Tuhfa - vallennox
-
Chương 14: Trang 48 - 50
Trên tàu không có thức ăn nhưng may mắn là năm chiếc bình đất đựng nước ngọt đều đầy. Tổng cộng có hai mươi bảy con cá heo đi theo con tàu này, đảo Icahn có sáu bảy mươi con cá heo được thuần hóa quanh năm, tôi chỉ bắt đi không đến một nửa, nhưng tôi không có gì để phàn nàn, nếu không có chúng, chúng tôi sẽ không thể đến Đảo Lớn nhanh như vậy.
Tôi và hai người tập sự thống nhất trình tự luân phiên để đảm bảo lúc nào cũng có một người chèo và một người thức vào ban đêm. Sau đó, chúng tôi tháo lưới đánh cá trong cabin, dùng dây cáp xoắn lại thành dây cương đơn giản rồi đặt lên lưng những chú cá heo, khi một nhóm bơi lội mệt mỏi thì sẽ thay thế bằng nhóm tiếp theo, sau đó tốc độ của thuyền sẽ nhanh hơn rất nhiều và chúng tôi không phải tiêu tốn chút sức lực nào. Khi đi qua vùng núi lửa, ba chúng tôi sợ hãi không dám ngủ, ngơ ngác nhìn ra biển. Vì không có ai mang theo pha lê núi lửa nên hai người tập sự đọc một lời cầu nguyện đơn giản, cởi những chiếc cúc nhỏ trên cổ áo choàng rồi ném xuống biển làm vật hiến tế.
Đây là cách tôi đến Đảo Lớn lần thứ năm: đói, nhếch nhác, cực kỳ mệt mỏi, với một đàn cá heo mà không ai biết phải làm gì và hai linh mục tập sự còn chưa có tên chính thức. Họ không nói được nhiều ngôn ngữ của hòn đảo nên tôi phải dịch từ đó ra, và chỉ khi đó tôi mới nhận ra rằng tôi đã không hỏi tên họ trong hai năm qua. Cá Ngựa và Cá Bơn, đó là tên gọi của họ, tôi không buồn hỏi ai là Cá Ngựa và ai là Cá Bơn. Tôi chộp lấy tên lính canh Đảo Lớn đầu tiên mà tôi có thể tìm được rồi hỏi anh ta Tuhfa ở đâu, nhưng anh ta không biết. Tôi ngăn người thứ hai lại, người này lẩm bẩm nói: “Có lẽ là trong phòng hội đồng.”
Tôi để những người tập sự trên bãi biển và đi thẳng đến tòa nhà bằng đá xấu xí. Dọc đường có nhiều trạm kiểm soát và hầm trú ẩn hơn tôi nhớ, những con phố nơi người bán hàng dựng quầy trước đây đều bị hàng rào gỗ chặn lại. Không có nhà thơ hay trẻ em nào chạy nhảy hò hét hào hứng giữa khoảng không gian rộng mở bên hồ, những ngôi nhà gỗ đều im ắng, cửa không mở, cửa sổ gỗ đóng kín, nhiều hơn một ngôi nhà được treo lá dừa khô bày tỏ lời chia buồn. Tôi đi vòng qua hàng rào gỗ chặn cửa hội trường thì bị một tên lính canh cầm giáo chặn lại, tên lính canh thấp hơn tôi nửa cái đầu, trông như một đứa trẻ, lẽ ra cậu ta nên chơi bóng ở bãi đất trống bên hồ thay vì canh gác ở đây. Tôi nói với cậu ta tên của tôi và rằng tôi muốn gặp Tuhfa, nhưng lính canh không nhận ra tôi, đẩy tôi lại rồi nói rằng bây giờ cậu không gặp ai cả, đặc biệt là những người từ ngoài đảo. Ngay khi tôi đang cân nhắc xem mình có đủ sức để hạ gục cậu ta hay không, một tên lính canh khác đang uống canh rong biển trên bậc thang xa hơn một chút đã nhận ra tôi và nhẹ nhàng đẩy gã nhỏ cầm giáo ra, để tôi đi vào.
Ngọn lửa vẫn cháy trong đại sảnh như thường lệ, mùi gỗ thông quyện với mùi rong biển luộc vẫn thường trực. Người đưa tin chắc hẳn cũng cảm thấy như vậy khi cô được giúp đỡ trong ngần ấy năm về trước: một niềm nhẹ nhõm tràn ngập, lấn át chút ý chí cuối cùng mà cô đã dùng để chèo thuyền trốn thoát một mình. Tôi rất ngạc nhiên khi cô ấy có thể tiếp tục nói lâu như vậy, bởi vì rõ ràng là tôi không thể làm được việc như vậy. Tôi chỉ kịp nhìn rõ mặt cậu, thấy cậu đứng dậy chạy về phía tôi, rồi ngọn lửa tắt trước mắt tôi, toàn bộ căn phòng biến mất, và tôi thậm chí không thể nhớ được cảm giác ngã xuống nền đất là như thế nào.
——
Theo lời cậu nói thì tôi chỉ ngủ được một đêm rồi tỉnh lại. Nhưng trong ấn tượng của tôi, khoảng thời gian bất tỉnh đó giống như một làn sương mù tăm tối không có hồi kết, tôi lơ lửng trong đó, không có ý thức hay trọng lượng. Thỉnh thoảng có vài giọng nói gọi tên tôi, nhưng tôi chính là làn sương mù dày đặc này, sương mù không có tên người nên đương nhiên tôi không cần phải đáp lại.
Tôi thức dậy dưới ánh nắng chói chang, tưởng mình vẫn đang ở trong đền nhưng ngoài cửa sổ đã có bóng cây đung đưa, trong đó có cây chuối lá rộng như được phủ một lớp dầu cá ẩm ướt. Cậu bước tới từ phía bên kia của căn phòng và ngồi ở mép giường, trên tay cầm nửa chiếc gáo dừa và một loại trà nào đó đang văng tung tóe trong đó. Cậu đỡ tôi ngồi dậy và đưa gáo dừa cho tôi, nhưng tôi giả vờ như không nhìn thấy, tôi sờ kỹ vào tay cậu trước để đảm bảo không có tro rơi xuống, rồi mới chạm vào má cậu. Cậu cười, quay đầu lại cắn nhẹ vào ngón trỏ của tôi, chắc đang nghĩ đó là trò tán tỉnh. Nhưng tôi thậm chí còn không nghĩ đến chuyện tán tỉnh, tôi thực sự đang kiểm tra, tôi phải chắc chắn rằng cậu không phải là ảo ảnh do một con cá voi magma tạo ra. Đầu óc rối bời của tôi bị thu hút bởi tiếng chim hót líu lo, tôi quay lại nhìn những cây chuối bên ngoài, rồi say mê nhìn chằm chằm vào những đốm sáng trên bậu cửa sổ. Cậu gọi tên tôi, đặt gáo dừa xuống, ôm mặt tôi trong tay và yêu cầu tôi nhìn cậu.
Cậu ổn chứ, cá nhỏ? Cậu hỏi.
Cổ họng tôi lại tắc nghẽn, một cơn đau nhói lan ra từ mắt tôi rồi từ từ chiếm lấy toàn bộ đầu óc của tôi. Cuối cùng, khi tôi đã nói được, điều đầu tiên tôi nói đến là căn nhà gỗ của mình, mùi của những tấm ván mới cắt và những bụi dâu đen mà tôi chưa bao giờ có cơ hội trồng. Cậu ngồi đó lắng nghe mà không ngắt lời hay yêu cầu tôi “nói rõ hơn đi”, vì vậy nên tôi đã nhổ hết những mảnh vụn tích tụ ra và đổ đi một ít mỗi ngày. Không phải lúc nào cậu cũng rảnh rỗi nên có khi tôi quấn chăn ngủ cả ngày, có khi một mình đi lang thang trên sườn đồi, nếu hai tên tập sự vô tình nhìn thấy tôi thì sẽ chạy đến như chó con, không phải để giám sát mà chỉ để nói vài lời với tôi, bằng ngôn ngữ chung của chúng tôi. Tôi là điều duy nhất trên hòn đảo xa lạ này cho phép họ xác nhận sự tồn tại của đảo Icahn, là một nơi neo đậu cảm xúc.
Một buổi tối, cậu mang cho tôi giấy, mực và bút chấm, mực là mực than cốc(1) thông thường, loại làm từ vỏ cây và nhựa cây. Tôi nửa đùa nửa thật hỏi Hội đồng Đảo Lớn xem họ có muốn một bản ghi đều đặn như nhật ký không. Cậu phủ nhận và nói rằng nó chỉ để cho tôi có một cách khác để giết thời gian thôi. Tôi có thể viết bất cứ điều gì tôi thích. Nếu tôi viết thơ tự sự thì cậu tin chắc có thể tìm được nhà thơ để sáng tác nhạc cho tôi.
(1) Than cốc là một loại nhiên liệu xám, cứng và xốp có hàm lượng cacbon cao và ít tạp chất, được tạo ra bằng cách nung nóng than mỡ hoặc dầu trong môi trường yếm khí – một quá trình chưng cất phá hủy.
Không có thơ thì tôi không biết phải viết gì. Cuối cùng, tôi đã viết “nhật ký”, một bản tường trình khô khan, sắp xếp những mảnh rời rạc theo trình tự thời gian. Cậu hỏi tôi có thể đưa bản ghi chép này cho hội đồng xem không. Tất nhiên là tôi có thể. Thực ra, tôi viết nó chỉ cho họ thôi. Tôi cố tình dỡ bỏ căn nhà gỗ và không đề cập đến bụi dâu đen mà tôi đã hình dung. Tôi không đề cập đến cả việc em gái tôi và chiếc thuyền tam bản của chúng tôi đã trôi trái phép ra biển khơi.
Khi Hội đồng Đảo Lớn mời tôi “trả lời một hai câu hỏi”, tôi nghĩ họ quan tâm đến hạm đội phương Bắc nên tôi đã cố gắng để nhớ lại số hiệu, hình dáng, cờ hiệu của các con tàu, đồng thời chuẩn bị xin lỗi vì trí nhớ “cực kỳ mơ hồ” của mình bởi “sáng sớm ánh sáng yếu” và bởi tôi “hoảng loạn”. Tuy nhiên, hầu hết các câu hỏi mà các đại biểu đặt ra đều xoay quanh trận động đất. Họ muốn biết “tiếng động lạ” ở đâu và tần suất xuất hiện của nó là bao nhiêu, “Ngoài ra, khi đi ngang qua vành đai núi lửa, các cậu có thấy điều gì bất thường không?”
Vì thế tôi hỏi có phải Đảo Lớn từng trải qua một trận động đất tương tự không?
Tôi nhìn cậu, nhưng người đàn ông bên cạnh cậu đeo dải ruy băng đỏ đã trả lời, có lẽ là một nhà lãnh đạo tôn giáo nào đó, nhưng tôi không biết con diệc xanh trên áo choàng của anh ta tượng trưng cho đức tin nào. Anh ta nói với giọng chậm rãi và thận trọng rằng Đảo Lớn đã xảy ra một trận động đất vào cuối mùa xuân năm ngoái, trong ký ức mà người dân trên đảo có thể truy tìm, trận động đất cuối cùng xảy ra cách đây hơn mười mùa hè và một số ống khói đã bị sập. Ngoài ra không có tổn thất nào khác. Lần này không còn cảm giác như trước nữa, thay vì rung chuyển, nó giống như cộng hưởng hơn, giống như việc đưa tay ra chạm vào đầu trống vừa bị đánh mạnh.
“Giống như một âm thanh rắn chắc.” Tôi xen vào, các đại biểu lẩm bẩm không rõ ràng và gật đầu.
Tôi gần như muốn nói ngay tại chỗ về lời tiên tri và học giả Yumaso, nhưng cuối cùng tôi quyết định tôn trọng truyền thống không nói công khai về đảo đá nhỏ và giữ im lặng. Ngoài ra, tôi không chắc các đại biểu sẽ nghĩ gì về tôi nếu tôi nói: “Tôi có một giấc mơ về một con cá voi yêu cầu tôi hát, vì vậy tôi nghĩ rằng một ngày nào đó rất gần núi lửa có thể sẽ phun trào và tất cả chúng ta sẽ bị nướng chín”.
Hôm đó cậu ra khỏi phòng rất muộn, tôi không biết chính xác là khi nào và tôi cũng không đợi cậu. Khi cậu tìm thấy tôi trên sườn đồi hướng về phía nam, tôi thực sự ngạc nhiên và hỏi cậu làm sao cậu biết tôi ở đâu. Cậu cười rồi nói không biết, vậy nên chỉ có thể tìm kiếm những nơi mà cậu nghĩ tôi sẽ đi, từng nơi một. Cậu đến đầm phá trước đó nhưng không tìm được tôi, sau đó mới đi tới sườn núi này.
Áo choàng của cậu vừa vặn trên nền đất. Viết xong câu này tôi mới nhận ra là đọc không ổn lắm, ý tôi là chiếc áo choàng ngăn cách hoàn toàn với sỏi và cỏ ẩm, đủ rộng để chúng tôi nằm cạnh nhau. Đó là một đêm không quang đãng, không thấy một ngôi sao nào, thỉnh thoảng có gió thổi qua mùi bùn và rong biển thối kỳ lạ, vào một đêm như vậy, ngọn hải đăng ở cảng đáng lẽ phải rất nổi bật, nhưng thực tế ở đó chỉ là những bóng đen chồng lên nhau, với một ngọn lửa nhỏ bập bùng trong đó.
Chúng tôi trò chuyện một lúc về đảo Icahn. Nhìn lại, cuộc tấn công của người phương Bắc đơn giản là không thể tránh khỏi. Sau khi chiếm đảo Icahn, Vua Atukwa ngay lập tức có được một cảng không có sương giá, khí hậu ôn hòa hơn và mặc dù có ít cánh đồng trồng trọt nhưng ông vẫn có thể nuôi sống đội quân đang ngày càng lớn mạnh của mình. Hơn nữa, giờ đây họ đã ở gần Đảo Lớn hơn và đường tiếp tế của họ được rút ngắn. Quan trọng hơn, hạm đội rút lui không còn phải mạo hiểm bão tuyết để quay trở lại với khí hậu khắc nghiệt của đảo mẹ, với cá heo, chúng có thể lao vào vành đai núi lửa và dễ dàng thoát khỏi hạm đội Đảo Lớn đang truy đuổi.
Tôi không hiểu tại sao các linh mục lại không nghĩ đến tất cả những điều này.
“Không phải là mình không nghĩ đến điều đó”, cậu nói: “Nhưng mình không muốn nghĩ như vậy. Nếu họ đi đến kết luận mà cậu vừa đưa ra, điều đó có nghĩa là cần phải xây dựng hệ thống phòng thủ cảng, binh lính cần phải được huấn luyện, tàu chiến cần được chế tạo, và tàu chiến cần được điều động thường xuyên. Người tuần tra vành đai núi lửa, cần cái này, cần cái kia, thời gian, gỗ, ngũ cốc, quặng, con người. Tốt hơn là nên tự nhủ: ‘Không, người phương Bắc sẽ không đến, vì núi lửa rất nguy hiểm, vì chúng ta không ‘khiêu khích’ người phương bắc, và vì chẳng có gì đáng để cướp bóc trên hòn đảo này cả’. Thật đáng tiếc cho Atukwa, sự tồn tại đơn thuần của một hòn đảo trong đại dương cũng đã là một sự khiêu khích với hắn.”
“Giá như chúng ta chuẩn bị sớm hơn vài mùa hè…“
“Rất có thể sẽ không có gì khác biệt. Có lẽ sẽ khiến người phương Bắc mất thêm vài chiếc tàu, nhưng kết quả cuối cùng vẫn như nhau.”
Tôi thở dài: “Ít nhất mình cũng mang theo cá heo.”
“Ít nhất thì cậu cũng mang theo cá heo.” Cậu chạm vào cánh tay tôi. “Mình rất vui vì cậu đã quay lại, mặc dù mình thực sự hy vọng rằng đó không phải là một cuộc chạy trốn. Mình mong cậu sẽ không bao giờ rời đi, tất nhiên trừ khi là cậu muốn quay lại, nghĩa là nếu có thể đuổi được người phương Bắc…”
Khi lo lắng, cậu sẽ nhanh chóng rơi vào hố cát của những điều vô nghĩa, tôi thực lòng mong rằng điều này không xảy ra khi cậu thường phải tham gia vào việc ra quyết định trong hội đồng. Tôi đặt tay lên cánh tay cậu để nói với cậu rằng tôi hiểu ý cậu, và có một điều nữa mà tôi muốn nói với cậu, điều mà tôi đã không nói trong hội đồng vì nó liên quan đến một hòn đảo mà cậu có thể chưa bao giờ nghe nói đến, thêm nữa là một lời tiên tri mà tôi không biết liệu nó có được tính là một lời tiên tri hay không.
Tôi và hai người tập sự thống nhất trình tự luân phiên để đảm bảo lúc nào cũng có một người chèo và một người thức vào ban đêm. Sau đó, chúng tôi tháo lưới đánh cá trong cabin, dùng dây cáp xoắn lại thành dây cương đơn giản rồi đặt lên lưng những chú cá heo, khi một nhóm bơi lội mệt mỏi thì sẽ thay thế bằng nhóm tiếp theo, sau đó tốc độ của thuyền sẽ nhanh hơn rất nhiều và chúng tôi không phải tiêu tốn chút sức lực nào. Khi đi qua vùng núi lửa, ba chúng tôi sợ hãi không dám ngủ, ngơ ngác nhìn ra biển. Vì không có ai mang theo pha lê núi lửa nên hai người tập sự đọc một lời cầu nguyện đơn giản, cởi những chiếc cúc nhỏ trên cổ áo choàng rồi ném xuống biển làm vật hiến tế.
Đây là cách tôi đến Đảo Lớn lần thứ năm: đói, nhếch nhác, cực kỳ mệt mỏi, với một đàn cá heo mà không ai biết phải làm gì và hai linh mục tập sự còn chưa có tên chính thức. Họ không nói được nhiều ngôn ngữ của hòn đảo nên tôi phải dịch từ đó ra, và chỉ khi đó tôi mới nhận ra rằng tôi đã không hỏi tên họ trong hai năm qua. Cá Ngựa và Cá Bơn, đó là tên gọi của họ, tôi không buồn hỏi ai là Cá Ngựa và ai là Cá Bơn. Tôi chộp lấy tên lính canh Đảo Lớn đầu tiên mà tôi có thể tìm được rồi hỏi anh ta Tuhfa ở đâu, nhưng anh ta không biết. Tôi ngăn người thứ hai lại, người này lẩm bẩm nói: “Có lẽ là trong phòng hội đồng.”
Tôi để những người tập sự trên bãi biển và đi thẳng đến tòa nhà bằng đá xấu xí. Dọc đường có nhiều trạm kiểm soát và hầm trú ẩn hơn tôi nhớ, những con phố nơi người bán hàng dựng quầy trước đây đều bị hàng rào gỗ chặn lại. Không có nhà thơ hay trẻ em nào chạy nhảy hò hét hào hứng giữa khoảng không gian rộng mở bên hồ, những ngôi nhà gỗ đều im ắng, cửa không mở, cửa sổ gỗ đóng kín, nhiều hơn một ngôi nhà được treo lá dừa khô bày tỏ lời chia buồn. Tôi đi vòng qua hàng rào gỗ chặn cửa hội trường thì bị một tên lính canh cầm giáo chặn lại, tên lính canh thấp hơn tôi nửa cái đầu, trông như một đứa trẻ, lẽ ra cậu ta nên chơi bóng ở bãi đất trống bên hồ thay vì canh gác ở đây. Tôi nói với cậu ta tên của tôi và rằng tôi muốn gặp Tuhfa, nhưng lính canh không nhận ra tôi, đẩy tôi lại rồi nói rằng bây giờ cậu không gặp ai cả, đặc biệt là những người từ ngoài đảo. Ngay khi tôi đang cân nhắc xem mình có đủ sức để hạ gục cậu ta hay không, một tên lính canh khác đang uống canh rong biển trên bậc thang xa hơn một chút đã nhận ra tôi và nhẹ nhàng đẩy gã nhỏ cầm giáo ra, để tôi đi vào.
Ngọn lửa vẫn cháy trong đại sảnh như thường lệ, mùi gỗ thông quyện với mùi rong biển luộc vẫn thường trực. Người đưa tin chắc hẳn cũng cảm thấy như vậy khi cô được giúp đỡ trong ngần ấy năm về trước: một niềm nhẹ nhõm tràn ngập, lấn át chút ý chí cuối cùng mà cô đã dùng để chèo thuyền trốn thoát một mình. Tôi rất ngạc nhiên khi cô ấy có thể tiếp tục nói lâu như vậy, bởi vì rõ ràng là tôi không thể làm được việc như vậy. Tôi chỉ kịp nhìn rõ mặt cậu, thấy cậu đứng dậy chạy về phía tôi, rồi ngọn lửa tắt trước mắt tôi, toàn bộ căn phòng biến mất, và tôi thậm chí không thể nhớ được cảm giác ngã xuống nền đất là như thế nào.
——
Theo lời cậu nói thì tôi chỉ ngủ được một đêm rồi tỉnh lại. Nhưng trong ấn tượng của tôi, khoảng thời gian bất tỉnh đó giống như một làn sương mù tăm tối không có hồi kết, tôi lơ lửng trong đó, không có ý thức hay trọng lượng. Thỉnh thoảng có vài giọng nói gọi tên tôi, nhưng tôi chính là làn sương mù dày đặc này, sương mù không có tên người nên đương nhiên tôi không cần phải đáp lại.
Tôi thức dậy dưới ánh nắng chói chang, tưởng mình vẫn đang ở trong đền nhưng ngoài cửa sổ đã có bóng cây đung đưa, trong đó có cây chuối lá rộng như được phủ một lớp dầu cá ẩm ướt. Cậu bước tới từ phía bên kia của căn phòng và ngồi ở mép giường, trên tay cầm nửa chiếc gáo dừa và một loại trà nào đó đang văng tung tóe trong đó. Cậu đỡ tôi ngồi dậy và đưa gáo dừa cho tôi, nhưng tôi giả vờ như không nhìn thấy, tôi sờ kỹ vào tay cậu trước để đảm bảo không có tro rơi xuống, rồi mới chạm vào má cậu. Cậu cười, quay đầu lại cắn nhẹ vào ngón trỏ của tôi, chắc đang nghĩ đó là trò tán tỉnh. Nhưng tôi thậm chí còn không nghĩ đến chuyện tán tỉnh, tôi thực sự đang kiểm tra, tôi phải chắc chắn rằng cậu không phải là ảo ảnh do một con cá voi magma tạo ra. Đầu óc rối bời của tôi bị thu hút bởi tiếng chim hót líu lo, tôi quay lại nhìn những cây chuối bên ngoài, rồi say mê nhìn chằm chằm vào những đốm sáng trên bậu cửa sổ. Cậu gọi tên tôi, đặt gáo dừa xuống, ôm mặt tôi trong tay và yêu cầu tôi nhìn cậu.
Cậu ổn chứ, cá nhỏ? Cậu hỏi.
Cổ họng tôi lại tắc nghẽn, một cơn đau nhói lan ra từ mắt tôi rồi từ từ chiếm lấy toàn bộ đầu óc của tôi. Cuối cùng, khi tôi đã nói được, điều đầu tiên tôi nói đến là căn nhà gỗ của mình, mùi của những tấm ván mới cắt và những bụi dâu đen mà tôi chưa bao giờ có cơ hội trồng. Cậu ngồi đó lắng nghe mà không ngắt lời hay yêu cầu tôi “nói rõ hơn đi”, vì vậy nên tôi đã nhổ hết những mảnh vụn tích tụ ra và đổ đi một ít mỗi ngày. Không phải lúc nào cậu cũng rảnh rỗi nên có khi tôi quấn chăn ngủ cả ngày, có khi một mình đi lang thang trên sườn đồi, nếu hai tên tập sự vô tình nhìn thấy tôi thì sẽ chạy đến như chó con, không phải để giám sát mà chỉ để nói vài lời với tôi, bằng ngôn ngữ chung của chúng tôi. Tôi là điều duy nhất trên hòn đảo xa lạ này cho phép họ xác nhận sự tồn tại của đảo Icahn, là một nơi neo đậu cảm xúc.
Một buổi tối, cậu mang cho tôi giấy, mực và bút chấm, mực là mực than cốc(1) thông thường, loại làm từ vỏ cây và nhựa cây. Tôi nửa đùa nửa thật hỏi Hội đồng Đảo Lớn xem họ có muốn một bản ghi đều đặn như nhật ký không. Cậu phủ nhận và nói rằng nó chỉ để cho tôi có một cách khác để giết thời gian thôi. Tôi có thể viết bất cứ điều gì tôi thích. Nếu tôi viết thơ tự sự thì cậu tin chắc có thể tìm được nhà thơ để sáng tác nhạc cho tôi.
(1) Than cốc là một loại nhiên liệu xám, cứng và xốp có hàm lượng cacbon cao và ít tạp chất, được tạo ra bằng cách nung nóng than mỡ hoặc dầu trong môi trường yếm khí – một quá trình chưng cất phá hủy.
Không có thơ thì tôi không biết phải viết gì. Cuối cùng, tôi đã viết “nhật ký”, một bản tường trình khô khan, sắp xếp những mảnh rời rạc theo trình tự thời gian. Cậu hỏi tôi có thể đưa bản ghi chép này cho hội đồng xem không. Tất nhiên là tôi có thể. Thực ra, tôi viết nó chỉ cho họ thôi. Tôi cố tình dỡ bỏ căn nhà gỗ và không đề cập đến bụi dâu đen mà tôi đã hình dung. Tôi không đề cập đến cả việc em gái tôi và chiếc thuyền tam bản của chúng tôi đã trôi trái phép ra biển khơi.
Khi Hội đồng Đảo Lớn mời tôi “trả lời một hai câu hỏi”, tôi nghĩ họ quan tâm đến hạm đội phương Bắc nên tôi đã cố gắng để nhớ lại số hiệu, hình dáng, cờ hiệu của các con tàu, đồng thời chuẩn bị xin lỗi vì trí nhớ “cực kỳ mơ hồ” của mình bởi “sáng sớm ánh sáng yếu” và bởi tôi “hoảng loạn”. Tuy nhiên, hầu hết các câu hỏi mà các đại biểu đặt ra đều xoay quanh trận động đất. Họ muốn biết “tiếng động lạ” ở đâu và tần suất xuất hiện của nó là bao nhiêu, “Ngoài ra, khi đi ngang qua vành đai núi lửa, các cậu có thấy điều gì bất thường không?”
Vì thế tôi hỏi có phải Đảo Lớn từng trải qua một trận động đất tương tự không?
Tôi nhìn cậu, nhưng người đàn ông bên cạnh cậu đeo dải ruy băng đỏ đã trả lời, có lẽ là một nhà lãnh đạo tôn giáo nào đó, nhưng tôi không biết con diệc xanh trên áo choàng của anh ta tượng trưng cho đức tin nào. Anh ta nói với giọng chậm rãi và thận trọng rằng Đảo Lớn đã xảy ra một trận động đất vào cuối mùa xuân năm ngoái, trong ký ức mà người dân trên đảo có thể truy tìm, trận động đất cuối cùng xảy ra cách đây hơn mười mùa hè và một số ống khói đã bị sập. Ngoài ra không có tổn thất nào khác. Lần này không còn cảm giác như trước nữa, thay vì rung chuyển, nó giống như cộng hưởng hơn, giống như việc đưa tay ra chạm vào đầu trống vừa bị đánh mạnh.
“Giống như một âm thanh rắn chắc.” Tôi xen vào, các đại biểu lẩm bẩm không rõ ràng và gật đầu.
Tôi gần như muốn nói ngay tại chỗ về lời tiên tri và học giả Yumaso, nhưng cuối cùng tôi quyết định tôn trọng truyền thống không nói công khai về đảo đá nhỏ và giữ im lặng. Ngoài ra, tôi không chắc các đại biểu sẽ nghĩ gì về tôi nếu tôi nói: “Tôi có một giấc mơ về một con cá voi yêu cầu tôi hát, vì vậy tôi nghĩ rằng một ngày nào đó rất gần núi lửa có thể sẽ phun trào và tất cả chúng ta sẽ bị nướng chín”.
Hôm đó cậu ra khỏi phòng rất muộn, tôi không biết chính xác là khi nào và tôi cũng không đợi cậu. Khi cậu tìm thấy tôi trên sườn đồi hướng về phía nam, tôi thực sự ngạc nhiên và hỏi cậu làm sao cậu biết tôi ở đâu. Cậu cười rồi nói không biết, vậy nên chỉ có thể tìm kiếm những nơi mà cậu nghĩ tôi sẽ đi, từng nơi một. Cậu đến đầm phá trước đó nhưng không tìm được tôi, sau đó mới đi tới sườn núi này.
Áo choàng của cậu vừa vặn trên nền đất. Viết xong câu này tôi mới nhận ra là đọc không ổn lắm, ý tôi là chiếc áo choàng ngăn cách hoàn toàn với sỏi và cỏ ẩm, đủ rộng để chúng tôi nằm cạnh nhau. Đó là một đêm không quang đãng, không thấy một ngôi sao nào, thỉnh thoảng có gió thổi qua mùi bùn và rong biển thối kỳ lạ, vào một đêm như vậy, ngọn hải đăng ở cảng đáng lẽ phải rất nổi bật, nhưng thực tế ở đó chỉ là những bóng đen chồng lên nhau, với một ngọn lửa nhỏ bập bùng trong đó.
Chúng tôi trò chuyện một lúc về đảo Icahn. Nhìn lại, cuộc tấn công của người phương Bắc đơn giản là không thể tránh khỏi. Sau khi chiếm đảo Icahn, Vua Atukwa ngay lập tức có được một cảng không có sương giá, khí hậu ôn hòa hơn và mặc dù có ít cánh đồng trồng trọt nhưng ông vẫn có thể nuôi sống đội quân đang ngày càng lớn mạnh của mình. Hơn nữa, giờ đây họ đã ở gần Đảo Lớn hơn và đường tiếp tế của họ được rút ngắn. Quan trọng hơn, hạm đội rút lui không còn phải mạo hiểm bão tuyết để quay trở lại với khí hậu khắc nghiệt của đảo mẹ, với cá heo, chúng có thể lao vào vành đai núi lửa và dễ dàng thoát khỏi hạm đội Đảo Lớn đang truy đuổi.
Tôi không hiểu tại sao các linh mục lại không nghĩ đến tất cả những điều này.
“Không phải là mình không nghĩ đến điều đó”, cậu nói: “Nhưng mình không muốn nghĩ như vậy. Nếu họ đi đến kết luận mà cậu vừa đưa ra, điều đó có nghĩa là cần phải xây dựng hệ thống phòng thủ cảng, binh lính cần phải được huấn luyện, tàu chiến cần được chế tạo, và tàu chiến cần được điều động thường xuyên. Người tuần tra vành đai núi lửa, cần cái này, cần cái kia, thời gian, gỗ, ngũ cốc, quặng, con người. Tốt hơn là nên tự nhủ: ‘Không, người phương Bắc sẽ không đến, vì núi lửa rất nguy hiểm, vì chúng ta không ‘khiêu khích’ người phương bắc, và vì chẳng có gì đáng để cướp bóc trên hòn đảo này cả’. Thật đáng tiếc cho Atukwa, sự tồn tại đơn thuần của một hòn đảo trong đại dương cũng đã là một sự khiêu khích với hắn.”
“Giá như chúng ta chuẩn bị sớm hơn vài mùa hè…“
“Rất có thể sẽ không có gì khác biệt. Có lẽ sẽ khiến người phương Bắc mất thêm vài chiếc tàu, nhưng kết quả cuối cùng vẫn như nhau.”
Tôi thở dài: “Ít nhất mình cũng mang theo cá heo.”
“Ít nhất thì cậu cũng mang theo cá heo.” Cậu chạm vào cánh tay tôi. “Mình rất vui vì cậu đã quay lại, mặc dù mình thực sự hy vọng rằng đó không phải là một cuộc chạy trốn. Mình mong cậu sẽ không bao giờ rời đi, tất nhiên trừ khi là cậu muốn quay lại, nghĩa là nếu có thể đuổi được người phương Bắc…”
Khi lo lắng, cậu sẽ nhanh chóng rơi vào hố cát của những điều vô nghĩa, tôi thực lòng mong rằng điều này không xảy ra khi cậu thường phải tham gia vào việc ra quyết định trong hội đồng. Tôi đặt tay lên cánh tay cậu để nói với cậu rằng tôi hiểu ý cậu, và có một điều nữa mà tôi muốn nói với cậu, điều mà tôi đã không nói trong hội đồng vì nó liên quan đến một hòn đảo mà cậu có thể chưa bao giờ nghe nói đến, thêm nữa là một lời tiên tri mà tôi không biết liệu nó có được tính là một lời tiên tri hay không.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook