Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm
-
Chương 14
--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---
Quả thực, tia hi vọng cuối cùng về việc trốn thoát trong khi đi đường thế là đã bị tắt ngấm. Giờ đây, Xtas hiểu rằng, các mưu của em chẳng thể mang lại điều gì nữa, rằng cuộc đuổi theo sẽ không bao giờ đuổi kịp, và dù các em có chịu đựng nổi những khó nhọc trên đường thì cũng sẽ phải đi tới tận chỗ Ma-hơ-đi và sẽ bị nộp vào tay Xmai-nơ. Em chỉ còn một điều an ủi, đó là ý nghĩ rằng các em bị bắt cóc chẳng qua là để đánh đổi lấy những đứa con của gã Xmai-nơ. Nhưng liệu bao giờ chuyện đó sẽ xảy ra và trước đó các em sẽ phải gặp những chuyện gì? Tai ương khủng khiếp nào đang chờ các em giữa các bộ tộc hoang dã đang say máu người? Liệu Nen có chịu đựng nổi tất cả khó nhọc và thiếu thốn ấy? - Điều này không một ai có thể trả lời. Ngược lại, chỉ biết rằng, Ma-hơ-đi và những tín đồ của hắn rất căm thù những người Thiên Chúa giáo nói riêng và người Âu nói chung. Vì vậy, trong lòng cậu bé dậy lên nỗi lo sợ, không hiểu thế lực của gã Xmai-nơ có đủ để bảo vệ cho cả hai tránh khỏi những điều nhục mạ, sự tàn ác và điên dại của các tín đồ của Ma-hơ-đi, những kẻ đã giết hại ngay các tín đồ Hồi giáo trung thành với chính phủ? Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt cóc, Xtas chìm trong một nỗi tuyệt vọng sâu thẳm, đồng thời em ngả theo một suy nghĩ mê tín, cho rằng em bị một thứ hung mệnh nào đó dõi theo ám ảnh. Vì nói cho cùng, ngay cả cái ý đồ bắt cóc các em từ Phai-um rồi mang đến tận Khác-tum cũng đã là một sự điên rồ hoàn toàn, sự điên rồ mà chỉ những kẻ hoang dại và ngu xuẩn như I-đrix và Ghe-bơ-rơ mới dám làm, bởi bọn chúng không hiểu rằng chúng sẽ phải vượt qua hàng nghìn cây số trên chính vùng đất thuộc về chính phủ Ai Cập, hay nói cho đúng hơn là thuộc về người Anh. Nhẽ ra chúng đã bị bắt ngay ngày hôm sau, ấy thế mà mọi sự lại sắp xếp thế nào để đến nỗ i giờ đây chúng đã đến rất gần cá i thác thứ hai mà chẳng có cuộc săn đuổi nào tóm được, còn những kẻ săn đuổi này thì lại nhập bọn với chúng và sẽ là lực lượng hỗ trợ chúng. Cộng thêm vào sự tuyệt vọng và nỗi lo sợ cho số phận của cô bé Nen, là cảm giác nhục nhã, bởi Xtas nghĩ rằng em không thể làm một việc gì để cứu vãn tình thế, và hơn thế nữa, em không còn có thể nghĩ ra được cách gì khác, bởi giá như bây giờ bọn kia có đưa cho em khẩu súng săn và đạn thì em đâu có thể khống chế nổi toàn bộ bọn Ả Rập đang hợp thành đoàn này.
Những ý nghĩ ấy giày vò em nhiều hơn nữa còn bởi lẽ sự giải thoát tưởng đã gần đến thế kia mà! Giá như Khác-tum không bị chiếm, hoặc bị chiếm chậm đi vài ngày, thì chính những người giờ đây chạy sang phía Ma-hơ-đi chắc chắn sẽ tóm bọn kia và nộp chúng vào tay chính phủ rồi. Ngồi trên lưng lạc đà sau lưng I-đrix và lắng nghe những lời trò chuyện của bọn chúng, Xtas tin rằng mọi chuyện đã có thể diễn ra đúng như thế. Bởi vì, ngay sau khi tiếp tục lên đường, viên chỉ huy toán săn đuổi bắt đầu kể cho I-đrix nghe nguyên do nào đã khiến bọn chúng phản bội lại phó vương.
Trước đó, chúng được biết rằng, đại quân không phải là quân Ai Cập nữa mà là quân Anh - đã lên đường xuống miền Nam chống lại bọn phiến loạn, dưới sự thống lĩnh của tướng Vôn-xơ-lây. Bọn chúng trông thấy nhiều tàu thuỷ chở lính Anh hùng hổ từ Át-xu-an tới Va-đi Han-pha. Tại đó, người ta đã xây dựng riêng cho họ một con đường sắt đi tới A-bu Ham-mét. Suốt một thời gian dài, các tù trưởng ven bờ sông - cả những người hãy còn trung thành với chính phủ lẫn những kẻ trong thâm tâm đã ủng hộ Ma-hơ-đi - vẫn tin rằng sự thất bại của những kẻ theo đạo Hồi và đấng tiên tri của chúng là không thể tránh khỏi, bởi chưa hề có kẻ nào chiến thắng nổi người Anh.
- Lạy đức A-la! - I-đrix ngắt lời, đưa hai tay lên trời. - Ấy thế mà bọn chúng đã bị đánh bại.
- Không, - viên toán trưởng đáp lại, - Ma-hơ-đi phái các bộ lạc Za-nô, Bac-ba-ra và Đa-zim đi chống lại người Anh, tổng cộng chừng ba mươi nghìn người lính thiện chiến nhất, do Mu-xa, con trai của He-lu thống lĩnh. Ở gần A-bu Klê-a đã diễn ra một trận đánh khủng khiếp, trong đó Thượng đế cho bọn vô thần chiến thắng.
- Chính vậy, Mu-xa, con trai của He-lu, tử trận, chỉ có một nhúm binh lính của ông ta quay lại với Ma-hơ-đi. Linh hồn của những người khác đã ở trên thiên đàng, còn xác họ nằm trong cát chờ ngày phục sinh. Tin tức về chuyện đó nhanh chóng lan ra khắp vùng sông Nin. Khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng người Anh chắc sẽ tiến xa hơn nữa về phía Nam và giải vây cho Khác-tum. Ai ai cũng nói: “Kết cục! Kết cục rồi!” Trong khi đó, Thượng đế đã an bài cách khác.
- Hả? Sao vậy? - I-đrix hỏi một cách nóng ruột.
- Sao vậy? - Viên chỉ huy nói, mặt rạng ngời. Vì trong lúc đó đức Ma-hơ-đi đã lấy được thành Khác-tum, Goóc-đôn bị chặt đầu trong cuộc tiến công thành. Mà người Anh lại chỉ lo cho Goóc-đôn là chính, nên sau khi biết tin ông ta bị chết, họ bèn quay trở về phương Bắc. Lạy đức A-la! Thế là chúng tôi lại thấy bao nhiêu tàu thuỷ chở những người lính to lớn xuôi dòng sông, song chúng tôi không hiểu điều đó có nghĩa thế nào. Người Anh chỉ loan tin tốt, còn tin xấu thì họ giấu đi. Một số trong chúng tôi bảo rằng đức Ma-hơ-đi đã bị qua đời. Nhưng cuối cùng sự thật cũng ra ánh sáng.
Vùng đất này hiện hãy còn đang thuộc về chính phủ. Tại Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, cho tới cái thác thứ ba, mà cũng có thể cho tới tận thác thứ tư, cũng hãy còn binh lính của phó vương, nhưng giờ đây, khi người Anh đã tháo lui, chúng tôi tin rằng, đức Ma-hơ-đi sẽ đánh chiếm không những chỉ toàn bộ Nu-bi-a và Ai Cập, không những chỉ Mếch-ca và Mê-đi-nét, mà còn đánh chiếm toàn thế giới.
Vì vậy, thay việc bắt các anh và nộp vào tay chính phủ,chúng tôi cùng đi với các anh tới gặp Đấng tiên tri.
- Thế nghĩa là đã có lệnh bắt chúng tôi?
- Lệnh được gửi tới mọi làng, mọi tộc trưởng, mọi đơn vị quân đội. Nơi nào không có sợi dây đồng mang lệnh từ Cai-rô chạy tới thì đã có các cảnh sát tới thông báo rằng hễ ai bắt được các anh sẽ được thưởng ngay một nghìn đồng bảng. Trời ơi! Đó thật là một tài sản lớn!... Lớn lắm!...
I-đrix nghi ngờ nhìn người đang nói.
- Thế nhưng các anh lại lựa chọn ân phước của Đức Ma-hơ-đi?
- Chính thế. Thêm nữa, Người đã thu được biết bao nhiêu tiền bạc và của cải ở Khác-tum, đến nỗi Người phải dùng bao đựng cỏ để đong tiền Ai Cập và chia chúng cho những kẻ trung thành với Người...
- Song nếu như binh lính Ai Cập đang còn có mặt ở Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, thì dọc đường họ có thể bắt chúng tôi.
- Không. Chỉ cần nhanh chân lên một chút, trước khi bọn chúng kịp hoàn hồn. Giờ đây, sau khi người Anh rút đi rồi, đầu óc bọn chúng hoàn toàn bị đảo lộn, cả những tộc trưởng trung thành với chính phủ, lẫn binh lính và cảnh sát. Tất cả đều đang nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa Ma-hơ-đi sẽ tới, nên những người trong số chúng tôi, mà trong thâm tâm vẫn ủng hộ Người, bây giờ công khai chạy đến với Người, chẳng bị ai đuổi theo, vì trong những giây phút ban đầu này chẳng còn ai ra lệnh và cũng chẳng ai biết nghe ai nữa.
- Đúng thế. - I-đrix đáp. - Nhưng ông đã nói đúng rằng phải mau chân lên trước khi bọn chúng kịp định thần, vì từ đây tới Khác-tum hãy còn xa lắm...
Nghe trọn câu chuyện này, trong đầu Xtas lại bừng lên một tia hi vọng mỏng manh. Nếu như binh lính Ai Cập cho đến nay vẫn còn đang chiếm giữ nhiều địa điểm khác nhau dọc sông Nin ở Nu-bi-a, thì họ phải rút theo đường bộ trước sự tấn công của các bộ lạc của Ma-hơ-đi, vì tất cả các tàu thuỷ đã bị người Anh sử dụng hết. Như vậy, biết đâu đoàn này chẳng chạm trán với một trong số các đơn vị đang rút lui đó, và có thể sẽ bị bao vây. Xtas cũng tính rằng, trước khi tin tức về việc chiếm Khác-tum lan ra khắp các bộ lạc Ả Rập cư trú ở vùng phía Bắc Va-đi Han-pha, thì chắc hẳn phải có mất nhiều thời gian, nhất là khi chính phủ Ai Cập và người Anh giấu tin này. Do vậy, Xtas cho rằng, sự rệu rã chế ngự những người Ai Cập trong phút đầu đã qua. Cậu bé ít kinh nghiệm còn chưa hiểu rằng, dù sao đi nữa, việc mọi người phải quên đi tất cả mọi chuyện, và các vị tù trưởng trung thành với chính phủ - đồng thời cũng là chính quyền địa phương hiện tại của Ai Cập - hẳn là đang có bao nhiêu việc khác phải làm hơn là nghĩ đến việc cứu hai đứa bé da trắng.
Quả thực, những người Ai Cập nhập vào đoàn rất ít lo sợ bị đuổi theo. Họ có đi vội thật và không tiếc sức lạc đà, song họ đi ở khoảng cách rất gần sông Nin và đêm đêm thường rẽ ra sông để cho súc vật uống nước và lấy nước vào cái túi da. Đôi khi,ngay cả ban ngày, họ dám đi vào các làng mạc. Để bảo đảm an toàn, bao giờ họ cũng phái vài người đi thám thính trước, dưới dạng những người đi mua lương thực, xem xét tình hình trong vùng lân cận và nghe ngóng xem ở đấy có binh lính Ai Cập hay không, cũng như liệu các cư dân trong vùng có thuộc về những kẻ trung thành với bọn “Thổ” hay không. Nếu như tìm được đúng những người dân bí mật ủng hộ Ma-hơ-đi, thì cả đoàn sẽ vào làng, và thường thường, khi ra đi, đoàn người lại được tặng thêm vài hay mươi người Ả Rập trẻ tuổi muốn trốn đến với Ma-hơ-đi.
I-đrix cũng được biết rằng, gần như tất cả các đơn vị Ai Cập đều ở bên bờ phía sa mạc Nu-bi-a nghĩa là phía tả ngạn, phía bờ sông Nin. Để tránh đụng độ với họ, chỉ cần đi theo bờ hữu ngạn và tránh những thị trấn cùng những điểm cư dân tương đối lớn.
Tuy chuyện đó có khiến cho đường đi xa hơn nhiều, vì từ Va-đi Han-pha trở đi, dòng sông tạo thành một vòng cung quành rất xa xuống phía nam, rồi sau đó lại ngoằn về hướng Đông Bắc cho tới tận A-bu Ham-mét, nơi nó chảy thẳng về hướng Nam, nhưng bờ hữu ngạn, nhất là từ ốc đảo Xê-lim trở đi, gần như hoàn toàn không bị cảnh giới, mà đối với những người Xu-đan, đường đi giữa đám đông bè bạn, nước nhiều, lương ăn sẵn, trở nên vui vẻ hơn nhiều.
Sau khi vượt qua cái thác thứ ba, bọn chúng thôi không còn phải vội vã nữa, chúng đêm đi, ngày nghỉ, ẩn náu giữa các gò cát và khe núi chia cắt sa mạc. Lúc này, trên đầu chúng là bầu trời không một gợn mây, ở đường chân trời ngả màu xám, còn ở giữa cong lên như một cái vòm khổng lồ, tĩnh mịch và thanh bình. Tuy nhiên, càng ngày cái nóng nực càng gay gắt hơn, khi chúng đi dần về phía Nam, thậm chí trong các khe núi, trong bóng râm, cái nóng vẫn hành hạ người và vật. Trái lại, đêm thường rất lạnh, đầy những vì sao lấp lánh, được phân chia thành những chòm lớn chòm nhỏ.
Xtas để ý thấy rằng đó đã không còn là những chòm sao đêm đêm vẫn soi sáng ở Port Xai-đơ nữa. Nhiều khi em từng mơ tưởng rằng, một khi nào đó trong đời sẽ được trông thấy chòm sao Thập Tự Nam. Và thế là em đã được thấy chòm sao này sau khi vượt qua En Oóc-đe. Nhưng giờ đây, ánh sáng của chòm sao này chỉ báo trước cho em những tai ương bất hạnh mà thôi. Và từ vài ngày nay, cứ đêm đêm, đoàn người lại thấy cái ánh sáng bàng bạc, tản mạn và buồn tẻ của hoàng đạo, kéo dài từ khi mặt trời lặn cho đến những giờ khuya, dát bạc vùng trời phía Đông.
Quả thực, tia hi vọng cuối cùng về việc trốn thoát trong khi đi đường thế là đã bị tắt ngấm. Giờ đây, Xtas hiểu rằng, các mưu của em chẳng thể mang lại điều gì nữa, rằng cuộc đuổi theo sẽ không bao giờ đuổi kịp, và dù các em có chịu đựng nổi những khó nhọc trên đường thì cũng sẽ phải đi tới tận chỗ Ma-hơ-đi và sẽ bị nộp vào tay Xmai-nơ. Em chỉ còn một điều an ủi, đó là ý nghĩ rằng các em bị bắt cóc chẳng qua là để đánh đổi lấy những đứa con của gã Xmai-nơ. Nhưng liệu bao giờ chuyện đó sẽ xảy ra và trước đó các em sẽ phải gặp những chuyện gì? Tai ương khủng khiếp nào đang chờ các em giữa các bộ tộc hoang dã đang say máu người? Liệu Nen có chịu đựng nổi tất cả khó nhọc và thiếu thốn ấy? - Điều này không một ai có thể trả lời. Ngược lại, chỉ biết rằng, Ma-hơ-đi và những tín đồ của hắn rất căm thù những người Thiên Chúa giáo nói riêng và người Âu nói chung. Vì vậy, trong lòng cậu bé dậy lên nỗi lo sợ, không hiểu thế lực của gã Xmai-nơ có đủ để bảo vệ cho cả hai tránh khỏi những điều nhục mạ, sự tàn ác và điên dại của các tín đồ của Ma-hơ-đi, những kẻ đã giết hại ngay các tín đồ Hồi giáo trung thành với chính phủ? Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt cóc, Xtas chìm trong một nỗi tuyệt vọng sâu thẳm, đồng thời em ngả theo một suy nghĩ mê tín, cho rằng em bị một thứ hung mệnh nào đó dõi theo ám ảnh. Vì nói cho cùng, ngay cả cái ý đồ bắt cóc các em từ Phai-um rồi mang đến tận Khác-tum cũng đã là một sự điên rồ hoàn toàn, sự điên rồ mà chỉ những kẻ hoang dại và ngu xuẩn như I-đrix và Ghe-bơ-rơ mới dám làm, bởi bọn chúng không hiểu rằng chúng sẽ phải vượt qua hàng nghìn cây số trên chính vùng đất thuộc về chính phủ Ai Cập, hay nói cho đúng hơn là thuộc về người Anh. Nhẽ ra chúng đã bị bắt ngay ngày hôm sau, ấy thế mà mọi sự lại sắp xếp thế nào để đến nỗ i giờ đây chúng đã đến rất gần cá i thác thứ hai mà chẳng có cuộc săn đuổi nào tóm được, còn những kẻ săn đuổi này thì lại nhập bọn với chúng và sẽ là lực lượng hỗ trợ chúng. Cộng thêm vào sự tuyệt vọng và nỗi lo sợ cho số phận của cô bé Nen, là cảm giác nhục nhã, bởi Xtas nghĩ rằng em không thể làm một việc gì để cứu vãn tình thế, và hơn thế nữa, em không còn có thể nghĩ ra được cách gì khác, bởi giá như bây giờ bọn kia có đưa cho em khẩu súng săn và đạn thì em đâu có thể khống chế nổi toàn bộ bọn Ả Rập đang hợp thành đoàn này.
Những ý nghĩ ấy giày vò em nhiều hơn nữa còn bởi lẽ sự giải thoát tưởng đã gần đến thế kia mà! Giá như Khác-tum không bị chiếm, hoặc bị chiếm chậm đi vài ngày, thì chính những người giờ đây chạy sang phía Ma-hơ-đi chắc chắn sẽ tóm bọn kia và nộp chúng vào tay chính phủ rồi. Ngồi trên lưng lạc đà sau lưng I-đrix và lắng nghe những lời trò chuyện của bọn chúng, Xtas tin rằng mọi chuyện đã có thể diễn ra đúng như thế. Bởi vì, ngay sau khi tiếp tục lên đường, viên chỉ huy toán săn đuổi bắt đầu kể cho I-đrix nghe nguyên do nào đã khiến bọn chúng phản bội lại phó vương.
Trước đó, chúng được biết rằng, đại quân không phải là quân Ai Cập nữa mà là quân Anh - đã lên đường xuống miền Nam chống lại bọn phiến loạn, dưới sự thống lĩnh của tướng Vôn-xơ-lây. Bọn chúng trông thấy nhiều tàu thuỷ chở lính Anh hùng hổ từ Át-xu-an tới Va-đi Han-pha. Tại đó, người ta đã xây dựng riêng cho họ một con đường sắt đi tới A-bu Ham-mét. Suốt một thời gian dài, các tù trưởng ven bờ sông - cả những người hãy còn trung thành với chính phủ lẫn những kẻ trong thâm tâm đã ủng hộ Ma-hơ-đi - vẫn tin rằng sự thất bại của những kẻ theo đạo Hồi và đấng tiên tri của chúng là không thể tránh khỏi, bởi chưa hề có kẻ nào chiến thắng nổi người Anh.
- Lạy đức A-la! - I-đrix ngắt lời, đưa hai tay lên trời. - Ấy thế mà bọn chúng đã bị đánh bại.
- Không, - viên toán trưởng đáp lại, - Ma-hơ-đi phái các bộ lạc Za-nô, Bac-ba-ra và Đa-zim đi chống lại người Anh, tổng cộng chừng ba mươi nghìn người lính thiện chiến nhất, do Mu-xa, con trai của He-lu thống lĩnh. Ở gần A-bu Klê-a đã diễn ra một trận đánh khủng khiếp, trong đó Thượng đế cho bọn vô thần chiến thắng.
- Chính vậy, Mu-xa, con trai của He-lu, tử trận, chỉ có một nhúm binh lính của ông ta quay lại với Ma-hơ-đi. Linh hồn của những người khác đã ở trên thiên đàng, còn xác họ nằm trong cát chờ ngày phục sinh. Tin tức về chuyện đó nhanh chóng lan ra khắp vùng sông Nin. Khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng người Anh chắc sẽ tiến xa hơn nữa về phía Nam và giải vây cho Khác-tum. Ai ai cũng nói: “Kết cục! Kết cục rồi!” Trong khi đó, Thượng đế đã an bài cách khác.
- Hả? Sao vậy? - I-đrix hỏi một cách nóng ruột.
- Sao vậy? - Viên chỉ huy nói, mặt rạng ngời. Vì trong lúc đó đức Ma-hơ-đi đã lấy được thành Khác-tum, Goóc-đôn bị chặt đầu trong cuộc tiến công thành. Mà người Anh lại chỉ lo cho Goóc-đôn là chính, nên sau khi biết tin ông ta bị chết, họ bèn quay trở về phương Bắc. Lạy đức A-la! Thế là chúng tôi lại thấy bao nhiêu tàu thuỷ chở những người lính to lớn xuôi dòng sông, song chúng tôi không hiểu điều đó có nghĩa thế nào. Người Anh chỉ loan tin tốt, còn tin xấu thì họ giấu đi. Một số trong chúng tôi bảo rằng đức Ma-hơ-đi đã bị qua đời. Nhưng cuối cùng sự thật cũng ra ánh sáng.
Vùng đất này hiện hãy còn đang thuộc về chính phủ. Tại Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, cho tới cái thác thứ ba, mà cũng có thể cho tới tận thác thứ tư, cũng hãy còn binh lính của phó vương, nhưng giờ đây, khi người Anh đã tháo lui, chúng tôi tin rằng, đức Ma-hơ-đi sẽ đánh chiếm không những chỉ toàn bộ Nu-bi-a và Ai Cập, không những chỉ Mếch-ca và Mê-đi-nét, mà còn đánh chiếm toàn thế giới.
Vì vậy, thay việc bắt các anh và nộp vào tay chính phủ,chúng tôi cùng đi với các anh tới gặp Đấng tiên tri.
- Thế nghĩa là đã có lệnh bắt chúng tôi?
- Lệnh được gửi tới mọi làng, mọi tộc trưởng, mọi đơn vị quân đội. Nơi nào không có sợi dây đồng mang lệnh từ Cai-rô chạy tới thì đã có các cảnh sát tới thông báo rằng hễ ai bắt được các anh sẽ được thưởng ngay một nghìn đồng bảng. Trời ơi! Đó thật là một tài sản lớn!... Lớn lắm!...
I-đrix nghi ngờ nhìn người đang nói.
- Thế nhưng các anh lại lựa chọn ân phước của Đức Ma-hơ-đi?
- Chính thế. Thêm nữa, Người đã thu được biết bao nhiêu tiền bạc và của cải ở Khác-tum, đến nỗi Người phải dùng bao đựng cỏ để đong tiền Ai Cập và chia chúng cho những kẻ trung thành với Người...
- Song nếu như binh lính Ai Cập đang còn có mặt ở Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, thì dọc đường họ có thể bắt chúng tôi.
- Không. Chỉ cần nhanh chân lên một chút, trước khi bọn chúng kịp hoàn hồn. Giờ đây, sau khi người Anh rút đi rồi, đầu óc bọn chúng hoàn toàn bị đảo lộn, cả những tộc trưởng trung thành với chính phủ, lẫn binh lính và cảnh sát. Tất cả đều đang nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa Ma-hơ-đi sẽ tới, nên những người trong số chúng tôi, mà trong thâm tâm vẫn ủng hộ Người, bây giờ công khai chạy đến với Người, chẳng bị ai đuổi theo, vì trong những giây phút ban đầu này chẳng còn ai ra lệnh và cũng chẳng ai biết nghe ai nữa.
- Đúng thế. - I-đrix đáp. - Nhưng ông đã nói đúng rằng phải mau chân lên trước khi bọn chúng kịp định thần, vì từ đây tới Khác-tum hãy còn xa lắm...
Nghe trọn câu chuyện này, trong đầu Xtas lại bừng lên một tia hi vọng mỏng manh. Nếu như binh lính Ai Cập cho đến nay vẫn còn đang chiếm giữ nhiều địa điểm khác nhau dọc sông Nin ở Nu-bi-a, thì họ phải rút theo đường bộ trước sự tấn công của các bộ lạc của Ma-hơ-đi, vì tất cả các tàu thuỷ đã bị người Anh sử dụng hết. Như vậy, biết đâu đoàn này chẳng chạm trán với một trong số các đơn vị đang rút lui đó, và có thể sẽ bị bao vây. Xtas cũng tính rằng, trước khi tin tức về việc chiếm Khác-tum lan ra khắp các bộ lạc Ả Rập cư trú ở vùng phía Bắc Va-đi Han-pha, thì chắc hẳn phải có mất nhiều thời gian, nhất là khi chính phủ Ai Cập và người Anh giấu tin này. Do vậy, Xtas cho rằng, sự rệu rã chế ngự những người Ai Cập trong phút đầu đã qua. Cậu bé ít kinh nghiệm còn chưa hiểu rằng, dù sao đi nữa, việc mọi người phải quên đi tất cả mọi chuyện, và các vị tù trưởng trung thành với chính phủ - đồng thời cũng là chính quyền địa phương hiện tại của Ai Cập - hẳn là đang có bao nhiêu việc khác phải làm hơn là nghĩ đến việc cứu hai đứa bé da trắng.
Quả thực, những người Ai Cập nhập vào đoàn rất ít lo sợ bị đuổi theo. Họ có đi vội thật và không tiếc sức lạc đà, song họ đi ở khoảng cách rất gần sông Nin và đêm đêm thường rẽ ra sông để cho súc vật uống nước và lấy nước vào cái túi da. Đôi khi,ngay cả ban ngày, họ dám đi vào các làng mạc. Để bảo đảm an toàn, bao giờ họ cũng phái vài người đi thám thính trước, dưới dạng những người đi mua lương thực, xem xét tình hình trong vùng lân cận và nghe ngóng xem ở đấy có binh lính Ai Cập hay không, cũng như liệu các cư dân trong vùng có thuộc về những kẻ trung thành với bọn “Thổ” hay không. Nếu như tìm được đúng những người dân bí mật ủng hộ Ma-hơ-đi, thì cả đoàn sẽ vào làng, và thường thường, khi ra đi, đoàn người lại được tặng thêm vài hay mươi người Ả Rập trẻ tuổi muốn trốn đến với Ma-hơ-đi.
I-đrix cũng được biết rằng, gần như tất cả các đơn vị Ai Cập đều ở bên bờ phía sa mạc Nu-bi-a nghĩa là phía tả ngạn, phía bờ sông Nin. Để tránh đụng độ với họ, chỉ cần đi theo bờ hữu ngạn và tránh những thị trấn cùng những điểm cư dân tương đối lớn.
Tuy chuyện đó có khiến cho đường đi xa hơn nhiều, vì từ Va-đi Han-pha trở đi, dòng sông tạo thành một vòng cung quành rất xa xuống phía nam, rồi sau đó lại ngoằn về hướng Đông Bắc cho tới tận A-bu Ham-mét, nơi nó chảy thẳng về hướng Nam, nhưng bờ hữu ngạn, nhất là từ ốc đảo Xê-lim trở đi, gần như hoàn toàn không bị cảnh giới, mà đối với những người Xu-đan, đường đi giữa đám đông bè bạn, nước nhiều, lương ăn sẵn, trở nên vui vẻ hơn nhiều.
Sau khi vượt qua cái thác thứ ba, bọn chúng thôi không còn phải vội vã nữa, chúng đêm đi, ngày nghỉ, ẩn náu giữa các gò cát và khe núi chia cắt sa mạc. Lúc này, trên đầu chúng là bầu trời không một gợn mây, ở đường chân trời ngả màu xám, còn ở giữa cong lên như một cái vòm khổng lồ, tĩnh mịch và thanh bình. Tuy nhiên, càng ngày cái nóng nực càng gay gắt hơn, khi chúng đi dần về phía Nam, thậm chí trong các khe núi, trong bóng râm, cái nóng vẫn hành hạ người và vật. Trái lại, đêm thường rất lạnh, đầy những vì sao lấp lánh, được phân chia thành những chòm lớn chòm nhỏ.
Xtas để ý thấy rằng đó đã không còn là những chòm sao đêm đêm vẫn soi sáng ở Port Xai-đơ nữa. Nhiều khi em từng mơ tưởng rằng, một khi nào đó trong đời sẽ được trông thấy chòm sao Thập Tự Nam. Và thế là em đã được thấy chòm sao này sau khi vượt qua En Oóc-đe. Nhưng giờ đây, ánh sáng của chòm sao này chỉ báo trước cho em những tai ương bất hạnh mà thôi. Và từ vài ngày nay, cứ đêm đêm, đoàn người lại thấy cái ánh sáng bàng bạc, tản mạn và buồn tẻ của hoàng đạo, kéo dài từ khi mặt trời lặn cho đến những giờ khuya, dát bạc vùng trời phía Đông.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook