Tuhfa - vallennox
-
Chương 16: Trang 54 - 57
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên: Tôi vừa viết xong về cá voi mắc cạn hai ngày trước, và sáng nay tôi lại tình cờ gặp một con cá heo chết. Anh chàng tội nghiệp này chắc đã bị sóng đẩy lên vào lúc nào đó trong đêm khuya, vì chiều hôm qua khi tôi phơi rong biển lên, trên bãi biển chẳng có gì cả. Bãi biển phía Tây thoai thoải, phía Đông cao hơn một chút, cũng nhiều đá hơn, xác cá heo mắc kẹt giữa những tảng đá, trên bụng có một vết bỏng dài hơn cánh tay, chỉ nhìn vết thương thôi tôi đã cảm thấy bụng mình đau âm ỉ. Thậm chí nó còn không thể thoát khỏi ngọn núi lửa ngầm dữ dội.
Tôi đã cân nhắc đến việc chôn con cá heo, nhưng tôi không muốn chạm vào cái xác trương phồng và cũng không có dụng cụ để di chuyển nó. Cuối cùng, tôi nhặt hai mảnh gỗ lũa lên, “cứu” con cá heo chết giữa những tảng đá rồi đẩy nó ra biển một cách nhẹ nhàng nhất có thể. Ban đầu những cơn sóng chống lại tôi, cứ cuốn xác nó về nên tôi đành phải bước ra ngoài, đến khi nước ngập tới ngực thì đàn cá heo mới trôi được ra biển. Tôi ngồi trên rạn san hô ẩm ướt nhìn, rất lâu sau khi xác cá heo biến mất, tôi vẫn ngồi đó, không muốn cử động, không muốn quay lại, không muốn đối mặt với tình cảnh thực ra mình chẳng có việc gì để làm, và cũng không muốn tiếp tục viết. Một giọng nói trong đầu tôi cứ hét lên: Tuhfa sẽ không đọc thứ này đâu! Sẽ không có ai đọc thứ này đâu! Vô nghĩa! Vô nghĩa!
Loại mệt mỏi này kỳ thực đã xuất hiện từ mấy ngày trước, tôi không còn ngồi cả ngày ở bàn làm việc như trước nữa, cũng không còn vội vã quay lại khi đi câu cá. Chắc là do thời tiết, hôm qua tôi bận phơi rong biển vì trời hiếm ánh nắng và mưa rất lâu, dù trời tạnh mưa trong chốc lát thì cũng kéo theo một làn sương mù dày đặc màu xám, như muốn chôn vùi tôi và hòn đảo. Sương mù khác với những gì tôi nhớ, dày hơn và có mùi tro.
Nhưng bây giờ, trời đã tạnh, rong biển cũng được xếp ngay ngắn trên kệ, cá đã được thái lát và ướp muối, trong nồi có hến sạch, xác cá heo đã về với biển, tôi biết lấy cớ gì đây? Tôi chỉ có thể quay lại phòng viết và tiếp tục viết về mùa đông ảm đạm đó. Đó là những ngày cuối cùng của “tự do”(theo lời của cậu, không phải của tôi), đến mùa hè, cậu đã được bầu làm Chủ tịch hội đồng. Nhưng mùa đông trước đó và mùa xuân ngắn ngủi sau đó, cậu vẫn thuộc về tôi chứ không thuộc về Đảo Lớn.
Đó là một mùa đông tồi tệ, theo mọi nghĩa của từ này. Thời tiết lạnh đến mức một đàn cừu được cởi trói đã chết cóng trên sườn núi, điều mà chưa một ai trên Đảo Lớn chứng kiến trong nhiều thế hệ. Tệ hơn nữa, hầu hết mọi người đều không có lò sưởi trong nhà, người ta phải đào một cái hố bùn giữa phòng và đốt một đống lửa bên trong, kết quả là ít nhất mười ngôi nhà gỗ đã bị thiêu rụi. Kể từ đó, Hội đồng đã ban hành lệnh tạm thời tuyên bố rằng không được phép đốt lửa trong nhà trừ khi có lò sưởi hoặc lò than bằng đồng. Vào những đêm đặc biệt lạnh giá, phòng hội đồng sẽ mở cửa, đốt lửa trại và cho mọi người ngủ bên trong. Bọn trẻ rõ ràng nghĩ đây là một trò chơi đặc biệt, nhảy thành nhóm quanh đống lửa trại rồi hát những bài hát thiếu nhi không tên.
Xác cá voi vẫn đang thối rữa trên bãi biển, nếu hướng gió không tốt, mùi hôi thối có thể ngửi thấy ở mọi ngóc ngách trên Đảo Lớn, hoàn toàn không thể tránh khỏi. Người ta cố gắng hết sức để xử lý những cái xác cá voi nhỏ hơn, cưa xác thành từng mảnh nhỏ rồi dùng thuyền kéo từng mảnh ra biển khơi, còn xác lớn hơn thì người ta không biết phải làm gì. Pháp sư cố gắng triệu hồi ngọn lửa ma thuật để đốt cháy chúng, nhưng ba hoặc bốn cái xác cá voi đã rút cạn sức lực của họ, buộc họ phải hỗ trợ lẫn nhau và trốn trong căn lều tối tăm ngủ một ngày. Những chiếc xương bị đốt cháy để lại những vết cháy đen lớn trên bãi biển, phần còn lại chỉ có thể tiếp tục thối rữa.
Cậu có một lò sưởi trong nhà, nhưng chúng tôi hiếm khi dành thời gian ở đó. Sửa chữa một chiếc thuyền là một công việc tốn rất nhiều thời gian và sức lực, trên thuyền không có chỗ nào thuận tiện cho việc buộc cá heo, hình dạng đáy thuyền không phù hợp, khi bị cá heo kéo, thuyền có thể bị lật, vì vậy trước tiên cậu cần thực hiện một số sửa đổi. Sau đó mái chèo và cánh buồm mới sẽ được chế tạo để chống chọi với những cơn gió mùa đông. Các dược sư dệt một tấm vải khổng lồ, nhìn như vải bạt nhưng hình như không phải, phủ một lớp dày màu xám xen lẫn những dải vải vụn màu xanh đậm, nhìn từ xa trông như những đám rong biển trôi nổi. Nó sẽ là nơi trú ẩn khi chúng tôi đến được Quần đảo Đôi, miễn là chúng tôi không đến “quá gần” – tôi vẫn không chắc đây có phải là một trò đùa hay không. Dược sư nói câu này với vẻ mặt nghiêm túc, và cũng không có ai xung quanh anh cười. Tuy nhiên, mục đích mọi người sửa chữa con tàu này chính xác là để “đến gần” Quần đảo Đôi, không chỉ để đến gần mà còn để cập bến, đặt chân lên bãi biển và bước vào làng…Mọi việc phải được thực hiện trước mặt quân lính phương Bắc.
Ashayo có một “người bạn nghiên cứu các bài hát dân ca cổ” sống trên Quần đảo Đôi. Người bạn này tình cờ là một pháp sư. Nếu chúng tôi muốn biết về các bài hát và những lời tiên tri thì không ai trong đại dương này biết rõ hơn anh ta. Nhưng Ashayo đã mất liên lạc với anh ta kể từ khi bắt đầu chiến tranh, và không thể biết liệu pháp sư này còn sống hay không. Nhưng dược sư tràn đầy hy vọng: “Cậu ấy giống như một con sứa. Nhìn qua thì có thể bị giết chết chỉ bằng một cây gậy mỏng, nhưng thực ra nó rất nguy hiểm và mạnh hơn mọi người nghĩ nhiều. Cậu đã bao giờ nhìn thấy một hòn đảo có thể xua đuổi sứa chưa? Chưa từng? Vậy thì đúng rồi đấy.”
Vì mục đích bảo mật, bất cứ khi nào chúng tôi nói về người bạn pháp sư vô danh này ở nơi công cộng, chúng tôi đều sử dụng biệt danh “sứa”. Cậu cho rằng điều này thật nực cười, ai sẽ nhớ những thông tin tầm thường như vậy? Ai sẽ tiết lộ nó cho người phương Bắc? Cho dù có thì cũng sẽ bị phát hiện sớm thôi. Nhưng Ashayo nhất quyết phải làm như vậy, bởi vì vùng biển này đã khác xưa, kẻ thù vẫn là kẻ thù, nhưng đồng minh không nhất thiết vẫn là đồng minh. Dược sư cũng có chủ ý cử người canh thuyền mỗi đêm, thỉnh thoảng không ngủ được lại vượt sườn đồi ra đầm phá ngồi đó cho đến rạng sáng với cậu tập sự xui xẻo được giao nhiệm vụ gác đêm. Tôi chưa bao giờ hỏi tên họ và họ cũng chưa bao giờ hỏi về đảo Icahn, có lẽ vì họ không quan tâm hoặc vì họ không biết cách hỏi.
Tôi buộc con cá heo vào thuyền trong một buổi sáng sớm se lạnh và đi vòng quanh Đảo Lớn, mọi chuyện diễn ra khá suôn sẻ nên tôi không thể giải thích được nguồn gốc của sự hoảng loạn và nghi ngờ đang lớn dần trong tôi. Tôi từ bãi biển chạy về nhà, đánh thức cậu dậy và nói có lẽ cậu không cần phải tham gia vào cuộc phiêu lưu này, nó không đáng, mình có thể đi một mình, và hơn nữa, cậu chưa bao giờ học được cách gọi cá heo, có lẽ mình nên mang theo cặp linh mục tập sự đi cùng, Đảo Lớn không thể để mất một trong những ứng cử viên Chủ tịch hội đồng được. Cậu vẫn chưa tỉnh hẳn, cau mày, có vẻ đang suy nghĩ, hồi lâu mới nói: “Sáng sớm lạnh lắm phải không?”
Tôi hít một hơi thật sâu và chuẩn bị lặp lại bài phát biểu vừa trình bày. Nhưng cậu đã kéo tôi vào chăn, quấn cả hai chúng tôi như một con nhện quấn quanh bướm đêm, chóp mũi cậu cọ vào mũi tôi. Sáng hôm đó quả thật rất lạnh, so sánh với nhiệt độ cơ thể của cậu, cuối cùng tôi cũng cảm nhận được.
“Đó là thuyền của mình, cá nhỏ, không đuổi mình đi được đâu.”
Con tàu đó đã có quá nhiều thay đổi, nó cũng có thể là con tàu của mình. Nghe tôi nói, cậu bật cười, chợt cắn vào vai tôi, tôi giật mình muốn ngồi dậy, nhưng tay cậu vòng qua eo tôi và chiếc chăn bừa bộn khiến chúng tôi gần như ôm nhau lăn xuống đất. Cậu và tôi lúng túng di chuyển, phát ra những tiếng cười khúc khích ngớ ngẩn, và rồi môi cậu tìm thấy môi tôi, lần đầu tiên sau nhiều ngày.
Cuộc phiêu lưu nào cũng đáng giá. Sau này, cậu đã nói như vậy, vẫn đang bị chôn nơi sâu thẳm. Vì vậy, mỗi khi tôi nhớ lại câu này, kí ức thính giác luôn chồng lên kí ức xúc giác. Thời gian còn lại trong ngày chúng tôi không ra ngoài, thậm chí không rời khỏi giường, ngoại trừ việc đốt củi vào lò sưởi. Nhưng tôi không muốn ở lại trong những ký ức tương tự quá lâu, nó sẽ cứ nhắc nhở tôi rằng nơi tôi đang ở có điều gì đó thiếu sót.
Một vấn đề còn lại trước khi chúng tôi đi: tôi.
Tôi trông không giống người dân của Quần đảo Đôi, không có giải pháp nào nhưng đó không phải là trở ngại. Trên Quần đảo Đôi có một khu định cư thương mại nhỏ, kế hoạch của chúng tôi là sau khi cập bến sẽ nhanh chóng lẻn vào nơi đó, vấn đề là tôi không thể giả vờ là một người dân Đảo Lớn. Tóc của tôi quá nhạt, nhưng cũng không đủ sáng để được coi là người phương Bắc. Ý tưởng về khăn xếp nhanh chóng bị loại bỏ, vì không ai ở đại dương này đội khăn xếp, ngoại trừ các bà mẹ trên đảo Icahn và các vu y ở một số hòn đảo nhỏ phía nam. Các dược sư đã thử nhuộm tóc đen cho tôi bằng cách dùng một loại rễ cây nghiền trộn với bột quặng cay nồng nhưng không thành công, một vùng lớn sau gáy tôi bị nhuộm đen nhưng tóc chỉ chuyển thành một màu xám nâu bẩn thỉu, với mảng này đậm hơn và mảng kia nhạt hơn. Cuối cùng, Ashayo đổi thuốc và rửa sạch thứ màu nâu kỳ lạ, nói chính xác hơn là rửa sạch tất cả các màu sắc.
“Giống như đang đội một đầu len.” Cậu nhận xét vào buổi tối hôm đó, sau khi tôi từ rừng về.
“Tôi là một thương gia buôn quặng đến từ Quần đảo phía Bắc và tôi ăn một con hải cẩu con mỗi đêm.”
Cậu thậm chí không cười, chỉ nhướn mày, đi vòng qua bàn về phía tôi, đưa ngón tay chải qua mái tóc mới màu bạc của tôi rồi kéo nhẹ: “Không tệ đâu. Cậu có thể nói tiếng phương bắc không, người buôn quặng?”
Cũng không hẳn là không thể, nhưng chúng tôi hy vọng mình sẽ không phải nói tiếng phương Bắc trong suốt chuyến đi và nếu mọi việc suôn sẻ, chúng tôi sẽ không phải nói chuyện với bất kỳ ai ngoại trừ “sứa”. Theo địa chỉ mà Ashayo đưa cho, chúng tôi đã lên kế hoạch cho những điểm cập bến tốt nhất trên bản đồ, có ba nơi, nếu gặp đội tuần tra, chúng tôi sẽ chuyển sang nơi tiếp theo, nếu thực sự không thể cập bến, chúng tôi sẽ trực tiếp quay trở lại Đảo Lớn.
Chúng tôi khởi hành trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng sớm, vùng biển gần đó an toàn nên cánh buồm đã được kéo lên. Gió thổi thật hoàn hảo, con thuyền lướt trên mặt nước như một mũi tên bay thấp, và chúng tôi đã vượt qua cột mốc đầu tiên trước khi mặt trời mọc. Tôi nhớ đã chỉ cho cậu một đàn cá voi ở đằng xa, cùng lúc đó, một đàn hải âu cất cánh từ hòn đảo hoang vắng, trống trải, thoáng chốc đã đổ bóng xuống. Tôi đặt mái chèo xuống và cúi người lấy bình đất chứa nước ngọt.
Đây là giây phút cuối cùng tôi còn nhớ, giữa lúc nhắm và mở mắt, cậu cùng con thuyền biến mất, bầu trời chuyển sang màu xanh xám, sỏi rơi như hạt mưa, không lớn hơn hạt lúa mì, gõ nhẹ vào đầu và vai tôi. Tôi đứng thẳng lên, nhận ra mình đang quỳ trên mặt nước biển như thủy tinh, sở dĩ tôi nói “như thủy tinh” là vì nước biển cứng, đông đặc, hoàn toàn trong suốt và vẫn giữ được hình dạng sóng cuộn. Mặt trời là một quả cầu magma treo lơ lửng, tỏa ra ánh sáng đỏ đục. Tôi có thể nhìn rõ đáy biển sâu, không giống như đang ở trên biển mà có cảm giác như lơ lửng trong không trung, choáng váng đến chóng mặt, những rặng núi dưới đáy biển trông như những vết sẹo chưa lành, và vùng đồng bằng xám xịt lấm tấm những miệng núi lửa. Có thứ gì đó giống như các sợi chỉ phát sáng giữa những tảng đá, tôi nheo mắt nhìn và nhận ra chúng đang chảy magma, giống như những mạch máu đang đập. Tôi nhắm mắt lại, ôm mình đợi một lúc, mong rằng ảo ảnh sẽ tự biến mất, nhưng không phải vậy, tôi đứng dậy, nhìn chằm chằm vào “mạch máu” dày đặc nhất rồi bước về phía trước.
Những mạch magma nối liền tất cả các hòn đảo, mỗi bước tôi đi, mạng lưới mạch máu này trong tâm trí tôi trở nên rõ ràng hơn, tôi nên diễn tả nó như thế nào đây? Tôi không hẳn là “nhìn thấy”, tôi chỉ biết, giống như tôi có thể hiểu được ngôn ngữ của cá voi, đó không phải là ngôn ngữ, không phải “phát hiện” mà là nhắc nhở, như chợt nhớ đến một dòng thơ đã lãng quên từ lâu. Tất cả các hòn đảo đều từng là những ngọn núi lửa cằn cỗi, rồi vào một ngày nào đó, tất cả các ngọn núi lửa sẽ có người sinh sống, họ đốt lửa và hát những bài ca.
Tiếng hát của cá voi vang lên từ đáy đại dương sâu thẳm, nước biển đông đặc khẽ rung chuyển, phát ra âm thanh lớn như băng vỡ. Những con sóng ứ đọng lại bắt đầu nhảy lên, tôi chìm xuống nước, như một mảnh lá khô nhỏ, từ từ chìm xuống đáy biển. Magma không còn giống mạch máu nữa mà là một dòng sông đầy giận dữ. Tôi cúi xuống chạm vào, tay phải của tôi đau đớn, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, tôi nhìn thấy tất cả những nơi mà magma có thể chạm tới. Tất cả những ngọn núi tối tăm, tất cả những hòn đảo, những ngọn núi lửa dưới nước sắp trở thành vùng đất mới, những hòn đảo không tên đã biến mất từ lâu và sâu hơn cả đại dương, có một trái tim rực lửa đang đập, đẩy tảng đá nóng chảy lên cao từng chút một, nó tụ lại dưới Đảo Lớn, dưới Icahn, dưới Quần đảo phía Bắc, dưới những khu rừng rậm rạp của Quần đảo phía Nam, nhiều áp xe(1) sắp vỡ tung.
(1) Áp xe: là tên gọi của một tổ chức viêm nhiễm, khu trú thành một khối mềm, bên trong chứa đầy mủ cấu tạo từ vi khuẩn, xác bạch cầu và các mảnh vụn. Áp xe dễ dàng được nhận diện trên lâm sàng với các đặc điểm sau: là một khối mềm, lùng nhùng, da vùng áp xe thường nóng, đỏ, sưng nề, chạm vào thấy đau.
Rồi tôi tỉnh dậy, nằm ngửa trong đáy tàu, cậu gọi tên tôi và đặt tay lên trán tôi. Tôi ngồi dậy, tựa vào mạn thuyền, liếc nhìn tay phải, lần này cơn đau không còn là ảo giác nữa, ngón tay và mu bàn tay nổi lên mụn nước, da sưng tấy đỏ bừng như bị bỏng bởi nước sôi. Cậu cũng chú ý tới, hít một hơi rồi hỏi chuyện gì đã xảy ra, cậu nhanh chóng nhận ra và hỏi tôi đã mơ thấy gì. Tôi đang định nói thì cậu lại lắc đầu: “Chúng ta nên quay lại đảo ngay.”
Không. Tôi nói, đây có lẽ là lần duy nhất tôi ra lệnh cho cậu, cầm mái chèo lên, chúng ta sẽ đến Quần đảo Đôi, càng sớm càng tốt, mình sẽ kể cho cậu nghe chuyện gì xảy ra trên đường đi.
Tôi đã cân nhắc đến việc chôn con cá heo, nhưng tôi không muốn chạm vào cái xác trương phồng và cũng không có dụng cụ để di chuyển nó. Cuối cùng, tôi nhặt hai mảnh gỗ lũa lên, “cứu” con cá heo chết giữa những tảng đá rồi đẩy nó ra biển một cách nhẹ nhàng nhất có thể. Ban đầu những cơn sóng chống lại tôi, cứ cuốn xác nó về nên tôi đành phải bước ra ngoài, đến khi nước ngập tới ngực thì đàn cá heo mới trôi được ra biển. Tôi ngồi trên rạn san hô ẩm ướt nhìn, rất lâu sau khi xác cá heo biến mất, tôi vẫn ngồi đó, không muốn cử động, không muốn quay lại, không muốn đối mặt với tình cảnh thực ra mình chẳng có việc gì để làm, và cũng không muốn tiếp tục viết. Một giọng nói trong đầu tôi cứ hét lên: Tuhfa sẽ không đọc thứ này đâu! Sẽ không có ai đọc thứ này đâu! Vô nghĩa! Vô nghĩa!
Loại mệt mỏi này kỳ thực đã xuất hiện từ mấy ngày trước, tôi không còn ngồi cả ngày ở bàn làm việc như trước nữa, cũng không còn vội vã quay lại khi đi câu cá. Chắc là do thời tiết, hôm qua tôi bận phơi rong biển vì trời hiếm ánh nắng và mưa rất lâu, dù trời tạnh mưa trong chốc lát thì cũng kéo theo một làn sương mù dày đặc màu xám, như muốn chôn vùi tôi và hòn đảo. Sương mù khác với những gì tôi nhớ, dày hơn và có mùi tro.
Nhưng bây giờ, trời đã tạnh, rong biển cũng được xếp ngay ngắn trên kệ, cá đã được thái lát và ướp muối, trong nồi có hến sạch, xác cá heo đã về với biển, tôi biết lấy cớ gì đây? Tôi chỉ có thể quay lại phòng viết và tiếp tục viết về mùa đông ảm đạm đó. Đó là những ngày cuối cùng của “tự do”(theo lời của cậu, không phải của tôi), đến mùa hè, cậu đã được bầu làm Chủ tịch hội đồng. Nhưng mùa đông trước đó và mùa xuân ngắn ngủi sau đó, cậu vẫn thuộc về tôi chứ không thuộc về Đảo Lớn.
Đó là một mùa đông tồi tệ, theo mọi nghĩa của từ này. Thời tiết lạnh đến mức một đàn cừu được cởi trói đã chết cóng trên sườn núi, điều mà chưa một ai trên Đảo Lớn chứng kiến trong nhiều thế hệ. Tệ hơn nữa, hầu hết mọi người đều không có lò sưởi trong nhà, người ta phải đào một cái hố bùn giữa phòng và đốt một đống lửa bên trong, kết quả là ít nhất mười ngôi nhà gỗ đã bị thiêu rụi. Kể từ đó, Hội đồng đã ban hành lệnh tạm thời tuyên bố rằng không được phép đốt lửa trong nhà trừ khi có lò sưởi hoặc lò than bằng đồng. Vào những đêm đặc biệt lạnh giá, phòng hội đồng sẽ mở cửa, đốt lửa trại và cho mọi người ngủ bên trong. Bọn trẻ rõ ràng nghĩ đây là một trò chơi đặc biệt, nhảy thành nhóm quanh đống lửa trại rồi hát những bài hát thiếu nhi không tên.
Xác cá voi vẫn đang thối rữa trên bãi biển, nếu hướng gió không tốt, mùi hôi thối có thể ngửi thấy ở mọi ngóc ngách trên Đảo Lớn, hoàn toàn không thể tránh khỏi. Người ta cố gắng hết sức để xử lý những cái xác cá voi nhỏ hơn, cưa xác thành từng mảnh nhỏ rồi dùng thuyền kéo từng mảnh ra biển khơi, còn xác lớn hơn thì người ta không biết phải làm gì. Pháp sư cố gắng triệu hồi ngọn lửa ma thuật để đốt cháy chúng, nhưng ba hoặc bốn cái xác cá voi đã rút cạn sức lực của họ, buộc họ phải hỗ trợ lẫn nhau và trốn trong căn lều tối tăm ngủ một ngày. Những chiếc xương bị đốt cháy để lại những vết cháy đen lớn trên bãi biển, phần còn lại chỉ có thể tiếp tục thối rữa.
Cậu có một lò sưởi trong nhà, nhưng chúng tôi hiếm khi dành thời gian ở đó. Sửa chữa một chiếc thuyền là một công việc tốn rất nhiều thời gian và sức lực, trên thuyền không có chỗ nào thuận tiện cho việc buộc cá heo, hình dạng đáy thuyền không phù hợp, khi bị cá heo kéo, thuyền có thể bị lật, vì vậy trước tiên cậu cần thực hiện một số sửa đổi. Sau đó mái chèo và cánh buồm mới sẽ được chế tạo để chống chọi với những cơn gió mùa đông. Các dược sư dệt một tấm vải khổng lồ, nhìn như vải bạt nhưng hình như không phải, phủ một lớp dày màu xám xen lẫn những dải vải vụn màu xanh đậm, nhìn từ xa trông như những đám rong biển trôi nổi. Nó sẽ là nơi trú ẩn khi chúng tôi đến được Quần đảo Đôi, miễn là chúng tôi không đến “quá gần” – tôi vẫn không chắc đây có phải là một trò đùa hay không. Dược sư nói câu này với vẻ mặt nghiêm túc, và cũng không có ai xung quanh anh cười. Tuy nhiên, mục đích mọi người sửa chữa con tàu này chính xác là để “đến gần” Quần đảo Đôi, không chỉ để đến gần mà còn để cập bến, đặt chân lên bãi biển và bước vào làng…Mọi việc phải được thực hiện trước mặt quân lính phương Bắc.
Ashayo có một “người bạn nghiên cứu các bài hát dân ca cổ” sống trên Quần đảo Đôi. Người bạn này tình cờ là một pháp sư. Nếu chúng tôi muốn biết về các bài hát và những lời tiên tri thì không ai trong đại dương này biết rõ hơn anh ta. Nhưng Ashayo đã mất liên lạc với anh ta kể từ khi bắt đầu chiến tranh, và không thể biết liệu pháp sư này còn sống hay không. Nhưng dược sư tràn đầy hy vọng: “Cậu ấy giống như một con sứa. Nhìn qua thì có thể bị giết chết chỉ bằng một cây gậy mỏng, nhưng thực ra nó rất nguy hiểm và mạnh hơn mọi người nghĩ nhiều. Cậu đã bao giờ nhìn thấy một hòn đảo có thể xua đuổi sứa chưa? Chưa từng? Vậy thì đúng rồi đấy.”
Vì mục đích bảo mật, bất cứ khi nào chúng tôi nói về người bạn pháp sư vô danh này ở nơi công cộng, chúng tôi đều sử dụng biệt danh “sứa”. Cậu cho rằng điều này thật nực cười, ai sẽ nhớ những thông tin tầm thường như vậy? Ai sẽ tiết lộ nó cho người phương Bắc? Cho dù có thì cũng sẽ bị phát hiện sớm thôi. Nhưng Ashayo nhất quyết phải làm như vậy, bởi vì vùng biển này đã khác xưa, kẻ thù vẫn là kẻ thù, nhưng đồng minh không nhất thiết vẫn là đồng minh. Dược sư cũng có chủ ý cử người canh thuyền mỗi đêm, thỉnh thoảng không ngủ được lại vượt sườn đồi ra đầm phá ngồi đó cho đến rạng sáng với cậu tập sự xui xẻo được giao nhiệm vụ gác đêm. Tôi chưa bao giờ hỏi tên họ và họ cũng chưa bao giờ hỏi về đảo Icahn, có lẽ vì họ không quan tâm hoặc vì họ không biết cách hỏi.
Tôi buộc con cá heo vào thuyền trong một buổi sáng sớm se lạnh và đi vòng quanh Đảo Lớn, mọi chuyện diễn ra khá suôn sẻ nên tôi không thể giải thích được nguồn gốc của sự hoảng loạn và nghi ngờ đang lớn dần trong tôi. Tôi từ bãi biển chạy về nhà, đánh thức cậu dậy và nói có lẽ cậu không cần phải tham gia vào cuộc phiêu lưu này, nó không đáng, mình có thể đi một mình, và hơn nữa, cậu chưa bao giờ học được cách gọi cá heo, có lẽ mình nên mang theo cặp linh mục tập sự đi cùng, Đảo Lớn không thể để mất một trong những ứng cử viên Chủ tịch hội đồng được. Cậu vẫn chưa tỉnh hẳn, cau mày, có vẻ đang suy nghĩ, hồi lâu mới nói: “Sáng sớm lạnh lắm phải không?”
Tôi hít một hơi thật sâu và chuẩn bị lặp lại bài phát biểu vừa trình bày. Nhưng cậu đã kéo tôi vào chăn, quấn cả hai chúng tôi như một con nhện quấn quanh bướm đêm, chóp mũi cậu cọ vào mũi tôi. Sáng hôm đó quả thật rất lạnh, so sánh với nhiệt độ cơ thể của cậu, cuối cùng tôi cũng cảm nhận được.
“Đó là thuyền của mình, cá nhỏ, không đuổi mình đi được đâu.”
Con tàu đó đã có quá nhiều thay đổi, nó cũng có thể là con tàu của mình. Nghe tôi nói, cậu bật cười, chợt cắn vào vai tôi, tôi giật mình muốn ngồi dậy, nhưng tay cậu vòng qua eo tôi và chiếc chăn bừa bộn khiến chúng tôi gần như ôm nhau lăn xuống đất. Cậu và tôi lúng túng di chuyển, phát ra những tiếng cười khúc khích ngớ ngẩn, và rồi môi cậu tìm thấy môi tôi, lần đầu tiên sau nhiều ngày.
Cuộc phiêu lưu nào cũng đáng giá. Sau này, cậu đã nói như vậy, vẫn đang bị chôn nơi sâu thẳm. Vì vậy, mỗi khi tôi nhớ lại câu này, kí ức thính giác luôn chồng lên kí ức xúc giác. Thời gian còn lại trong ngày chúng tôi không ra ngoài, thậm chí không rời khỏi giường, ngoại trừ việc đốt củi vào lò sưởi. Nhưng tôi không muốn ở lại trong những ký ức tương tự quá lâu, nó sẽ cứ nhắc nhở tôi rằng nơi tôi đang ở có điều gì đó thiếu sót.
Một vấn đề còn lại trước khi chúng tôi đi: tôi.
Tôi trông không giống người dân của Quần đảo Đôi, không có giải pháp nào nhưng đó không phải là trở ngại. Trên Quần đảo Đôi có một khu định cư thương mại nhỏ, kế hoạch của chúng tôi là sau khi cập bến sẽ nhanh chóng lẻn vào nơi đó, vấn đề là tôi không thể giả vờ là một người dân Đảo Lớn. Tóc của tôi quá nhạt, nhưng cũng không đủ sáng để được coi là người phương Bắc. Ý tưởng về khăn xếp nhanh chóng bị loại bỏ, vì không ai ở đại dương này đội khăn xếp, ngoại trừ các bà mẹ trên đảo Icahn và các vu y ở một số hòn đảo nhỏ phía nam. Các dược sư đã thử nhuộm tóc đen cho tôi bằng cách dùng một loại rễ cây nghiền trộn với bột quặng cay nồng nhưng không thành công, một vùng lớn sau gáy tôi bị nhuộm đen nhưng tóc chỉ chuyển thành một màu xám nâu bẩn thỉu, với mảng này đậm hơn và mảng kia nhạt hơn. Cuối cùng, Ashayo đổi thuốc và rửa sạch thứ màu nâu kỳ lạ, nói chính xác hơn là rửa sạch tất cả các màu sắc.
“Giống như đang đội một đầu len.” Cậu nhận xét vào buổi tối hôm đó, sau khi tôi từ rừng về.
“Tôi là một thương gia buôn quặng đến từ Quần đảo phía Bắc và tôi ăn một con hải cẩu con mỗi đêm.”
Cậu thậm chí không cười, chỉ nhướn mày, đi vòng qua bàn về phía tôi, đưa ngón tay chải qua mái tóc mới màu bạc của tôi rồi kéo nhẹ: “Không tệ đâu. Cậu có thể nói tiếng phương bắc không, người buôn quặng?”
Cũng không hẳn là không thể, nhưng chúng tôi hy vọng mình sẽ không phải nói tiếng phương Bắc trong suốt chuyến đi và nếu mọi việc suôn sẻ, chúng tôi sẽ không phải nói chuyện với bất kỳ ai ngoại trừ “sứa”. Theo địa chỉ mà Ashayo đưa cho, chúng tôi đã lên kế hoạch cho những điểm cập bến tốt nhất trên bản đồ, có ba nơi, nếu gặp đội tuần tra, chúng tôi sẽ chuyển sang nơi tiếp theo, nếu thực sự không thể cập bến, chúng tôi sẽ trực tiếp quay trở lại Đảo Lớn.
Chúng tôi khởi hành trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng sớm, vùng biển gần đó an toàn nên cánh buồm đã được kéo lên. Gió thổi thật hoàn hảo, con thuyền lướt trên mặt nước như một mũi tên bay thấp, và chúng tôi đã vượt qua cột mốc đầu tiên trước khi mặt trời mọc. Tôi nhớ đã chỉ cho cậu một đàn cá voi ở đằng xa, cùng lúc đó, một đàn hải âu cất cánh từ hòn đảo hoang vắng, trống trải, thoáng chốc đã đổ bóng xuống. Tôi đặt mái chèo xuống và cúi người lấy bình đất chứa nước ngọt.
Đây là giây phút cuối cùng tôi còn nhớ, giữa lúc nhắm và mở mắt, cậu cùng con thuyền biến mất, bầu trời chuyển sang màu xanh xám, sỏi rơi như hạt mưa, không lớn hơn hạt lúa mì, gõ nhẹ vào đầu và vai tôi. Tôi đứng thẳng lên, nhận ra mình đang quỳ trên mặt nước biển như thủy tinh, sở dĩ tôi nói “như thủy tinh” là vì nước biển cứng, đông đặc, hoàn toàn trong suốt và vẫn giữ được hình dạng sóng cuộn. Mặt trời là một quả cầu magma treo lơ lửng, tỏa ra ánh sáng đỏ đục. Tôi có thể nhìn rõ đáy biển sâu, không giống như đang ở trên biển mà có cảm giác như lơ lửng trong không trung, choáng váng đến chóng mặt, những rặng núi dưới đáy biển trông như những vết sẹo chưa lành, và vùng đồng bằng xám xịt lấm tấm những miệng núi lửa. Có thứ gì đó giống như các sợi chỉ phát sáng giữa những tảng đá, tôi nheo mắt nhìn và nhận ra chúng đang chảy magma, giống như những mạch máu đang đập. Tôi nhắm mắt lại, ôm mình đợi một lúc, mong rằng ảo ảnh sẽ tự biến mất, nhưng không phải vậy, tôi đứng dậy, nhìn chằm chằm vào “mạch máu” dày đặc nhất rồi bước về phía trước.
Những mạch magma nối liền tất cả các hòn đảo, mỗi bước tôi đi, mạng lưới mạch máu này trong tâm trí tôi trở nên rõ ràng hơn, tôi nên diễn tả nó như thế nào đây? Tôi không hẳn là “nhìn thấy”, tôi chỉ biết, giống như tôi có thể hiểu được ngôn ngữ của cá voi, đó không phải là ngôn ngữ, không phải “phát hiện” mà là nhắc nhở, như chợt nhớ đến một dòng thơ đã lãng quên từ lâu. Tất cả các hòn đảo đều từng là những ngọn núi lửa cằn cỗi, rồi vào một ngày nào đó, tất cả các ngọn núi lửa sẽ có người sinh sống, họ đốt lửa và hát những bài ca.
Tiếng hát của cá voi vang lên từ đáy đại dương sâu thẳm, nước biển đông đặc khẽ rung chuyển, phát ra âm thanh lớn như băng vỡ. Những con sóng ứ đọng lại bắt đầu nhảy lên, tôi chìm xuống nước, như một mảnh lá khô nhỏ, từ từ chìm xuống đáy biển. Magma không còn giống mạch máu nữa mà là một dòng sông đầy giận dữ. Tôi cúi xuống chạm vào, tay phải của tôi đau đớn, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, tôi nhìn thấy tất cả những nơi mà magma có thể chạm tới. Tất cả những ngọn núi tối tăm, tất cả những hòn đảo, những ngọn núi lửa dưới nước sắp trở thành vùng đất mới, những hòn đảo không tên đã biến mất từ lâu và sâu hơn cả đại dương, có một trái tim rực lửa đang đập, đẩy tảng đá nóng chảy lên cao từng chút một, nó tụ lại dưới Đảo Lớn, dưới Icahn, dưới Quần đảo phía Bắc, dưới những khu rừng rậm rạp của Quần đảo phía Nam, nhiều áp xe(1) sắp vỡ tung.
(1) Áp xe: là tên gọi của một tổ chức viêm nhiễm, khu trú thành một khối mềm, bên trong chứa đầy mủ cấu tạo từ vi khuẩn, xác bạch cầu và các mảnh vụn. Áp xe dễ dàng được nhận diện trên lâm sàng với các đặc điểm sau: là một khối mềm, lùng nhùng, da vùng áp xe thường nóng, đỏ, sưng nề, chạm vào thấy đau.
Rồi tôi tỉnh dậy, nằm ngửa trong đáy tàu, cậu gọi tên tôi và đặt tay lên trán tôi. Tôi ngồi dậy, tựa vào mạn thuyền, liếc nhìn tay phải, lần này cơn đau không còn là ảo giác nữa, ngón tay và mu bàn tay nổi lên mụn nước, da sưng tấy đỏ bừng như bị bỏng bởi nước sôi. Cậu cũng chú ý tới, hít một hơi rồi hỏi chuyện gì đã xảy ra, cậu nhanh chóng nhận ra và hỏi tôi đã mơ thấy gì. Tôi đang định nói thì cậu lại lắc đầu: “Chúng ta nên quay lại đảo ngay.”
Không. Tôi nói, đây có lẽ là lần duy nhất tôi ra lệnh cho cậu, cầm mái chèo lên, chúng ta sẽ đến Quần đảo Đôi, càng sớm càng tốt, mình sẽ kể cho cậu nghe chuyện gì xảy ra trên đường đi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook