp lên tay vịn, trầm giọng hạ lệnh: “Tăng số lính ở cửa Nam, bảo Lâm Thanh bất chấp tất cả phải tấn công vào bên trong, trước giờ Tỵ phải giành được quyền kiểm soát cửa Nam. Truyền lệnh cho Ngụy Hiền Đình kéo quân tới cửa Đông.”

Lính liên lạc lao đi, Hoắc Chân ngồi lại xuống ghế, sau đó đột nhiên quát lớn: “Người đâu!”.

Lính truyền tin vội vã chạy đến quỳ xuống nhận lệnh, Hoắc Chân ngừng lại một lúc rồi mới hạ lệnh: “Truyền lệnh cho Hoắc Thời Anh, chỉnh đốn lại quân đội, chuẩn bị nghênh địch!” Ngữ khí khi ban ra mệnh lệnh này của Hoắc Chân không hề âm vang mạnh mẽ, mà trầm nặng, khiến cho vị Hoàng thượng từ đầu đến giờ vẫn ngồi an yên như một vị quý công tử được giáo dục chu đáo phải quay đầu sang nhìn ông, nhưng Hoắc Chân lại không nhìn một ai cả, tay chống cằm, nhìn xuống phía dưới.

Toàn bộ phủ Dĩnh Xương, chỉ còn lại duy nhất cửa thành phía Đông, vì đây là cửa chính, nên cửa thành to rộng nhất, con đường dẫn vào cũng thẳng tắp thênh thang, có thể chứa được một đoàn quân kỵ binh xông ra tấn công với số lượng lớn, ban đầu khi thiết kết tòa thành này người ta đã tính đến mục đích sử dụng trong quân sự của nó, vì thế không cần nghĩ cũng biết cửa thành phía Đông là chiến trường chính của chiến dịch lần này.

Chiếm được cửa thành phía Nam của phủ Dĩnh Xương, quân Hán đã phải trả một cái giá quá đắt, từ con sông hộ thành phía Nam cho đến cổng thành xác chết quân sĩ chất cao như núi, khi cuộc chiến bắt đầu diễn ra trên đường phố mỗi bước tiến lên của quân Hán đều giẫm lên vô số thây người phe mình.

Cửa thành hai phía Tây, Bắc vẫn đánh nghi binh, một số lượng lớn quân chủ lực cuối cùng của người Khương ở bên trong thành bắt đầu tập kết ở cửa thành phía Đông, ở bên ngoài thành, cục diện cửa phía Đông âm thầm chuyển biến.

Hai phía Nam, Bắc men theo chiến trường cửa phía Đông đột nhiên dựng lên một lá cờ hai mặt cực lớn, bay phấp phới trong gió với chữ Ngụy thêu bên trên, đây là đội quân triều đình cuối cùng ở lại Ký Châu, là hai vạn quân Ký Châu cuối cùng quần thảo ròng rã suốt bốn tháng với người Khương ở khu vực núi Mang.

Hai đoàn quân khổng lồ chậm rãi hình thành ở hai bên Nam Bắc của chiến trường, tạo thành thế gọng kìm trái phải ngay trên bình nguyên, phía sau những tấm khiên to lớn là những thanh trường mâu thẳng dài lóe lên ánh sáng lạnh lẽo, xa hơn phía sau lưng họ, là một đoàn kỵ binh chính quy đông như kiến, đấy là đội kỵ binh của Mã Đằng và Nhan Lương quay về cứu viện.


Trên chiến trường ở cửa thành phía Đông trước mặt, phía sau hai đoàn quân bộ binh của triều đình là một đội kỵ binh đông nghìn nghịt đang thong thả bước ra tập kết ở sau lưng tạo thành thế trận con chim nhạn ở ngay dưới gò đất nơi đám người Hoắc Chân đang ngồi.

Đội quân này có đến hơn vạn người mang theo vẻ trang nghiêm và sự nặng nề đầy áp lực, tuyệt không có tiếng người cười nói, tất cả ngồi trên lưng ngựa quan sát cuộc chiến khiến cho người ta có cảm nhận được sát khí xơ xác tiêu điều, bọn họ cưỡi trên những con liệt mã ngoại tộc cao lớn đến từ Tây Vực, tay cầm chặt những loại binh khí hạng nặng như chùy, giản sắt, mặc bên ngoài quần áo kỵ binh màu đỏ đậm của triều đình Đại Yến là áo giáp da, quân trang quân dụng của người Khương, quái dị và hung hãn, toàn bộ đoàn quân người ngựa đông như kiến ấy gợi lên cho người ta một loại cảm giác tàn khốc và dã man.

Hoàng thượng ngồi trên gò cao không hé môi nói một lời, Tiêu Các lão vuốt chòm râu bạc, nhìn có vẻ như bị phù thũng chỉ chỉ chỏ chỏ về phía trước đội hình phía dưới hỏi Hoắc Chân: “Kia là khuê nữ của ngài à?”.

Thật ra nhìn xuống dưới chỉ thấy toàn đầu người là đầu người, tuy rằng không chắc Hoắc Thời Anh có phải đang ở chỗ ông già đó chỉ không, nhưng Hoắc Chân biết chắc ông ta không thể nhìn thấy được, giờ phút này tự dưng hỏi đến Hoắc Thời Anh ý nghĩa tuyệt nhiên không hề bình thường, trong lòng thấy hơi vui vui, nhưng ngoài miệng lại đáp rất tùy tiện: “Đúng vậy.”

Tiêu Các lão chép miệng, nghiêng nghiêng người, chép đến nửa ngày đột nhiên gào lên một câu: “Lợi hại thật!”.

Cũng may tuy tiếng trống trên chiến trường như sấm dậy, giọng nói của Tiêu Các lão cũng không quá cao, nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, câu bình luận này quá thẳng thắn, chỉ dựa vào một câu nói này Hoắc Thời Anh đã chính thức xuất đầu lộ diện trên triều đình.

Trong lòng Hoắc Chân vô cùng hoan hỉ, đang định mở miệng nói một câu khiêm tốn, ai ngờ ông già kia lại gật gù đắc ý bồi thêm một câu: “Đáng tiếc, lại là con gái.”

Hoắc Chân lập tức nghẹn lời, Tiêu Các lão lắc đầu khuôn mặt còn mang theo vẻ tiếc hận sâu sắc nói thêm: “Nếu như là con trai, thì có phải xứng đôi vừa lứa với Huệ Ninh nhà chúng ta rồi không.”

Lần này thì Hoắc Chân cạn lời thật sự, cả kinh thành có ai không biết cháu gái nhà Tiêu Các lão lúc nhỏ bị thủy đậu, dung nhan bị hủy hoại, xấu đến độ hai mươi tư tuổi vẫn chưa lấy được chồng.

Hoắc Chân quay đầu sang nhìn Hoàng thượng, thấy Hoàng thượng vẫn ngồi rất ngay ngắn nhìn về chiến trường phía trước, trong lòng Hoắc Chân thấy không thoải mái lắm, lão già này quá giảo hoạt, dám mát mẻ Hoắc Thời Anh nhà bọn ông và Hoàng thượng. Lại còn suýt chút nữa xỏ xiên cả ông nữa chứ.

Nhưng đang trong trận đại chiến liên quan đến sống chết, Hoắc Chân cũng không có tâm trí đâu để cãi nhau với ông ta, nên quyết định lờ đẹp ông già đó đi.

Trong lúc bọn họ nói qua nói lại, thì trong một cái lều ở phía sau gò đất một quãng khá xa tầm hơn nửa dặm, có hai người bị trói chặt tay ra đằng sau vứt ở bên trong.


Người bị trói chính là Tần Xuyên và Phùng Tranh, lúc toàn quân sắp sửa xuất phát, Hoắc Thời Anh đích thân hạ lệnh, ngay cả một câu giải thích cũng không có.

Tần Xuyên bị ném xuống đất, rên “ư ử” mấy tiếng, vặn vẹo như một con sâu nhăm nhe chui ra bên ngoài, đầu lĩnh của mấy binh lính vứt bọn họ vào trong lều rất khách khí nói: “Người anh em, xin lỗi nhé, đây là mệnh lệnh của tướng quân, đánh trận xong sẽ thả các ngươi ra, hai người chịu khó chút vậy.”

Tần Xuyên dùng đầu húc xuống đất, nghiến răng nghiến lợi mắng: “Hoắc Thời Anh, con nhỏ xấu xa.” Mấy binh lính nghe xong đưa mắt nhìn nhau, rồi quay người đi ra.

Trán Tần Xuyên tì xuống dưới bùn đất đau khổ gào lên, Phùng Tranh ở bên này từ đầu đến cuối đều rất yên tĩnh, sau khi trong lều chỉ còn lại hai người bọn họ, hắn đột nhiên lên tiếng: “Đừng gào nữa, trong giày của ta có một con dao, ngươi qua đây, nghĩ cách cắt đứt dây trói đi.”

Tần Xuyên “Á” một tiếng rồi không kêu nữa, ngẩng đầu lên nhìn bằng ánh mắt vô cùng kinh ngạc.

“Ngẩn ra đấy làm gì? Ngươi muốn ở lại chỗ này à?” Phùng Tranh trầm giọng quát. Nghe vậy Tần Xuyên lập tức hành động, hai người đàn ông vặn vẹo, hợp tác với nhau cắt đứt dây trói trên người. Khi được tự do rồi, cả hai đứng bật dậy, đồng thời đưa mắt nhìn đối phương một cái, sau đó quay người xông ra khỏi lều.

Cả hai cùng xông ra, khiến hai tên lính đứng canh ở bên ngoài bị dọa cho sợ giật thót, trường mâu trong tay lập tức chĩa về phía cả hai nói: “Làm, làm gì vậy hả? Mau quay về lều, tướng quân có lệnh nhốt các ngươi đến khi trời tối.”

Phùng Tranh đứng ở phía trước đang định mở miệng ra nói, thì Tần Xuyên ở phía sau đã vung tay gạt hắn sang một bên, tay cầm con dao vừa mới cắt đứt sợi dây thừng lúc nãy kề lên cổ mình, con người ông ta lưu manh vô lại suốt nửa đời người, vậy mà giờ phút này lại có dáng vẻ vô cùng hiên ngang lẫm liệt: “Người anh em, có thể ngăn cản người ta nhảy sông, treo cổ, ăn bả chuột. Nhưng chưa thấy ai ngăn người ta tận trung báo quốc bao giờ, nếu ngươi vẫn còn là đàn ông thì thả cho bọn ta đi, nếu không hôm nay ông đây tự xử tại chỗ, đợi tướng quân quay lại các ngươi cũng không còn mặt mũi nào để bẩm báo đâu.”

Trong cơn gió se lạnh lúc sáng sớm, đôi mắt ửng đỏ của Tần Xuyên chưa đầy vẻ kiên nghị và quyết tuyệt, những người đã từng tòng binh đánh trận đều nhận ra đây là ánh mắt bằng bất cứ giá nào cũng phải đi bằng được, cuối cùng có một đầu lĩnh đứng ra, hắn không nói năng gì nhiều, sai người dắt hai con ngựa tới, tự tay giao ngựa cho hai người, sau đó cung tay nói một câu: “Bảo trọng!” Rồi xoay người rời đi.

Cả Tần Xuyên và Phùng Tranh không dám chậm trễ thêm một giây nào nữa, lên ngựa lao như điên về phía chiến trường.

Lúc Phùng Tranh và Tần Xuyên đến nơi cũng chưa phải muộn lắm, đội quân của bọn họ vẫn đứng phía sau bộ binh của quân Hán không hề nhúc nhích, hai người thúc ngựa phi nhanh đến vị trí đầu chim nhạn, Hoắc Thời Anh xoay đầu ngựa đối diện với bọn họ.

Ba người nhìn nhau trong chốc lát, không một ai nói năng gì, trong ánh mắt của Tần Xuyên là cảm giác phẫn nộ vì bị bỏ rơi, ánh mắt trừng trừng nhìn Hoắc Thời Anh như có một ngọn lửa đang bốc cháy, Hoắc Thời Anh nhìn lại hắn, trong tia nhìn toát lên vẻ thống khổ, nàng muốn Tần Xuyên được sống tiếp, nếu Tần Xuyên xông pha trận này cùng nàng mà mất mạng trên chiến trường, thì cái giá nàng phải trả sẽ là nỗi đau đeo đẳng suốt cả một đời người.

Cái trừng mắt đầy phẫn nộ của Tần Xuyên khi nhìn Hoắc Thời Anh cuối cùng cũng tan biến trong một khoảnh khắc, ta không sợ chết, chỉ sợ lúc chết không được nhìn thấy cô vẫn còn sống. Bọn họ đều hiểu tâm ý của đối phương, không cần phải nói ra miệng.

Hoắc Thời Anh quay sang nhìn Phùng Tranh, khuôn mặt Phùng Tranh vẫn trắng trẻo như thuở nào, nhưng khóe mắt bờ môi có một vết nhăn hằn lên mờ mờ, so với bốn tháng trước ánh mắt của hắn đã bớt đi vẻ sắc nhọn, nhiều thêm vẻ phong sương trầm mặc, hắn kiên định nhìn lại Hoắc Thời Anh.


Hoắc Thời Anh điều khiển ngựa, nhường lại vị trí, hai người đàn ông không ai hé răng câu nào quay trở lại đội hình.

Đó là một ngày bầu trời xanh trong không một gợn mây, nhưng vẫn có những cơn gió ngày đông rét buốt thổi tới, Hoắc Thời Anh đưa mắt nhìn về phía trước, tầm nhìn của nàng không được rộng lắm, ở tiền phương là đội quân bộ binh xếp hàng chỉnh tề, bóng người nối tiếp nhau kéo dài đến vô tận, tiếng kêu gào chém giết ầm ầm vang vọng khắp đất trời.

Hoắc Thời Anh biết đây là lần cuối cùng nàng dùng máu thịt của bản thân để báo đáp quốc gia, trái tim nàng trong giờ phút này không hề có sự kích động cuộn trào mãnh liệt, mà ngược lại giống như huyết mạch sắp tận, tĩnh lặng tựa tro tàn.

Hoắc Chân ngồi trên gò đất cao, nhìn xuống vị trí đầu chim nhạn của đoàn kỵ binh phía dưới, không còn cái vẻ tự mãn thỏa thuê, hưng phấn hăm hở lúc vừa nãy nữa, thắt lưng hơi cong lại, ngón tay kê dưới cằm, ánh mắt trầm mặc như một đầm nước sâu thăm thẳm, không hề lên tiếng, không một ai biết được giờ phút này ông đang nghĩ gì.

Mặt trời lúc bình minh tựa như một vầng sáng hiền hòa đột nhiên biến mất trong thoáng chốc, rồi trở nên vô cùng chói mắt, khiến người ta không thể nhìn thẳng vào nó, xung quanh cửa thành phía Đông khói vẫn cứ bốc lên cuồn cuộn, quân Hán vẫn lao lên bất chấp mạng sống, tiếng gào thét chém giết đinh tai nhức óc khiến không một ai chú ý tiếng “kèn kẹt” của các cơ quan phía sau cửa lớn.

Cánh cửa phía Đông phủ Dĩnh Xương dày ba tấc, cao hơn ba trượng được bọc một lớp vỏ sắt từ từ hé ra một khe hở, “Uỳnh!” một âm thanh xé toạc không khí vang lên, một mũi tên đen sì được chế tạo từ sắt đen bay vọt ra, một binh lính người Hán đang xông lên cách đó hơn ba trượng, đột nhiên bị trường tên bắn xuyên thủng lồng ngực, gục ngã xuống đất, trên khuôn mặt của những người bám sát phía sau lộ ra vẻ hoang mang, sững sờ nhìn về phía cửa thành, đây là biểu cảm cuối cùng của bọn họ để lại trên thế gian này, liên tiếp mũi tên đen thứ hai rồi mũi tên đen thứ ba bay đến trước mặt, đầu óc của bọn họ còn chưa kịp nghĩ đến chuyện tiếp sau đây, thì đã bị một lực cực lớn xuyên thủng người, trúng tên ngã xuống.

Sau một loạt những âm thanh xé gió “vù vù”, quân Hán xông về phía trước đổ gục cả mảng, lực sát thương mang tính áp đảo cực lớn đã khiến cho binh lính xung phong của người Hán sốc nặng, chủ lực của người Khương vẫn chưa xuất hiện, mà sát khí đã gầm gào lao đến rồi.

Cửa Đông phủ Dĩnh Xương từ từ mở ra, Hoắc Chân quả quyết hạ lệnh: “Đánh trống, truyền lệnh thu binh.”

Tiếng trống trầm nặng vang lên khắp bốn phía, những binh sĩ người Hán hăng hái chiến đấu suốt cả một đêm ở cửa thành phía Đông theo nhịp trống rút quân rời khỏi chiến trường.

Cùng lúc đó, bên trong cửa thành Đông, tiếng vó ngựa chỉnh tề vang lên tầng tầng lớp lớp, Hắc Giáp quân của người Khương mặc giáp đen, vũ trang đầy đủ, hành quân thống nhất đều tăm tắp, từ từ bước ra khỏi cổng thành, trên chiến trường xuất hiện sự im lặng đầy nghiêm trang.

Đây là thời khắc cuối cùng trước khi trận quyết chiến thực sự diễn ra, màn trình diễn chấn động lòng người sắp diễn ra trên bình nguyên rộng lớn, quân đội người Khương như một cơn thủy triều màu đen, bắt đầu cuồn cuộn đổ ra từ bên trong thành, cách đó hơn trăm trượng, quân đội của người Hán đứng đối diện nghe theo hiệu lệnh như một cơn sóng đột nhiên tách ra làm hai, đội quân hung hãn do Hoắc Thời Anh thống lĩnh, không phiên hiệu hiên ngang bình thản bước ra.

Quân đội người Khương vẫn tràn ra, Hoắc Thời Anh đứng ở phía trước toàn quân, nên không một ai nhìn thấy biểu cảm của nàng, từ sau khi nàng dẫn dắt đoàn quân này, trước mỗi trận đánh chưa bao giờ ngoảnh lại nhìn binh lính của mình lấy một lần, nàng không dám nhìn họ, nàng sợ sẽ có một gương mặt nào đó để lại ấn tưởng với mình, nàng áy náy với họ, nàng rèn luyện họ, chính là muốn đưa bọn họ vào chỗ chết.

Trên gò đất, Hoàng thượng đột nhiên hỏi Hoắc Chân một câu: “Hoắc Nguyên soái, ông có đau lòng không?”.

Trong những năm tháng sau này, mối quan hệ vua tôi giữa hai người vẫn luôn không gần cũng không xa, tình cảm cá nhân xưa giờ chưa đến mức tốt cũng chẳng đến nỗi xấu, câu hỏi này có lẽ là những lời thẳng thắn dứt khoát nhất mà đời này Hoàng thượng nói với Hoắc Chân.

Nhưng Hoắc Chân lại chẳng màng đến lễ vua tôi, trầm mặc ngồi ở đó, không trả lời.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương