Từng Thề Ước
-
Quyển 2 - Chương 15: Đương quyến luyến, hiệu kèn đã giục
Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói:
“Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong
rằng nàng cũng sẽ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng
của hai nam tử mà thôi.”
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”
Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.
Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.
E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.
Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.
Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.
Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.
Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.
Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.
Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.
Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.
Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.
Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.
Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.
Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.
Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.
Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.
Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.
Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”
Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.
Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.
Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.
Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.
Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.
Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.
Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!
Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.
Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.
Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.
Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!
Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.
Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.
Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.
Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.
Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.
Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.
Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.
Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.
Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?
A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!
Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.
Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.
Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.
Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.
Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.
Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.
Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga[1] đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.
[1] Bướm trắng bốn cánh. (ND)
Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.
Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!
Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”
Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.
Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.
Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.
Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”
Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.
Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.
Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.
“Bác ơi, nhìn con đi”
“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói
“Biểu ca…”
Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.
Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.
Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.
Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”
Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”
Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”
Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.
Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.
Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!
Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”
Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.
Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.
Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.
A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.
Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.
Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.
Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!
Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.
Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảo chu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.
A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.
Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.
Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.
Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”
Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.
A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.
A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.
Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”
Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.
Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.
Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.
Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.
A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.
Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.
Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.
Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.
Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.
Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.
Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!
A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.
Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.
Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.
Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.
Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.
Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”
Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”
Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”
Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”
Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.
Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?
Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?
Trên sa trường, thua, tức là chết.
Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.
Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.
Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.
Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.
Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”
Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”
Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”
“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”
Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”
Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”
Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.
Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.
Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.
Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”
“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.
Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.
Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.
Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”
“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.
Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.
A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”
Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”
A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”
Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”
“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”
A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.
Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”
A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”
Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”
“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”
“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.
Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”
A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.
Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”
A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.
“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”
A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.
Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.
A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”
Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.
A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”
A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.
Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”
A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”
Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!
Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.
A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.
Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.
Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.
“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”
A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”
Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”
Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.
“Mộc Cận, đứng lại.”
Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”
Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”
Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”
“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”
“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”
Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”
Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.
A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”
Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”
A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?
Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.
Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”
Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”
A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.
Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.
A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”
Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.
A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”
Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.
Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.
E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.
Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.
Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.
Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.
Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.
Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.
Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.
Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.
Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.
Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.
Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.
Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.
Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.
Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.
Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.
Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”
Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.
Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.
Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.
Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.
Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.
Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.
Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!
Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.
Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.
Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.
Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!
Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.
Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.
Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.
Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.
Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.
Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.
Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.
Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.
Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?
A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!
Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.
Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.
Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.
Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.
Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.
Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.
Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga[1] đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.
[1] Bướm trắng bốn cánh. (ND)
Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.
Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!
Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”
Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.
Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.
Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.
Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”
Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.
Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.
Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.
“Bác ơi, nhìn con đi”
“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói
“Biểu ca…”
Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.
Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.
Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.
Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”
Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”
Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”
Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.
Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.
Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!
Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”
Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.
Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.
Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.
A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.
Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.
Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.
Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!
Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.
Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảo chu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.
A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.
Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.
Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.
Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”
Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.
A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.
A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.
Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”
Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.
Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.
Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.
Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.
A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.
Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.
Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.
Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.
Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.
Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.
Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!
A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.
Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.
Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.
Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.
Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.
Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”
Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”
Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”
Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”
Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.
Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?
Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?
Trên sa trường, thua, tức là chết.
Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.
Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.
Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.
Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.
Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”
Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”
Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”
“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”
Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”
Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”
Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.
Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.
Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.
Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”
“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.
Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.
Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.
Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”
“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.
Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.
A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”
Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”
A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”
Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”
“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”
A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.
Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”
A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”
Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”
“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”
“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.
Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”
A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.
Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”
A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.
“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”
A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.
Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.
A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”
Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.
A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”
A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.
Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”
A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”
Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!
Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.
A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.
Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.
Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.
“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”
A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”
Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”
Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.
“Mộc Cận, đứng lại.”
Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”
Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”
Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”
“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”
“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”
Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”
Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.
A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”
Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”
A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?
Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.
Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”
Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”
A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.
Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.
A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”
Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.
A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook