Trâm 2: Kẻ Yểu Mệnh
Chương 23: Sống động như thật

Gác Thê Vân trống không, mọi thứ của công chúa đều đã bị niêm phong cất đi, chỉ để lại chiếc giường và hộc tủ khóa chặt.

Đặng Xuân Mẫn, hoạn quan thân cận bên cạnh công chúa dẫn họ vào. Lý Thư Bạch đi đến trước chiếc tủ đầu giường công chúa, bảo họ Đặng mở ra.

Bên trong đầy những món đồ chơi nho nhỏ, nào là nước tường vi, cầu xông hương, hộp gỗ đàn v.v… hằng ngày nhờ đám thị nữ vẫn dọn dẹp luôn luôn, nên tuy nhiều thứ xong không hề lộn xộn, món nào món nấy được đặt ngay ngắn, chỉ là góc phải bỏ trống một chỗ bằng nắm tay.

Vừa đủ cho một con chó sứ.

Thấy họ không tìm thấy thứ muốn tìm, Đặng Xuân Mẫn gợi ý: “Một số đồ dùng đã được gói đưa đến nhà kho rồi, để nô tài dẫn vương gia đi xem.”

Nhà kho nơi trâm Cửu loan biến mất vẫn đóng chặt cửa, toát lên vẻ lạnh lẽo, cách biệt với bên ngoài.

Từng hàng giá và kệ để đồ xếp đầy những hộp và rương, có thứ còn bọc vải kín mít, nhìn từ xa thấp thoáng như một bóng đen kỳ quái ngồi vắt vẻo trên giá.

“Hai chiếc rương này là những đồ dùng thường dùng của công chúa, đều đặt ở đây.” Đặng Xuân Mẫn lại rút chìa khóa mở hai rương ra.

Hoàng Tử Hà đang nhấc nắp rương lên, chợt trầm ngâm dừng lại.

Lý Thư Bạch hỏi: “Sao thế?”

Cô vỗ nhẹ vào nắp rương, ngước nhìn y: “Vương gia nghĩ tới việc gì?”

Lý Thư Bạch nhìn cánh tay cô gác lên nắp rương, nhíu mày đáp: “Ý ngươi muốn nói đến chuyện trâm Cửu loan đột nhiên biến mất ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi lập tức bắt tay vào tra xét những chiếc rương xung quanh, phát hiện rương ở ngăn dưới cùng đều đặt trực tiếp trên nền gạch xanh, duy có chiếc rương từng cất trâm Cửu loan, hiện đang bỏ trống cạnh đó là được lót mấy tấm vải dưới đáy, để tránh bị chấn động.

Lý Thư Bạch nhìn qua một lượt rồi gật đầu: “Mở ra xem đi, nếu không thấy chó sứ thì có thể khẳng định đấy.”

Ở bên nhau lâu ngày, hai người cũng có một sự ăn ý ngầm, không cần phải nhiều lời. Hoàng Tử Hà liền mở hai chiếc rương ra lục tìm, quả nhiên không có chó sứ.

Cả hai bèn đứng dậy rời khỏi nhà kho, quay về gác Thê Vân, trầm ngâm nhìn chỗ trống trong ngăn tủ đầu giường công chúa.

“Vừa đủ chỗ cho một con chó sứ, phải không?” Hoàng Tử Hà ước lượng.

Lý Thư Bạch gật đầu nhìn quanh: “Muốn làm nó biến mất cũng dễ thôi…”

Hai người không hẹn mà cùng bước đến bên xong nhìn xuống dưới.

Hợp hoan vẫn nở rộ bên dưới, từng đóa hoa mượt mà như lông tơ, phủ đầy mặt đất.

“Đi thôi.”

Cả hai men theo thềm đá mà xuống, rồi đi lòng vòng tìm kiếm quanh khu vực thẳng dưới cửa sổ gác Thê Vân, quả nhiên phát hiện một đám hoa tàn lá rụng vun đầy dưới gốc hợp hoan, nếu không để ý còn ngỡ là tình cờ bị gió thổi gom lại một chỗ.

Hoàng Tử Hà nhặt một cành cây gạt lớp hoa lá bên trên, thấy phía dưới là một đống mảnh sứ.

Quỳ vương mắc bệnh sạch sẽ chỉ khoanh tay đứng bên nhìn.

Hoàng Tử Hà thận trọng nhặt những mảnh sứ ra, đếm được cả thảy hai mươi tám mảnh lớn nhỏ. Cô bỏ vào khăn tay gói lại, đút trong tay áo.

Ngồi xe quay về, trông sắc trời đã sắp đến giờ Ngọ, Lý Thư Bạch đột nhiên bảo: “Qua rủ cả Tử Tần tới Chuế Cẩm Lâu ăn cơm đi.”

Hoàng Tử Hà vội bảo bác đánh xe A Viễn: “Đến phủ Chu thị lang nhé.”

Lý Thư Bạch lại trỏ hộc tủ bên dưới: “Cái đầu lâu vẫn ở đó à?”

Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Không trả cho Tử Tần được, nếu để cậu ấy khôi phục lại nó hoàn toàn, sẽ phát hiện ra người chết rất giống Vương hoàng hậu. Nhưng nếu không trả hoàng hậu, thì phải để đâu đây…”

Lý Thư Bạch lạnh lùng lườm cô: “Mua dây buộc mình.”

Cô cúi gắm mặt không dám nhìn y, nem nép gật đầu nhận lỗi: “Nô tài biết sai rồi, là tại nô tài lo bò trắng răng, mua dây buộc mình, gia bảo nên giải quyết thế nào đây?”

“Ra ngoại ô tìm một khoảnh đất trống mà chôn đi.”

“…” Hoàng Tử Hà câm nín ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe thấy y nói.

Rèm cửa lắc lư theo nhịp bánh xe, thấy đã đến nhà Chu Tử Tần, cô bèn nhảy phắt xuống, chạy tới gọi cửa: “Du thúc, tiểu thiếu gia hôm nay có nhà không?”

“Dương công công đấy à! Trùng hợp quá, hôm nay tiểu thiếu gia vừa ra đến cửa thì dừng lại nghĩ ngợi rồi quay trở về phòng, nói rằng sợ công công đến không gặp được mình!”

“Ồ, vậy phiền Du thúc báo một tiếng với tiểu thiếu gia, bảo rằng vương gia đợi cậu ấy đi ăn cùng.”

“Hả? Được rồi, đi ngay đây!” Người gác cổng chạy vội vào nhà như một làn khói.

Hoàng Tử Hà đứng đợi dưới gốc thủy lạp ngoài cửa, muôn ngàn đóa hoa nhỏ xinh nở rợp trên đầu, tỏa hương ngây ngất, đè trĩu cả cành. Cô vươn tay toan vít một cành xuống thì nhận ra ngay cả đóa hoa ở thấp nhất mình cũng không với tới, chỉ có thể đứng bên dưới lặng lẽ ngắm nhìn.

Chợt phía sau có người vươn tay ra, bẻ cành hoa Hoàng Tử Hà vừa cố với tới, đưa cho cô.

Ngỡ ngàng ngoảnh lại, Hoàng Tử Hà trông thấy Vương Uẩn đang cầm cành hoa nở rộ, mỉm cười đứng sau lưng mình tự lúc nào. Y đăm đăm nhìn cô nói khẽ: “Vừa rồi đi trên phố trông thấy xe ngựa phủ Quỳ chạy qua, lại thấy cô nhảy xuống bèn tới chào một tiếng.”

Thấy cành hoa vẫn chìa ra trước mặt mình, tỏa hương ngan ngát khiến người ta say đắm, Hoàng Tử Hà bất giác nhận lấy: “Đô úy đã chính thức nhậm chức ở Tả Kim Ngô Vệ rồi ư?”

“Ừm, hôm nay là ngày đầu tiên. Kinh thành lớn như thế, hôm nay lần đầu tiên đi tuần lại gặp ngay cô, đúng là duyên phận.” Y ung dung mỉm cười: “Ta cứ tưởng buổi tối cô hay ra ngoài tra án hơn.”

“Thì đúng mà, buổi tối tôi vẫn hay ra ngoài, giờ đô úy đi rồi, hy vọng các huynh đệ ở Kinh thành phòng vệ ty cũng nương tay cho tôi được nhờ.”

“Chuyện đó đương nhiên.” Y cười nói, đoạn quay sang chào Lý Thư Bạch qua cửa sổ xe: “Tham kiến vương gia.”

Lý Thư Bạch gật đầu chào, lại hỏi: “Ở Tả Kim Ngô Vệ có ổn không?”

“Cũng ổn, như phòng vệ ty thôi.” Y thản nhiên cười đáp.

Hoàng Tử Hà nắm chặt cành hoa thủy lạp trong tay, chợt thấy hổ thẹn trong lòng. Vương Uẩn ở Kinh thành phòng vệ ty đang như mặt trời chính Ngọ, giờ bị điều đến Tả Kim Ngô Vệ, bó chân bó cẳng, chính là vì cô vạch trần thân phận Vương hoàng hậu, hoàng đế mới chớp lấy thời cơ kiềm chế nhà họ Vương.

Nghĩ vậy, cô bèn nhét cành hoa vào tay áo, bảo Vương Uẩn: “Đô úy đợi cho một lát,” rồi lên xe xách một chiếc túi ra, đặt vào tay Vương Uẩn: “Cái này… nếu có cơ hội, đô úy xem có thể giao lại cho Tiểu Thi không.”

Vương Uẩn vừa cầm lấy đã đoán được ngay thứ bên trong, liếc qua chiếc đầu thật nhanh rồi vắt túi lên lưng ngựa, hỏi: “Tìm được ở đâu thế?”

“Đừng hỏi, dù sao… tôi nghĩ tốt xấu gì cũng nên được toàn thây.” Cô nói nhỏ.

“Ừm, thực ra ta hết sức hối hận. Cái chết của cô ấy, ta không khỏi liên quan.” Vương Uẩn chăm chú nhìn gương mặt cúi gằm của cô, lâu sau mới hạ giọng: “Cảm ơn.”

“Cảm ơn gì thế?” Thình lình một người từ đằng sau nhảy ra hỏi.

Kẻ xuất quỷ nhập thần thế này, đương nhiên là Chu Tử Tần. Hôm nay gã vận một bộ đồ màu hồng tím phối với vàng ươm, trông vẫn xốn mắt như thường.

Một tay đặt lên tay Vương Uẩn, tay kia khoác vai Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần tươi cười: “Nào nào, kể cho tôi nghe chuyện ân oán giữa hai vị đi.”

Hoàng Tử Hà tức thì gạt tay gã, cùng lúc ấy Vương Uẩn cũng kéo cánh tay Chu Tử Tần đang khoác vai Hoàng Tử Hà ra, hai người phối hợp hết sức ăn ý, khiến Lý Thư Bạch từ cửa sổ xe nhìn ra cũng phải nhướng mày, ánh mắt đầy phức tạp.

“Vương đô úy tặng tôi một cành hoa, tôi cũng tặng lại chút quà.”

Lý Thư Bạch thì nói: “Uẩn Chi cũng đừng về nha môn nữa, cùng đến Chuế Cẩm Lâu đi.” Uẩn Chi là tên tự của Vương Uẩn.

Thế là Chu Tử Tần lên xe, còn Vương Uẩn cưỡi ngựa theo sau, mấy người cùng kéo đến Chuế Cẩm Lâu.

“Sùng Cổ, công công vừa tặng lại cái gì đấy? Có qua có lại mới toại lòng nhau, Vương huynh tặng hoa, chắc công công cũng phải tặng lại thứ gì đó phong nhã chứ?” Dọc đường Chu Tử Tần cứ luôn miệng căn vặn.

Hoàng Tử Hà không muốn nói, quà đáp lễ phong nhã của mình chính là chiếc đầu lâu lấy từ chỗ gã.

Gặng hỏi mãi không được, Chu Tử Tần rầu rĩ bĩu môi ngồi dựa vào vách xe, nhìn chằm chằm cành hoa trên tay cô: “Đúng là, hoa này bẻ ngay ngoài cửa nhà ta chứ gì? Thế đâu tính là quà, rõ là mượn hoa dâng Phật!”

Lý Thư Bạch dõi mắt nhìn ra phố phường bên ngoài, vặn lại: “Ngươi có nghĩ Dương Sùng Cổ cũng mượn hoa dâng Phật không?”

Chu Tử Tần vẫn hồn nhiên không hề biết mình bị “mượn hoa” đến hai lần, nghe thấy câu này thì háo hức hỏi: “Lẽ nào quà đáp lễ của Sùng Cổ lấy từ chỗ vương gia? Hai người này đúng là keo kiệt, tặng qua tặng lại, toàn bòn của từ người khác.”

Tiếc rằng kế khích tướng này vô dụng, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đã quá rõ tính tình gã, đều quay đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe.

Chu công tử phải chịu ấm ức suốt dọc đường đi, tới Chuế Cẩm Lâu chọn một loạt món ăn vẫn không vui lên được, trong lúc đợi món bèn nằm bò ra bàn, trông tội nghiệp như một chú chó con bị bỏ rơi.

Hoàng Tử Hà chẳng buồn dỗ dành gã, mà gọi tiểu nhị múc cho một chậu nước, lại xin ít keo bong bóng cá và bột gạo, trộn lẫn vào nhau thành một hỗn hợp sền sệt dinh dính.

Chu Tử Tần nằm bò ra bàn nhìn cô, uể oải hỏi: “Sùng Cổ làm gì thế?”

Hoàng Tử Hà lấy gói mảnh sứ trong tay áo ra, đổ vào chậu nước rửa từng mảnh một. Vương Uẩn liền đứng dậy phụ giúp: “Cẩn thận kẻo bị cứa vào tay.”

Lý Thư Bạch chỉ ở bên cạnh thờ ơ quan sát, không giúp, cũng chẳng nói năng gì.

Chu Tử Tần thấy vậy thì hào hứng hẳn, nhặt ngay một mảnh cọ sạch rồi giơ lên ngắm nghía: “Cái gì đây?”

“Mảnh sứ vỡ tìm được trong phủ công chúa, công tử đoán xem là gì?” Hoàng Tử Hà rửa sạch từng mảnh đặt lên bàn.

Mảnh Chu Tử Tần đang cầm là pần tai chó, gã ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Hình như là một món đồ chơi bằng sứ… Mèo hay chó gì đó.”

“Hẳn là một con chó.” Cô đáp.

Thấy Hoàng Tử Hà lầm lượt ghép những mảnh sứ vỡ lại, Chu Tử Tần cũng quên cả giận dỗi, thoăn thoắt giúp cô tìm từng mảnh.

Vừa ghép lại hoàn chỉnh thì tiểu nhị cũng bắt đầu bưng thức ăn lên.

Đợi ba người ăn xong, keo dán cũng khô lại, con chó được dính chắc. Chu Tử Tần cầm trong tay săm soi rồi quả quyết: “Muốn mua được thứ này hẵng còn khó đấy.”

Vương Uẩn cầm lên xem rồi hỏi: “Chẳng phải một con chó sứ bình thường thôi sao? Hồi nhỏ hình như ta cũng từng chơi, có gì mà khó mua?”

“Vương gia lớn lên trong cung thì thôi, còn Sùng Cổ, hồi nhỏ có chơi thứ này không?” Chu Tử Tần hỏi.

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi cũng có ấn tượng láng máng, chắc hồi nhỏ từng thấy rồi.”

“Đúng thế, mười năm trước, khi chúng ta còn nhỏ thì loại chó sứ này rất phổ biến, nhưng mấy năm nay lại ít thấy, con mấy ông anh ta đều không có. Hơn nữa loại đồ sứ này động một cái là bị bọn trẻ làm vỡ, ta dám đảm bảo, thứ này đã thành hàng hiếm rồi.”

“Con chó sứ này á?” Có đầy! Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”

Ông chủ tiệm đồ chơi ở chợ Tây vừa mở miệng đã giáng cho Chu công tử một đòn như búa bổ.

Có điều da mặt gã cũng không phải dày vừa, chỉ một chốc đã gạt phăng chuyện này đi, hăm hở theo ông chủ vào kho, khiêng ra một rương chó sứ.

Ông chủ mở rương ra, bên trong là hàng dãy chó sứ xếp ngay ngắn thành ba lớp, phải đến bảy tám chục con. Lớp trên cùng thiếu mất mấy con, thành ra bị khuyết.

Hoàng Tử Hà ngồi xuống ngắm nghía, phát hiện đám chó trong hộp bám đầy bụi, chỉ riêng một con ở lớp thứ hai là sạch sẽ. Cô bèn nhặt lấy đặt lên lòng bàn tay săm soi rồi hỏi: “Ông chủ, rương hàng cũ này cũng mười năm rồi, sao ông không bỏ đi, lẽ nào vẫn còn người mua?”

“Đúng thế, rương chó sứ này nhập từ Giang Nam mười năm trước, bấy giờ rất phổ biến trong kinh. Tiếc rằng về sau dần dần lỗi thời, lò gốm chế ra chúng cũng đóng cửa, chẳng ai mua nữa. Có điều cũng thật tình cờ, tháng trước lại có người hỏi đến, tôi tìm mãi mới phát hiện còn một rương hàng tồn, bèn đem ra bán. Chắc cả kinh thành này chỉ còn chỗ tôi bán thứ này thôi. Trừ vị khách hôm đó ra, cũng chỉ có các vị hỏi tới.”

Hoàng Tử Hà ước chừng trọng lượng con chó sứ trong tay rồi hỏi: “Người khách lần trước trông thế nào? Chắc cũng tầm tuổi chúng tôi, đi mua lại món đồ chơi hồi bé chứ gì?”

Ông chủ cười hì hì nhận tiền Chu Tử Tần đưa rồi đáp: “Không phải không phải, chính là ông chủ Tiền của tiệm ngựa Tiền Ký ấy, ông ấy bốn năm chục tuổi rồi còn đi mua thứ này, có tức cười hay không?”

Chu Tử Tần quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nói bằng khẩu hình: “Lại là ông ta.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, cũng dùng khẩu hình trả lời: “Quả nhiên.”

Chu Tử Tần rầu rĩ hỏi: “Công công biết trước rồi à? Lại không nói với ta!”

“Chẳng phải tôi nói với công tử đầu tiên đấy ư?” Lúc ra khỏi tiệm đồ chơi, Hoàng Tử Hà dỗ gã.

Nghe vậy, Chu Tử Tần tức thì bò ra khỏi vực sâu tuyệt vọng, vui vẻ cầm chó sứ về Chuế Cẩm Lâu, đặt trước mặt hai người kia: “Đoán xem ai đã mua con chó sứ kia nào?”

Lý Thư Bạch chẳng buồn ngước lên, đáp ngay: “Tiền Quan Sách.”

Ba từ này đã đánh bật Chu công tử về đáy vực, gã rưng rưng quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: “Công công bảo là nói với ta đầu tiên mà?”

“Là gia tự đoán được đấy chứ.” Hoàng Tử Hà xòe hai tay, vẻ bất lực.

“Nhưng, nhưng dù gần đây Tiền Quan Sách có mua một con chó sứ, thì cũng không thể nói con chó bị vỡ trong phủ công chúa có liên quan đến con của ông ta! Huống hồ chó sứ thì liên quan gì đến vụ án của công chúa?”

“Đương nhiên liên quan rất nhiều. Có thể nói, cái chết của công chúa, đều do con chó sứ này.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà thận trọng bọc cả hai con lại.

Vương Uẩn thấy cô tất bật thì mỉm cười hỏi: “Sùng Cổ, vụ án Tôn ghẻ lần trước hai vị đi suốt đêm điều tra, giờ thế nào rồi?”

“Vẫn… chưa có tiến triển gì.” Chu Tử Tần nằm bò ra bàn, chán nản đáp: “Đại Lý Tự đã kết án là Tiền Quan Sách mượn cớ sửa sang đường nước, rồi theo đường nước lẻn vào giết người, nhưng vụ này vẫn còn cả đống nghi vấn chưa giải thích được.”

Vương Uẩn hỏi: “Ví như mùi linh lăng hương ta ngửi thấy ở đó ư?”

“Ừm, dĩ nhiên.” Chu Tử Tần thành thật gật đầu.

Lý Thư Bạch hỏi chen vào: “Linh lăng hương gì cơ?”

Vương Uẩn liền giải thích: “Tối hôm ấy Tích Thúy chức đi tuần thì gặp họ đi tra án, bèn theo xem thử. Những chuyện khác thì ty chức không biết, nhưng ở hiện trường lại ngửi thấy mùi linh lăng hương. Về mặt này ty chức cũng hiểu biết qua loa.”

“Ngươi là kẻ bình phẩm hương giỏi nhất kinh thành, nếu nói là chỉ biết qua loa, thì ai dám nhận mình sảnh sỏi nữa? Trong nhà Tôn ghẻ quả có mùi linh lăng hương ư?”

“Đúng thế, ngửi thấy mùi linh lăng hương trong căn nhà nát đó, ty chức cũng hết sức ngạc nhiên. Nhưng ty chức nhớ nhất là mùi linh lăng hương ở đó bị lẫn với đủ thứ mùi, rất khó nhận ra. Nhớ đến thứ mùi nồng nặc khiến người ta lợm giọng trong nhà Tôn ghẻ, Vương Uẩn nhăn mặt.

Chu Tử Tần quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công xem có nên tới nhà Tôn ghẻ lần nữa không?”

“Ừm, trong ba vụ, tôi chỉ còn khúc mắc mỗi vụ này thôi, nếu tìm ra được cách hung thủ sát hại Tôn ghẻ trong phòng kín thì có thể kết án rồi.”

Lý Thư Bạch sực nhớ ra một chuyện, liền bảo: “Dương Sùng Cổ, ngươi cầm lệnh tín phủ Quỳ đi bảo lãnh cho Tích Thúy ra đi.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn y, rồi gật đầu đầy cảm động: “Thưa vâng.”

Giờ Tiền Quan Sách là nghi phạm lớn nhất, Tích Thúy tuy có liên quan tới hai vụ đầu, nhưng Đại Lý Tự từ lâu đã không còn hoài nghi nàng. Nay có Quỳ vương ra mặt bảo lãnh cho, huống hồ Lý Thư Bạch còn kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, Tích Thúy hoàn toàn có thể về nhà đợi khi nào xử án sẽ cho truyền gọi.

Chu Tử Tần thở dài: “Tích Thúy cũng thật là, kết án xong, chắc chắn cô ấy sẽ bị khép tội khai man rồi phạt trượng cho coi.”

Vương Uẩn cười nói: “Lo gì, tới lúc đó vương gia chỉ cần nói một câu với Thôi thiếu khanh, để thiếu khanh nhắc nhở người phạt trượng là xong mà.”

“Tôi là người chính trực, làm sao hiểu nổi mấy thủ đoạn đó của các người.” Chu Tử Tần vỗ trán than vãn.

Thấy Hoàng Tử Hà đã ra đến cửa, Vương Uẩn bèn đứng dậy theo: “Ta cũng phải về Tả Ngô Kim Vệ, cùng đường với Dương công công, để ta đi cùng công công!”

“Đi với đi với!” Chu Tử Tần bật dậy, “Tôi cũng phải đi lấy lòng Tích Thúy, bằng không lấy đâu đồ ngon mà ăn!”

Ba người cùng xuống lầu, chỉ còn mình Lý Thư Bạch đứng bên song cửa sổ nhìn xuống dưới.

Chu Tử Tần đi bên trái Hoàng Tử Hà, vừa đi vừa nhảy chân sáo, hoa chân múa tay ba hoa gì đó.

Vương Uẩn đi bên phải Hoàng Tử Hà, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nhìn cô, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc.

Lý Thư Bạch đứng trên lầu nhìn theo cho tới khi cả ba ra khỏi chợ Tây. Ánh nắng gay gắt khiến cả thành Trường An sang rực lên, xói vào mắt y chói lóa.

Cảnh Dục và Cảnh Hữu đứng phía sau chẳng hiểu sao y đột nhiên quay ngoắt đi, không nhìn ra bên ngoài nữa.

Sau khi dừng ở cửa chợ Tây bàn bạc, ba người quyết định chia làm hai ngả, Chu Tử Tần đến phường Phổ Ninh báo tin cho Trương Hàng Anh, còn Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà tới Đại Lý Tự trước.

Hoàng Tử Hà bảo Vương Uẩn: “Tôi chạy ù sang bên này một lát,” đoạn rẽ vào tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.

Lão Lữ vẫn ở sau tiệm, lại đang hì hục làm một cây nến lớn, giống hệt cây bị nổ lần trước, chỉ thiếu chưa vẽ hoa văn và quết màu lên.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng ngoài quan sát, không bước vào, cũng không lên tiếng. Lão Lữ đã gần sáu mươi tuổi, nheo nheo cặp mắt mờ đục, còng lưng ngồi tỉ mẫn vẽ hình rồng phượng và hoa lá lên nến. Giữa ngày hè nóng hầm hập, lão cầm bảng màu trên tay, thỉnh thoảng còn phải lại gần lò lửa khuấy sáp lỏng.

Hơi nóng bốc lên nghi ngút, cả người lão Lữ đầm đìa mồ hôi, bộ áo chẽn nâu ướt sũng, xong lão vẫn chăm chú vẽ nến, vô cùng thành kính, không chút cẩu thả.

Vương Uẩn nhìn lão rồi nhìn sang Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Sao thế?”

Hoàng Tử Hà thở dài đáp: “Không có gì. Tôi nghĩ hôm nay Tích Thúy được thả, không biết có nên báo cho cha cô ấy một tiếng không.”

“Cha con đoàn tụ là chuyện đương nhiên, phải không nào?”

Nghe Vương Uẩn nói vậy, Hoàng Tử Hà bèn cùng y bước vào tiệm, chào Lữ Chí Nguyên: “Lão Lữ.”

Lữ Chí Nguyên nheo mắt ngước lên, chẳng biết có nhận ra cô hay không, chỉ lạnh nhạt ậm ừ: “Ồ, là quý khách.”

“Ta đến báo tin mừng cho ông, Lữ Tích Thúy con gái ông hôm nay sẽ được thả, ông có muốn tới gặp cô ấy không?”

Bàn tay Lữ Chí Nguyên thoáng khựng lại, nhưng rồi vẫn thoăn thoắt vẽ tiếp: “Được thả à? Được thả thì tốt rồi, cứ sợ nó làm liên lụy đến lão.”

Hoàng Tử Hà biết tính lão già này nên cũng chẳng nhiều lời nữa, chỉ đứng ngắm nghía cây nến một hồi, chợt buột miệng: “Sắp xong rồi đấy nhỉ?”

Lữ Chí Nguyên chẳng buồn đáp, lão vốn sẵn ghét hoạn quan.

Vương Uẩn đang ngắm một đôi nến hoa trong tiệm, chợt gọi cô: “Sùng Cổ lại mà xem.”

Đôi nến hoa nọ cao chừng một thước, hình thù rất đặc biệt, một cây hình rồng, cây kia hình phượng, mỗi chiếc vảy sợi lông một màu khác nhau, chỉ riêng màu đỏ đã có đỏ nhạt đỏ thẫm đỏ son đỏ thắm đỏ phớt, vô vàn sắc độ màu đều do một tay lão Lữ chế ra, thực khiến người ta phải trầm trồ. Tài điêu khắc của lão lại càng tuyệt diệu, đôi rồng phượng trông sống động như thật, bừng bừng khí thế, trên đầu mỗi con đính một sợi bấc, dọc thân trang trí vô số hoa lá, lục lạc bằng những mảnh đồng, quả là muôn màu muôn vẻ, lấp lánh rạng ngời, khiến người ta không ngăn được ý nghĩ, chẳng biết khi đốt lên còn đẹp đến đâu.

Thấy đôi nến tinh xảo nhường ấy, Vương Uẩn ngoái lại hỏi: “Ông chủ có bán đôi nến này không?”

“Không bán.” Lão từ chối thẳng thừng.

Vương Uẩn cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ cười cười nói: “Thứ này bày trong tiệm, đúng là bảng hiệu đẹp nhất rồi.”

Lúc hai người bước ra cửa, chợt có cơn gió thổi qua khiến mấy chiếc lục lạc trên thân nến rung lên khe khẽ, những cánh hoa phiến lá bằng đồng cũng lay động tạo thành tiếng leng keng ngân nga như tiên nhạc.

Hoàng Tử Hà bất giác ngoái lại nhìn đôi nến.

Vương Uẩn đi bên cạnh, chợt nói khẽ: “Nếu cô thích, sau này cũng có thể đặt ông ta làm một đôi như vậy dùng khi hai ta thành hôn.”

Hoàng Tử Hà bỗng thấy lòng ngập đầy bối rối xen lẫn kinh ngạc, hai má đỏ bừng, nhưng đồng thời, cô lại có cảm giác nhói lạnh như bị kim châm đâm thẳng vào tứ chi, khiến thân hình không sao cử động.

Thấy cô cứng đờ người, Vương Uẩn chỉ liếc nhìn rồi mỉm cười, nụ cười gượng gạo mà bao dung, giọng nói vẫn dịu dàng như thế: “Ta đùa thôi, chuyện đó chờ đến khi phá được vụ án của gia đình cô rồi tính, được không nào?”

Cô chẳng biết mình nên gật hay lắc đầu nữa.

Người trước mặt biết rõ cô đã ô danh đến nhường này, còn biết cô luôn bị đàm tiếu về chuyện Vũ Tuyên, nhưng vẫn bỏ qua tất cả.

Lâu thật lâu, cô mới nghèn nghẹn đáp: “Được, đợi khi nào phá xong vụ án của gia đình tôi…”

Rồi như bị chính những lời mình vừa thốt ra đánh thức, cô sực tỉnh.

Hoàng Tử Hà, từ khi cha mẹ người thân qua đời ngươi đã thề rằng vĩnh viễn không để bất cứ việc gì ảnh hưởng đến mình nữa, quyết tâm vứt bỏ tất cả dịu dàng quyến luyến, cắt đứt vương vấn nhớ nhung, chỉ dốc lòng báo thù cho cả nhà, chẳng phải thế ư?

Vũ Tuyên, Vương Uẩn, đều không phải vấn đề cần xét đến bây giờ.

Nghĩ vậy, cô ngẩng lên cười với Vương Uẩn, giọng hơi khàn, nhưng ngữ điệu hết sức bình thản: “Vương đô úy khéo đùa, tôi là hoạn quan trong vương phủ, đời này còn thành hôn với ai được nữa?”

Vương Uẩn sững người, rồi bật cười tự giễu: “Đúng thế… Ta đùa vô ý rồi.”

Họ rời tiệm nhang đèn, lại ghé qua tiệm ngựa Tiền ký gần đó. Chưởng quầy vừa thấy Vương Uẩn vội vỗn vã chạy ra đón: “Ôi chao, Vương đô úy! Hôm nay đô úy đại giá quang lâm mà bổn tiệm thất lễ, không kịp ra ngoài nghênh tiếp rồi.”

Tiệm ngựa Tiền ký đã mấy lần bán ngựa cho Tả Kim Ngô Vệ nên chẳng lạ gì nhau, mấy người làm bên trong tức thì chạy ra đón họ vào, lăng xăng bày quả pha trà.

Vương Uẩn thấy vậy liền ngăn lại: “Ta chỉ đi ngang qua thôi, không cần bày vẽ.”

“Ôi, thực xin lỗi Vương đô úy, đô úy xem đấy, Tiền lão gia bị bắt giam rồi, chúng tôi thật không biết phải làm thế nào nữa…” Chưởng quầy đang than vãn thì Tiền phu nhân và ba đứa con từ nhà sau chạy đến, khóc lóc thảm thiết vật nài Vương Uẩn giúp đỡ.

Vương Uẩn xưa nay ôn hòa lễ độ, thấy họ kêu khóc như thế đành gượng cười phân trần: “Chuyện này ta không can thiệp được, các vị thử đến Đại Lý Tự kêu oan đi.”

“Vị…Vị quan sai này lần trước từng đến tìm lão gia, nghe nói là người của Đại Lý Tự!” Người hầu trỏ ngay Hoàng Tử Hà, bảo với chưởng quầy và phu nhân.

Lập tức cả nhà họ Tiền từ trên xuống dưới liền xúm lấy cô, Tiền phu nhân còn khóc nức lên: “Lão gia nhà chúng tôi là người tốt, hàng ngày làm gì cũng cẩn trọng, sao có thể giết người chứ…”

Hoàng Tử Hà vội đỡ Tiền phu nhân dậy: “Thực ra ta tới đây cũng có chuyện muốn hỏi, chẳng rõ các vị có biết viên cai thầu đã sửa sang nhà cửa cho Tôn ghẻ không?”

Chưởng quầy vội đáp: “Sổ sách về sửa sang phòng ốc đều để ở ngay nhà bên cạnh đây, tiểu nhân sẽ đi tìm ngay, xem hôm đó ai đến nhà họ Tôn.”

“Nếu tiện thì ông mời người đó đến ngay nhà họ Tôn ở phường Đại Ninh cho, ta còn bận chút việc, làm xong sẽ tới đó đợi ông ta.”

“Vâng vâng, tiểu nhân sẽ bảo ông ta đến ngay.”

Lòng vòng mãi, khi Hoàng Tử Hà và Vương Uẩn đến Đại Lý Tự đã thấy Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh đợi ở đó, Trương Hàng Anh đang ẵm một đứa bé, sau lưng còn hai người lạ mặt, một nam một nữ.

“Anh trai chị dâu tôi dẫn thằng bé sang chơi, nghe nói là đi đón A Địch, bèn cùng đi luôn.” Trương Hàng Anh giới thiệu.

Anh trai Trương Hàng Anh tên Trương Hàng Vĩ, dáng người cao to không kém em trai. Hai vợ chồng y rụt rè cười: “A Địch là người nhà chúng tôi, đương nhiên phải đi đón cô ấy về.”

Chu Tử Tần xen vào: “Trương lão gia cứ khăng khăng đòi đi, nhưng ông ấy vừa khỏi bệnh, chúng tôi phải khuyên ngăn mãi, nếu không lão gia cũng đến rồi.”

Thấy nhà họ Trương thật lòng yêu thương Tích Thúy như thế, Hoàng Tử Hà cũng nhẹ lòng, bèn mỉm cười gật đầu: “Mọi người đợi cho một lát, tôi vào đón A Địch ra.”

Thực không ngờ Thôi Thuần Trạm vẫn ở nha môn chưa về nhà, hơn nữa trông còn rất vui vẻ, vừa thấy cô đã tươi cười hỏi: “Dương công công lại phụng lệnh vương gia ư?”

Hoàng Tử Hà hành lễ rồi đưa lệnh tín của Quỳ vương phủ ra: “Vương gia nói vụ này đã tìm được kẻ bị tình nghi nhiều hơn, huống hồ khi công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang bị giam, không có khả năng gây án, nên sai tôi đến thương lượng với Thôi thiếu khanh xem có nên cho Lữ cô nương về nhà chờ thẩm vấn không, chứ cứ giữ cô ta mãi như vậy có phần không ổn lắm.”

“Ồ, chuyện này đơn giản mà.” Thôi Thuần Trạm quay sang bảo viên tri sự bên cạnh mang một tờ đơn đến để Hoàng Tử Hà điền vào, rồi đích thân cùng cô đi thả Lữ Tích Thúy.

Dọc đường đi qua mấy gian phòng bỏ không, Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Không biết Tiền Quan Sách bị giam ở đâu?”

“Hắn ta ấy à? Chuyển đến đại lao bộ hình rồi.” Thôi Thuần Trạm thản nhiên đáp: “Nhân chứng vật chứng đầy đủ, sáng nay hắn đã cung khai rồi.”

Hoàng Tử Hà sững sờ: “Khai rồi ư?”

“Đúng thế.” Bị đôi mắt trong veo như soi thấu tất cả của cô nhìn chằm chặp, Thôi Thuần Trạm chột dạ ngoảnh đi, né tránh ánh mắt cô, hạ giọng nói: “Dương công công, vụ này… kết thúc rồi. Phá án nhanh như thế, chứng cứ lại rõ ràng, thánh thượng và Quách thục phi đều hài long, Đại Lý Tự lập được công lớn, bộ Hình cũng có cái mà ăn nói, không phải kết cục tốt nhất hay sao?”

Hoàng Tử Hà đứng lặng dưới mái hiên mờ tối, hồi lâu mới cất tiếng: “Tiền Quan Sách… Làm thế nào mà khai?”

“Làm thế nào, công công còn không biết ư?” Thôi Thuần Trạm dán mắt nhìn xuống nền gạch xanh dưới mái hiên, thở dài bất lực: “Bộ Hình phái một tay lệnh sử* lợi hại nhất đến, đem theo cả bộ đồ nghề. Nghe nói hắn đã tra tấn hơn một trăm hai mươi người, không kẻ nào không khai nhận, Tiền Quan Sách cũng… chẳng phải ngoại lệ.”

* Chức vụ phụ tá cho huyện lệnh. Lệnh sử có thể làm nhiều công việc, viên lệnh sử được nói tới ở đây là đến tra khảo.

Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Hắn nhận cả việc giết công chúa ư?”

“Nhận rồi. Chiều qua nhận giết Tôn ghẻ, đến tối nhận Ngụy Hỷ Mẫn, sáng sớm nay thì khai nhận sát hại công chúa.”

Hoàng Tử Hà thấy lòng lạnh buốt, thẫn thờ thốt lên: “Quả là thủ đoạn ghê gớm.”

“Bản án đã được cấp tốc sao chép lại, trình lên hoàng thượng, hẳn lát nữa trong cung sẽ có ý chỉ truyền ra.”

Thì ra hôm nay Thôi thiếu khanh ăn trưa xong còn chưa về nhà, là vì phải đợi ý chỉ.

Hoàng Tử Hà trầm ngâm, chợt nghe sau lưng có tiếng xích sắt xủng xoảng, rồi Tích Thúy được dẫn ra. Bị giam mấy ngày, nàng có phần tiều tụy ngơ ngác, trông thấy Hoàng Tử Hà mới gượng gạo mỉm cười.

“Lữ Tích Thúy, hôm nay ngươi được phủ Quỳ vương bảo lãnh, tạm thời cho về phường Phổ Ninh. Trước khi bản án kết thúc, nếu bộ Hình và Đại Lý Tự cần thẩm vấn, sẽ cho triệu đến, rõ chưa?”

“Thưa, rõ.”

Hoàng Tử Hà giúp nàng gấp hết chăn màn Trương Hàng Anh đem đến, ôm theo ra khỏi Đại Lý Tự.

Vừa rời Đại Lý Tự, Tích Thúy đã trông thấy Trương Hàng Anh đứng đợi bên ngoài, tức thì lộ vẻ mừng rỡ xen lẫn buồn thương, nức nở gọi: “Trương nhị ca!”

Trương Hàng Anh vội đặt đứa bé xuống, chạy như bay lên thềm, ấp chặt hai tay Tích Thúy trong lòng bàn tay mình áp lên ngực, đăm đăm nhìn nàng hồi lâu mới nghẹn ngào bảo: “A Địch, chúng ta… về nhà thôi.”

Những người đứng đó thấy hai người như vậy đều mỉm cười đầy thấu hiểu. Ngay cả đứa bé được chị dâu Trương Hàng Anh dắt cũng giơ tay vẫy vẫy Tích Thúy: “Tỷ tỷ… Tỷ tỷ…”

Rồi, nó đột ngột quay đi, gập người xuống gọi với ra ngoài cửa nha môn: “Ca ca, ca ca!”

Thấy đứa nhỏ sắp vùng ra, anh trai Trương Hàng Anh vội chạy đến bế xốc nó lên, quay đầu nhìn ra đường.

Chỉ thấy một nam tử dáng người dong dỏng vừa đi ngang qua gốc du bên đường, nghe đứa bé gọi, liền quay đầu nhìn sang bên này.

Con phố hết sức bình thường, chỉ vì một cái ngoái đầu này mà sang bừng lên.

Ánh mắt Hoàng Tử Hà sững lại trên mặt hắn, hơi thở cũng ngưng một nhịp. Nắng hè chói chang, nóng như lửa đốt, còn lòng cô đau đớn như nghẹt thở.

Giữa ngày hè nóng bức, người kia lại toát ra khí chất thanh tĩnh mát lạnh, không vướng bụi trần, dáng dấp cao gầy như một cây trúc non, tỏa hào quang nhàn nhạt.

Hắn mỉm cười tiến lại, giơ tay ôm lấy đứa nhỏ cứ nhoài người về phía mình, đùa với nó: “Ra là A Bảo, còn nhớ ca ca ư?”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ lùi lại một bước, nấp sau gốc đại thụ ở cửa Đại Lý Tự, tránh phá vỡ bầu không khí.

Người nhà họ Trương nhận ra hắn là ân nhân đã đưa đứa bé về nhà, vội chạy lại cảm tạ.

Vũ Tuyên giơ tay che nắng cho đứa bé, rồi ẵm nó đến dưới bóng cây. Chu Tử Tần vội sán đến, ngưỡng mộ hỏi: “Không biết huynh đài tên họ là gì? Lần trước nghe Trương nhị ca tả huynh là một nhân vật như thần tiên, ta còn không tin, hôm nay tận mắt chứng kiến mới thấy quả không sai!”

Vũ Tuyên nghe nói chỉ cười đáp: “Chuyện vặt ấy mà, đâu đáng nhắc đến.”

Rõ ràng là hắn không định tiết lộ tên họ, xong Chu Tử Tần vẫn bám nhằng nhẵng: “Ta tên Chu Tử Tần, nhà ở phường Sùng Nhân, cạnh mộ Đổng Trọng Thư, chẳng hay huynh đài tên họ là gì, sống ở đâu? Ta có khá nhiều bạn bè trong kinh, chắc chắn họ sẽ rất mến huynh, sau này chúng ta có thể hẹn nhau ngâm thơ làm văn, nghe nhạc uống rượu, du sơn ngoạn thủy, đi chơi xuân, đánh mã cầu… Phải rồi, tôn tính đại danh huynh đài là gì vậy, ta phải xưng hô thế nào đây?”

Gặp phải hạng người dai dẳng thế này thực chẳng có cách nào thoát nổi, hắn đành đặt đứa bé xuống, chắp tay hành lễ: “Tại hạ Vũ Tuyên, là học chính Quốc Tử Giám.”

“Gì cơ? Huynh là học chính Quốc Tử Giám?” Chu Tử Tần giật nảy mình, “Bất công hết chỗ nói! Sao năm xưa ta ở Quốc Tử Giám, toàn gặp phải mấy lão đầu râu tóc bạc! Nếu bấy giờ có một học chính như huynh, thì ta đâu đến nỗi phải trốn học đi chọc tổ chim chứ?”

Vũ Tuyên giải thích: “Tại hạ mới được tiến cử vào kinh chừng một tháng thôi. May mắn lọt mắt xanh của tế tửu Quốc Tử Giám nên tạm thời được phân giảng dạy phần Chu Lễ.”

“Huynh giỏi thật đấy! Trẻ thế này mà đã làm học chính Quốc Tử Giám rồi! Ta đến giờ còn chưa thuộc hết Chu Lễ nữa!” Nói đến đây. Chu Tử Tần chợt sững ra, hỏi lại: “Vũ Tuyên… học chính Quốc Tử Giám ư?”

Hắn gật đầu, không nói gì thêm.

Nhìn vẻ tò mò pha lẫn kinh ngạc của Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà biết gã đang nghĩ đến lời đồn đại về quan hệ khác thường giữa Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên lâu nay vẫn xôn xao kinh thành.

Nỗi buồn âm thầm len vào lòng, cô mệt mỏi tựa vào thân cây, lặng lẽ lắng nghe hơi thở của mình.

Vũ Tuyên không để ý tới ánh mắt lạ lùng của Chu Tử Tần, chỉ cười cúi xuống xoa đầu A Bảo rồi cáo từ hai anh em họ Trương: “Tôi còn có việc ở Quốc Tử Giám, phải đi trước đây.”

Trương Hàng Anh vội kéo Tích Thúy lại giới thiệu: “Đây là… vợ chưa cưới của tôi, chúng tôi sắp thành hôn, tới khi ấy mời huynh đến uống chén rượu mừng, huynh không được từ chối nhé.”

Vũ Tuyên nhìn Tích Thúy rồi gật đầu cười, không nói gì.

A Bảo cứ nắm chặt lấy tay hắn, ríu rít gọi: “Ca ca, ca ca…”

Vũ Tuyên bèn quay lại, ngồi xuống nhìn vào mắt A Bảo mỉm cười dỗ dành: “Ngoan nào, A Bảo thích ăn gương sen đúng không? Để ca ca đi tìm xem, nếu thấy sẽ mua về cho A Bảo, được không nào?”

A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi buông tay ra, gật đầu lia lịa: “Được, A Bảo muốn hai cái cơ.”

“Ba cái cũng được.” Vũ Tuyên cười, xoa đầu A Bảo, đứng dậy hành lễ cáo từ rồi quay người đi thẳng, sau khi ngoặt vào một con hẻm thì khuất bóng.

Chu Tử Tần ngưỡng mộ bình phẩm: “Đúng là khéo dỗ trẻ con.”

Hoàng Tử Hà dựa vào gốc cây, nói khẽ như tự lẩm bẩm: “Đúng thế… rất giỏi gạt trẻ con, từ xưa đến giờ vẫn vậy.”

Trong nháy mắt, cô chợt thấy thoáng qua quang cảnh một buổi chiều hè, hoàng hôn rực rực rỡ, gió sen lồng lộng. Vũ Tuyên cúi xuống còn cô ngước lên, thấy rõ hình bóng mình in trong đáy mắt sâu thẳm mênh mang của hắn, có điều, ảo ảnh ấy chỉ vụt qua rồi biến mất.

Cô hít một hơi thật sâu, xác nhận mình đã bình tĩnh lại, mới từ sau gốc cây đi ra.

Chu Tử Tần vừa thấy cô đã liến thoắng khoe: “Sùng Cổ! Vừa nãy công công đi đâu thế? Có thấy người vừa rồi không? Ta sống sở Trường An hai mươi năm nay, chưa từng gặp ai phong tư trác tuyệt, khí độ thanh cao như thế, nếu công công không thấy thì thực đáng tiếc!”

Hoàng Tử Hà đang không biết trả lời thế nào thì một thót ngựa từ phía cung Đại Minh chạy tới, người trên ngựa nhảy xuống lao thẳng vào trong: “Thánh thượng có khẩu dụ, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm ở đâu?”

Thôi Thuần Trạm lật đật chạy ra tham kiến: “Công công, không biết thánh thượng hạ ý chỉ thế nào?”

Vị công công nọ tên Phùng Nghĩa Toàn, hầu hạ bên ngài ngự, giọng sang sảng như chuông đồng, vừa cất tiếng đã vang khắp trong ngoài nha môn: “Thánh thượng có chỉ, tội phạm giết hại Đồng Xương công chúa bị lăng trì tùng xẻo, tịch thu gia sản, cả nhà bất luận già trẻ lớn bé đều xử trảm.”

Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên.

Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy nắm chặt tay nhau, đều cảm thấy tay người kia dấp dính mồ hôi lạnh.

Chu Tử Tần ghé tai Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Chúng ta còn điều tra nữa hay thôi?”

Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Công tử nói xem?”

“Chân tướng vụ án còn chưa rõ, sao có thể bỏ qua?” Chu Tử Tần bừng bừng nhiệt huyết, siết chặt hai tay đặt lên ngực.

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đi thôi.”

“Đi đâu?”

“Tới phường Đại Ninh, nhà Tôn ghẻ.”

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương