Trái Tim Của Quỷ
-
Chương 17
MƯA RƠI TẦM TÃ BÊN NGOÀI, đổ xuống đất màu xánh lạnh.
Mùa mưa sắp kết thúc.
Rethala sẽ chuyển mình, trở nên cằn cỗi hơn trước khi mùa đông đến. Hầu hết mọi loại cây ở đây sẽ ngả màu rồi héo úa. Howl đoán mình sẽ phải thuê thêm số người làm vườn để lâu đài không ngập trong cỏ khô và lá mục.
Biết đâu đấy, có thể hôm nay sẽ là ngày mưa cuối cùng.
Howl xếp nhanh những tập giấy da trên bàn sang một bên. Ở cạnh tay là chiếc bút mực và lọ mực đã vơi nửa. Kế đó là những xấp thư chưa được mở. Howl ngả người ra ghế, thở dài. Cậu nhắm mắt, lắng nghe tiếng mưa bên ngoài. Mùi mưa và gió dễ chịu đến kỳ lạ.
Howl nhấc xấp thư lên để ra trước mặt. Thông thường chỉ cần nhìn tên người gửi là Howl đã đoán được nội dung của nó. Có một lá thư trông lạ mắt hơn, không làm từ thứ giấy đắt tiền như những lá thư kia. Một phong thư có bìa nâu, giấy ráp, những nét mực đen viết đều trên giấy. Emerson Phenex, em trai của mẹ cậu. Anh ta cũng đã đến đây vào đám tang của Quỷ Vương, một chàng trai gầy gò với bộ râu rậm và ánh mắt hun tối.
Lá thư ban đầu chỉ hỏi thăm về cậu và Abigail, và về cả chuyện Howl đã sửa sang lại lâu đài. Sau đó lại đề cập đến chuyện “nối lại mối quan hệ sau bao năm phủ bụi” và những chuyện liên quan đến tiền bạc, điều mà Howl đã lường trước. Hẳn họ thấy đây là một cơ hội tuyệt vời, Howl lên ngôi và cậu hoàn toàn có thể gửi một số tiền chu cấp cho họ. Theo như cậu biết, gia tộc bên ngoại của mình chẳng giàu có lắm mặc dù con gái – chị gái – cháu gái họ cưới Quỷ Vương. Dù bà đã chết đi nữa thì Moldark vẫn đã có con với bà và đó là cậu.
Howl chẳng ngần ngại đặt xuống một lời đồng ý.
Hơn nữa, cậu thừa mứa tiền bạc. Tòa lâu đài có quá ít người ở đến mức nó tốn chẳng bao. Cậu vẫn đang không biết làm gì với số tiền ấy. Howl đặt bút viết một lá thư hồi âm thật lịch sự, cố gạt bỏ những lời lẽ đầy gai của mình ra để gửi trả họ.
Howl đặt lá thư vào trong phong bao rồi để lại trên bàn. James sẽ đến phân loại và gửi chúng đi. Xét cho cùng, ông ta vẫn là một quản gia tận tụy, Howl cân nhắc giữ ông ta làm việc lâu dài.
Lá thư thứ hai cậu cầm lên là của Dommik Barbatos.
Ông ta gửi cho cậu bản chép tay của câu thần chú cổ. Howl chỉ nhìn lướt qua rồi để đấy. Nếu không phải do Hội đồng đang thúc giục, cậu cũng chẳng buồn để mắt đến chuyện này.
Howl bước vòng qua bàn, đến tủ rượu và khui một chai. Cậu rót đầy một ly rồi đặt nó lại vào tủ, đoạn quay qua cửa sổ nhìn cơn mưa trắng xóa. Ở chân trời hầu như không thể thấy gì ngoài màn sương dày. Khu mộ xa xa thấp thoáng hiện ra trong sương. Howl cũng đang suy tính dời khu mộ ấy vào nghĩa trang thành phố; nhưng cậu đoán sẽ nhiều người phản đối. Cứ nghĩ đến việc cha cậu đang nằm ở đấy, im lặng quan sát cậu và tòa lâu đài này khiến Howl rợn gáy. Có thể cậu sẽ xây một khu vườn, hay những nhà kính đón gió ở đấy. Bất cứ thứ gì vẫn hơn là một khu mộ lù lù sau lưng mình.
Một cái bóng thấp bé đang động đậy chỗ khu mộ.
Howl nheo mắt nhìn. Cỏ trắng xóa nước mưa. Khi người ta nhìn thấy một cái bóng sượt qua lần đầu, họ sẽ lờ nó đi. Nhưng khi nó lướt qua một lận nữa, và một lần nữa, nó sẽ thu hút được ánh mắt của tất cả những ai nhìn thấy. Bây giờ, tất cả những ai nhìn thấy chỉ có How, nhưng cậu không điên. Cậu tin vào chuyện ma. Phải. Và cậu tin vào Quỷ. Chỉ những kẻ ngây thơ mới không tin. Những kẻ ngây thơ và những kẻ điên. Cậu biết chắc có cái gì đó ở khu mộ.
Howl cầm lấy chiếc ô đặt ở cửa. Cậu bật nó lên. Trong khoảnh khắc khi chiếc ô xòe ra, quang cảnh quanh Howl thay đổi. Căn phòng cậu đang đứng như tan ra thành khói và bay đi, rồi cậu nghe thấy tiếng mưa đập chan chát lên ô. Có dưới chân cậu trắng khủng khiếp, Howl đang đứng giữa khu mộ mà bốn bề trắng xóa. Howl bước lên cỏ lạnh, tiến vào lối mòn trong khu mộ.
Khả năng dịch chuyển là khả năng bẩm sinh của Cambion, dù nó khá hạn chế vì nhiều nơi giăng bùa chống Cambion và vì thế sẽ không vào được. Giống như lâu đài Quỷ, không Cambion nào có thể dịch chuyển vào trong, nhưng nếu đã ở bên trong thì có thể dịch chuyển đi bất cứ đâu. Đôi khi Howl hơi lạm dụng khả năng này.
Rốt cuộc, ngoài những bia một tối xếp đều nhau chẳng còn gì khác. Hơi lạnh phả vào người Howl, chứa đầy trong buồng phổi cậu. Cậu nheo mắt nhìn quanh nhưng không thấy gì cả. Mưa kèm sương khiến tầm nhìn của cậu giảm rõ rệt. Những ngôi một thình lình hiện ra ở mỗi ngã rẽ, đen đúa và xấu xí. Howl định quay trở lại bên trong thì cái bóng lại sượt qua lưng cậu, Howl quay người lại nhưng nó đã biến mất.
Cậu đi trên các lối mòn lát đá như tìm kiếm thứ gì. Cỏ ngập nước, hoa héo, các gò đất ẩm, hàng rào dây leo, bia mộ trăng trắng khi ở gần và đen thui khi nhìn xa, chỉ có thế. Cậu không thể nhìn xa hơn, chỉ trông thấy một vệt đen kéo dài ở chân trời là khu rừng. Cái bóng đang đùa nghịch với cậu. Nó thoắt ẩn thoắt hiện, đôi khi Howl đã bắt gặp được nó nhưng chưa định hình được gì thì nó đã biến mất. Cậu chỉ cảm nhận được luồng không khí bị kéo về phía nó, cùng với âm thanh rúc rích như tiếng cười nửa thực nửa mơ trong không gian.
Howl ghét ma.
Chúng là đám phiền phức đích thực.
Trong bóng tối, những cái bóng cựa quậy. Chúng cựa quậy một cách lén lút như đang chơi trốn tìm với Howl. Ở bất cứ góc khuất nào cũng có thể xồ ra một thứ gì đấy gớm ghiếc. Howl gắng gạt những điều không tưởng đấy ra khỏi đầu.
Nó làm cậu đau tim khi đột nhiên cậu quay người lại và thấy nó đứng ở đấy, sau một bia mộ thấp. Sương làm nó trông như một ảo ảnh, một cái bóng đen thui không mặt mũi. Nó nhô đầu lên khỏi mộ như con mèo rình mồi.
Howl giữ chặt chiếc ô và đi lại gần ngôi mộ. Nó vẫn đứng im ở đấy. Khi Howl chỉ còn cách nó chừng hơn một mét thì một giọng nói vang lên sau lưng cậu:
“Anh làm gì thế?”
Chỉ một kẻ dám nói ngang hàng như thế với Howl. Cô ta còn đáng sợ hơn cả cái bóng. Howl nhìn lại ngôi một thì cái bóng đã biến mất từ khi nào. Cậu đột nhiên có cảm giác mình bị chơi xỏ. Tại sao cậu phải bận tâm đến một con ma thích phá phách chứ?
“Tôi thấy có người ngoài này.” Howl lấy lại giọng nói bình tĩnh của mình. “Tôi đoán là cô.”
“Và điều đó làm anh bận tâm sao?”
Đương nhiên là không, tôi mặc xác cô làm gì, tôi chỉ bị một con ma xỏ mũi. Nhưng Howl không nói thành tiếng đều đấy. Cậu chỉ cười. “Một chút.”
Howl bỗng thấy băn khoăn. Nếu cậu ra đây vì con ma chết tiệt ấy, liệu có phải cô ta cũng thế.
“Cô có thấy ai không?”
“Ý anh là ngoài anh ra?” Cô ta đưa mắt nhìn một vòng. “Tôi không nghĩ thế.”
Howl nhướn mày. “Đừng nói dối.”
Cô ta lườm cậu rồi quay người bước đi.
“Nếu anh nhìn thấy gì thì cũng đừng lo lắng quá.” Cô ta nói. “Chúng thích trêu chọc người khác. Nhưng chúng cũng vô hại thôi, chúng chỉ buồn chán. Tôi đoán thế.”
“Chúng ta có đang nói về cùng một thứ không thế, bởi vì…” Howl cầm chiếc ô đi theo cô ta. Cậu để lửng câu của mình, theo chân Angeline ra rìa ngoài khu mộ.
Cô chỉ ra ngoài xa. Ban đầu Howl chẳng trông thấy cái gì hết, nhưng rồi cậu nhận ra có một cái bóng xám lẫn vào mưa cùng sương đang đi lòng vòng. Nó chỉ đi lòng vòng, không xa hơn được một mét.
Rồi cô ta lại ngước lên nhìn các ô cửa sổ lâu đài. Hẳn là cô ta thấy gì đó mà cậu không thấy.
“Đang vào tuần trăng nên chúng xuất hiện suốt.” Angeline nói bằng giọng đều đều như thể đó là một điều hết sức bình thường, bình thường như những cơn mưa đến vào mùa mưa và tuyết tới trong mùa đông. “Nhưng rốt cuộc chúng cũng chẳng làm gì có hại cả. Nhiều kẻ trong số chúng còn chưa biết mình đã chết.”
Howl cảm thấy hơi khó chịu với cô ta. Cô ta là một người hầu nhưng có vẻ còn biết nhiều hơn cả chủ nhân của tòa lâu đài. Nếu cô ta sống ở đây từ nhỏ, hẳn cô ta cũng đã quen với những thứ kỳ dị này. Cậu biết đó không phải lỗi của cô ta nhưng cậu vẫn cảm thấy bứt rứt kỳ lạ.
“Cô không sợ chúng à?”
“Tôi nói rồi mà.” Cô ta ngước mắt nhìn cậu. “Chúng vô hại.”
“Cô có thấy hồn ma nào kỳ lạ không?” Cậu nhún vai, lờ mờ gợi ý. “Ừm, của một người nào đấy từng sống trong lâu đài. Giống Quỷ Vương chẳng hạn?”
Cậu bắt gặp ánh nhìn nghi hoặc của cô ta. “Không. Họ thường không ở lại. Tôi chưa thấy ai cả.”
Những hồn ma tồn tại là một chuyện, việc chúng có muốn nói chuyện hay xuất hiện không là một chuyện khác. Bọn chúng là những nhân chứng hoàn hảo nhất, tồn tại đủ lâu để chứng kiến mọi chuyện xảy ra với lâu đài. Nhưng chúng không bao giờ lên tiếng, Howl biết thế. Cái chết làm chúng thay đổi. Một khi biết mình đã chết, khó mà có thể nghĩ được như khi còn sống.
Howl nhìn thấy bó hoa tươi Angeline vừa đặt trên mộ Quỷ Vương. Đôi mắt cô ta lạnh và lặng thinh trong mưa, thẫn thờ nhìn ngôi mộ. Khó mà nói được rằng cô ta đang tiếc thương. Điều gì về Quỷ Vương làm cô ta ám ảnh đến thế?
“Ông ta đã chết được một tháng rồi.” Howl nói. “Cô còn lo lắng điều gì nữa?”
“Tôi không lo gì cả.” Cô mím môi, gương mặt trầm tư. “Nếu có cũng không phải về Quỷ Vương. Tôi lo cho Abigail.”
Nụ cười khiến đôi môi Howl trông mỏng đi. “Tôi có cần giả vờ như biết giữa cô và Abigail có gì không? Cô biết đấy…”
“Chúng tôi từng lớn lên cùng nhau.” Cô ta nói nhẹ như lông hồng.
Howl hơi băn khoăn khi nghe thấy từ “Chúng tôi”. Cậu im lặng chờ Angeline nói tiếp. Nếu lần lại được, biết đâu cậu sẽ tìm được kẻ đã giết Moldark?
“Đó là tất cả những gì tôi có.” Cô nói. “Lớn lên cùng nhau. Abigail đối xử rất tốt với tôi; chúng tôi từng là những đứa trẻ duy nhất trong lâu đài. Nhưng con bé không còn nói chuyện với tôi nữa.” Angeline ngừng một quãng như hồi tưởng đến một điều gì đó kinh khủng vô cùng. “Từ khi ông ta chết, nó không nói chuyện với tôi nữa.”
Howl tỏ ra nghi hoặc. “Cô cảm thấy… tội lỗi à?”
Cô ta liếc lên Howl, trừng mắt, không nói gì cả.
“Thôi được rồi.” Cậu thở hắt ra một tiếng. “Con bé có một người bạn tưởng tượng, thế là đã đủ hiểu rồi. Tôi nghĩ cô có thể giúp nó bớt cô đơn.”
“Bây giờ thì tôi không thể làm điều đó được nữa.”
Cô ta nhìn Howl, đôi mắt dịu xuống, rồi cầm chiếc ô của mình rời khỏi khu mộ. Hẳn cô ta về tòa tháp vì Howl thấy cô đi tới cánh rừng. Trong thời tiết này thì thật kỳ lạ.
Nhưng xét cho cùng, có điều gì về cô ta là không kỳ lạ đâu?
Mùa mưa sắp kết thúc.
Rethala sẽ chuyển mình, trở nên cằn cỗi hơn trước khi mùa đông đến. Hầu hết mọi loại cây ở đây sẽ ngả màu rồi héo úa. Howl đoán mình sẽ phải thuê thêm số người làm vườn để lâu đài không ngập trong cỏ khô và lá mục.
Biết đâu đấy, có thể hôm nay sẽ là ngày mưa cuối cùng.
Howl xếp nhanh những tập giấy da trên bàn sang một bên. Ở cạnh tay là chiếc bút mực và lọ mực đã vơi nửa. Kế đó là những xấp thư chưa được mở. Howl ngả người ra ghế, thở dài. Cậu nhắm mắt, lắng nghe tiếng mưa bên ngoài. Mùi mưa và gió dễ chịu đến kỳ lạ.
Howl nhấc xấp thư lên để ra trước mặt. Thông thường chỉ cần nhìn tên người gửi là Howl đã đoán được nội dung của nó. Có một lá thư trông lạ mắt hơn, không làm từ thứ giấy đắt tiền như những lá thư kia. Một phong thư có bìa nâu, giấy ráp, những nét mực đen viết đều trên giấy. Emerson Phenex, em trai của mẹ cậu. Anh ta cũng đã đến đây vào đám tang của Quỷ Vương, một chàng trai gầy gò với bộ râu rậm và ánh mắt hun tối.
Lá thư ban đầu chỉ hỏi thăm về cậu và Abigail, và về cả chuyện Howl đã sửa sang lại lâu đài. Sau đó lại đề cập đến chuyện “nối lại mối quan hệ sau bao năm phủ bụi” và những chuyện liên quan đến tiền bạc, điều mà Howl đã lường trước. Hẳn họ thấy đây là một cơ hội tuyệt vời, Howl lên ngôi và cậu hoàn toàn có thể gửi một số tiền chu cấp cho họ. Theo như cậu biết, gia tộc bên ngoại của mình chẳng giàu có lắm mặc dù con gái – chị gái – cháu gái họ cưới Quỷ Vương. Dù bà đã chết đi nữa thì Moldark vẫn đã có con với bà và đó là cậu.
Howl chẳng ngần ngại đặt xuống một lời đồng ý.
Hơn nữa, cậu thừa mứa tiền bạc. Tòa lâu đài có quá ít người ở đến mức nó tốn chẳng bao. Cậu vẫn đang không biết làm gì với số tiền ấy. Howl đặt bút viết một lá thư hồi âm thật lịch sự, cố gạt bỏ những lời lẽ đầy gai của mình ra để gửi trả họ.
Howl đặt lá thư vào trong phong bao rồi để lại trên bàn. James sẽ đến phân loại và gửi chúng đi. Xét cho cùng, ông ta vẫn là một quản gia tận tụy, Howl cân nhắc giữ ông ta làm việc lâu dài.
Lá thư thứ hai cậu cầm lên là của Dommik Barbatos.
Ông ta gửi cho cậu bản chép tay của câu thần chú cổ. Howl chỉ nhìn lướt qua rồi để đấy. Nếu không phải do Hội đồng đang thúc giục, cậu cũng chẳng buồn để mắt đến chuyện này.
Howl bước vòng qua bàn, đến tủ rượu và khui một chai. Cậu rót đầy một ly rồi đặt nó lại vào tủ, đoạn quay qua cửa sổ nhìn cơn mưa trắng xóa. Ở chân trời hầu như không thể thấy gì ngoài màn sương dày. Khu mộ xa xa thấp thoáng hiện ra trong sương. Howl cũng đang suy tính dời khu mộ ấy vào nghĩa trang thành phố; nhưng cậu đoán sẽ nhiều người phản đối. Cứ nghĩ đến việc cha cậu đang nằm ở đấy, im lặng quan sát cậu và tòa lâu đài này khiến Howl rợn gáy. Có thể cậu sẽ xây một khu vườn, hay những nhà kính đón gió ở đấy. Bất cứ thứ gì vẫn hơn là một khu mộ lù lù sau lưng mình.
Một cái bóng thấp bé đang động đậy chỗ khu mộ.
Howl nheo mắt nhìn. Cỏ trắng xóa nước mưa. Khi người ta nhìn thấy một cái bóng sượt qua lần đầu, họ sẽ lờ nó đi. Nhưng khi nó lướt qua một lận nữa, và một lần nữa, nó sẽ thu hút được ánh mắt của tất cả những ai nhìn thấy. Bây giờ, tất cả những ai nhìn thấy chỉ có How, nhưng cậu không điên. Cậu tin vào chuyện ma. Phải. Và cậu tin vào Quỷ. Chỉ những kẻ ngây thơ mới không tin. Những kẻ ngây thơ và những kẻ điên. Cậu biết chắc có cái gì đó ở khu mộ.
Howl cầm lấy chiếc ô đặt ở cửa. Cậu bật nó lên. Trong khoảnh khắc khi chiếc ô xòe ra, quang cảnh quanh Howl thay đổi. Căn phòng cậu đang đứng như tan ra thành khói và bay đi, rồi cậu nghe thấy tiếng mưa đập chan chát lên ô. Có dưới chân cậu trắng khủng khiếp, Howl đang đứng giữa khu mộ mà bốn bề trắng xóa. Howl bước lên cỏ lạnh, tiến vào lối mòn trong khu mộ.
Khả năng dịch chuyển là khả năng bẩm sinh của Cambion, dù nó khá hạn chế vì nhiều nơi giăng bùa chống Cambion và vì thế sẽ không vào được. Giống như lâu đài Quỷ, không Cambion nào có thể dịch chuyển vào trong, nhưng nếu đã ở bên trong thì có thể dịch chuyển đi bất cứ đâu. Đôi khi Howl hơi lạm dụng khả năng này.
Rốt cuộc, ngoài những bia một tối xếp đều nhau chẳng còn gì khác. Hơi lạnh phả vào người Howl, chứa đầy trong buồng phổi cậu. Cậu nheo mắt nhìn quanh nhưng không thấy gì cả. Mưa kèm sương khiến tầm nhìn của cậu giảm rõ rệt. Những ngôi một thình lình hiện ra ở mỗi ngã rẽ, đen đúa và xấu xí. Howl định quay trở lại bên trong thì cái bóng lại sượt qua lưng cậu, Howl quay người lại nhưng nó đã biến mất.
Cậu đi trên các lối mòn lát đá như tìm kiếm thứ gì. Cỏ ngập nước, hoa héo, các gò đất ẩm, hàng rào dây leo, bia mộ trăng trắng khi ở gần và đen thui khi nhìn xa, chỉ có thế. Cậu không thể nhìn xa hơn, chỉ trông thấy một vệt đen kéo dài ở chân trời là khu rừng. Cái bóng đang đùa nghịch với cậu. Nó thoắt ẩn thoắt hiện, đôi khi Howl đã bắt gặp được nó nhưng chưa định hình được gì thì nó đã biến mất. Cậu chỉ cảm nhận được luồng không khí bị kéo về phía nó, cùng với âm thanh rúc rích như tiếng cười nửa thực nửa mơ trong không gian.
Howl ghét ma.
Chúng là đám phiền phức đích thực.
Trong bóng tối, những cái bóng cựa quậy. Chúng cựa quậy một cách lén lút như đang chơi trốn tìm với Howl. Ở bất cứ góc khuất nào cũng có thể xồ ra một thứ gì đấy gớm ghiếc. Howl gắng gạt những điều không tưởng đấy ra khỏi đầu.
Nó làm cậu đau tim khi đột nhiên cậu quay người lại và thấy nó đứng ở đấy, sau một bia mộ thấp. Sương làm nó trông như một ảo ảnh, một cái bóng đen thui không mặt mũi. Nó nhô đầu lên khỏi mộ như con mèo rình mồi.
Howl giữ chặt chiếc ô và đi lại gần ngôi mộ. Nó vẫn đứng im ở đấy. Khi Howl chỉ còn cách nó chừng hơn một mét thì một giọng nói vang lên sau lưng cậu:
“Anh làm gì thế?”
Chỉ một kẻ dám nói ngang hàng như thế với Howl. Cô ta còn đáng sợ hơn cả cái bóng. Howl nhìn lại ngôi một thì cái bóng đã biến mất từ khi nào. Cậu đột nhiên có cảm giác mình bị chơi xỏ. Tại sao cậu phải bận tâm đến một con ma thích phá phách chứ?
“Tôi thấy có người ngoài này.” Howl lấy lại giọng nói bình tĩnh của mình. “Tôi đoán là cô.”
“Và điều đó làm anh bận tâm sao?”
Đương nhiên là không, tôi mặc xác cô làm gì, tôi chỉ bị một con ma xỏ mũi. Nhưng Howl không nói thành tiếng đều đấy. Cậu chỉ cười. “Một chút.”
Howl bỗng thấy băn khoăn. Nếu cậu ra đây vì con ma chết tiệt ấy, liệu có phải cô ta cũng thế.
“Cô có thấy ai không?”
“Ý anh là ngoài anh ra?” Cô ta đưa mắt nhìn một vòng. “Tôi không nghĩ thế.”
Howl nhướn mày. “Đừng nói dối.”
Cô ta lườm cậu rồi quay người bước đi.
“Nếu anh nhìn thấy gì thì cũng đừng lo lắng quá.” Cô ta nói. “Chúng thích trêu chọc người khác. Nhưng chúng cũng vô hại thôi, chúng chỉ buồn chán. Tôi đoán thế.”
“Chúng ta có đang nói về cùng một thứ không thế, bởi vì…” Howl cầm chiếc ô đi theo cô ta. Cậu để lửng câu của mình, theo chân Angeline ra rìa ngoài khu mộ.
Cô chỉ ra ngoài xa. Ban đầu Howl chẳng trông thấy cái gì hết, nhưng rồi cậu nhận ra có một cái bóng xám lẫn vào mưa cùng sương đang đi lòng vòng. Nó chỉ đi lòng vòng, không xa hơn được một mét.
Rồi cô ta lại ngước lên nhìn các ô cửa sổ lâu đài. Hẳn là cô ta thấy gì đó mà cậu không thấy.
“Đang vào tuần trăng nên chúng xuất hiện suốt.” Angeline nói bằng giọng đều đều như thể đó là một điều hết sức bình thường, bình thường như những cơn mưa đến vào mùa mưa và tuyết tới trong mùa đông. “Nhưng rốt cuộc chúng cũng chẳng làm gì có hại cả. Nhiều kẻ trong số chúng còn chưa biết mình đã chết.”
Howl cảm thấy hơi khó chịu với cô ta. Cô ta là một người hầu nhưng có vẻ còn biết nhiều hơn cả chủ nhân của tòa lâu đài. Nếu cô ta sống ở đây từ nhỏ, hẳn cô ta cũng đã quen với những thứ kỳ dị này. Cậu biết đó không phải lỗi của cô ta nhưng cậu vẫn cảm thấy bứt rứt kỳ lạ.
“Cô không sợ chúng à?”
“Tôi nói rồi mà.” Cô ta ngước mắt nhìn cậu. “Chúng vô hại.”
“Cô có thấy hồn ma nào kỳ lạ không?” Cậu nhún vai, lờ mờ gợi ý. “Ừm, của một người nào đấy từng sống trong lâu đài. Giống Quỷ Vương chẳng hạn?”
Cậu bắt gặp ánh nhìn nghi hoặc của cô ta. “Không. Họ thường không ở lại. Tôi chưa thấy ai cả.”
Những hồn ma tồn tại là một chuyện, việc chúng có muốn nói chuyện hay xuất hiện không là một chuyện khác. Bọn chúng là những nhân chứng hoàn hảo nhất, tồn tại đủ lâu để chứng kiến mọi chuyện xảy ra với lâu đài. Nhưng chúng không bao giờ lên tiếng, Howl biết thế. Cái chết làm chúng thay đổi. Một khi biết mình đã chết, khó mà có thể nghĩ được như khi còn sống.
Howl nhìn thấy bó hoa tươi Angeline vừa đặt trên mộ Quỷ Vương. Đôi mắt cô ta lạnh và lặng thinh trong mưa, thẫn thờ nhìn ngôi mộ. Khó mà nói được rằng cô ta đang tiếc thương. Điều gì về Quỷ Vương làm cô ta ám ảnh đến thế?
“Ông ta đã chết được một tháng rồi.” Howl nói. “Cô còn lo lắng điều gì nữa?”
“Tôi không lo gì cả.” Cô mím môi, gương mặt trầm tư. “Nếu có cũng không phải về Quỷ Vương. Tôi lo cho Abigail.”
Nụ cười khiến đôi môi Howl trông mỏng đi. “Tôi có cần giả vờ như biết giữa cô và Abigail có gì không? Cô biết đấy…”
“Chúng tôi từng lớn lên cùng nhau.” Cô ta nói nhẹ như lông hồng.
Howl hơi băn khoăn khi nghe thấy từ “Chúng tôi”. Cậu im lặng chờ Angeline nói tiếp. Nếu lần lại được, biết đâu cậu sẽ tìm được kẻ đã giết Moldark?
“Đó là tất cả những gì tôi có.” Cô nói. “Lớn lên cùng nhau. Abigail đối xử rất tốt với tôi; chúng tôi từng là những đứa trẻ duy nhất trong lâu đài. Nhưng con bé không còn nói chuyện với tôi nữa.” Angeline ngừng một quãng như hồi tưởng đến một điều gì đó kinh khủng vô cùng. “Từ khi ông ta chết, nó không nói chuyện với tôi nữa.”
Howl tỏ ra nghi hoặc. “Cô cảm thấy… tội lỗi à?”
Cô ta liếc lên Howl, trừng mắt, không nói gì cả.
“Thôi được rồi.” Cậu thở hắt ra một tiếng. “Con bé có một người bạn tưởng tượng, thế là đã đủ hiểu rồi. Tôi nghĩ cô có thể giúp nó bớt cô đơn.”
“Bây giờ thì tôi không thể làm điều đó được nữa.”
Cô ta nhìn Howl, đôi mắt dịu xuống, rồi cầm chiếc ô của mình rời khỏi khu mộ. Hẳn cô ta về tòa tháp vì Howl thấy cô đi tới cánh rừng. Trong thời tiết này thì thật kỳ lạ.
Nhưng xét cho cùng, có điều gì về cô ta là không kỳ lạ đâu?
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook