Trái Tim Của Quỷ
-
Chương 14
MẢNH KÝ ỨC CUỐI CÙNG của Howl về Mẹ cũng đã phai nhạt theo thời gian.
Đó là vào những tháng cuối trước khi Howl được đưa tới Vampiton. Trong trí nhớ, mẹ cậu khá mờ nhạt. Như bức tranh treo ở hành lang lâu đài Quỷ, bà có nước da hơi trầm, thiếu sức sống. Bà sở hữu mái tóc vàng giống Howl, đôi mắt nâu, cái cằm nhỏ và má lúm đồng tiền. Myris hiếm khi ra khỏi lâu đài. Giống như một tù nhân, bà bị giam lỏng quanh các bức tường và tên cai ngục là cha cậu.
Lúc còn nhỏ, đôi khi Howl bị mộng du. Myris thức dậy lúc nửa đêm để đưa cậu về giường mình. Người mẹ có mùi hương của hoa nhài. Của rừng. Của sự ấm áp, của tình yêu. Howl không biết mẹ có yêu mình không, hay bà cũng khinh ghét cậu bởi cậu là con trai của Moldark.
Myris không cưới Moldark vì tình yêu, điều đấy ai cũng rõ và Howl cũng vậy. Bà thuộc một gia tộc Cambion nghèo khổ và trên đà tan rã, trong gia tộc không còn mấy người. Nếu bà cưới Moldark, ông ta sẽ lo tất cả. Tìm một dinh thự đẹp trong thành phố bên dòng Ner Rill cho người thân của bà, cho bà một cuộc sống không thiếu thốn gì, sung túc đến cuối đời.
Quả thật bà vẫn sống sung túc cho đến khi chết.
Vào ngày mùa xuân trước khi Howl rời khỏi lâu đài Quỷ, cậu nhớ đã thấy mẹ mình trồng những cái cây. “Rồi một ngày chúng sẽ lớn, con trai. Chúng đẹp đẽ và trong sạch. Chúng là những cái mầm không nhuốm bẩn, chúng sẽ soi sáng ngôi nhà của con.”
Cậu luôn nghĩ điều đó thật kỳ lạ.
Myris chết sau khi sinh Abigail vài tháng, trong một đám cháy ở ngọn tháp Tây của lâu đài. Howl đã không ở đó, cũng như không biết về sự tồn tại của tòa tháp này.
Angeline ngước đầu nhìn cậu. “Anh biết nó à?”
“Không. Theo trí nhớ của tôi thì vậy.”
Cậu không chờ cô ta mời vào, dù đúng ra đây là nhà của cô ta thật. Howl đẩy cánh cửa gỗ. Nó có một ổ khóa nhưng lúc này không bị khóa. Bên trong tối nhưng không lạnh lẽo như Howl tưởng tượng. Căn phòng mà Howl vừa bước vào đơn giản hơn bất cứ căn phòng nào trong lâu đài Quỷ. Nó khá khiêm tốn, có một bếp sưởi, một bộ bàn ghế gỗ. Trên gờ một bức tường có các chậu cây nhỏ đang hứng lấy ánh sáng từ cửa sổ. Cuối căn phòng là một gian bếp hẹp, sơ sài, và Howl nhìn thấy một cầu thang đi lên gác.
“Tòa tháp này có bao nhiêu tầng?”
“Hai tầng.” Cô gái ngẩng lên nhìn trần nhà. “Và một gác mái.”
“Cô đã sống ở đây bao lâu?”
Angeline im lặng, nhìn cậu ta chằm chằm. Dường như cô ta không thích những câu hỏi mà cậu đặt ra. Howl biết rõ sự khó chịu mình gây ra, nhưng cậu chỉ nhoẻn cười:
“Tôi hỏi thế thôi.”
“Mười hai.” Cô ta ngập ngừng. “Có thể là mười ba năm. Tôi không nhớ rõ.”
“Cô ở đây từ nhỏ rồi sao?” Cậu nhướn mày.
Howl cúi xuống tấm sàn gỗ. Có một cánh cửa sập bằng sắt ở trên sàn, được khóa chắc chắn. Cậu không nghĩ là nó được mở ra thường xuyên vì sắt đã gỉ sét hết cả.
“Không. Tôi được đưa đến đây bởi một hầu nữ.” Cô ta cắn môi, Howl ngẩng lên nhìn. “Mẹ tôi. Bà ấy mất vài năm trước ở lâu đài rồi.”
Mắt Howl hơi sáng lên. “Chà, bi kịch thật.” Rồi cậu quay lại với cái cửa sập.
Đây là một điều đặc biệt. Ở vùng Bóng tối, bạn phải tập đọc vị người khác trước khi học bất cứ điều gì. Đấy không phải điều bắt buộc, nhưng nhờ đó người vùng Bóng tối luôn có đôi mắt và cảm nhận hơn người vùng Ánh sáng. Họ có thể đoán ai là người như thế nào chỉ bởi một hai lần tiếp xúc và nói chuyện. Nó thuộc về bản năng và Howl giỏi phát triển khả năng đấy của mình. Hơn nữa cậu còn có lợi thế về tâm trí. Bởi vậy, chẳng cần nghi ngờ thêm, cậu biết chắc cô ta đang nói dối.
“Anh không mở được đâu.” Giọng cô ta trầm lại. Tông giọng đó khiến sống lưng Howl lạnh buốt. “Trừ khi anh có chìa khóa.”
Cảm tưởng như đằng sau mình là một kẻ sát nhân và hắn đang giơ con dao lên, chuẩn bị đâm xuống, Howl vội đứng dậy. Cái chết của Quỷ vương là ví dụ điển hình cho sự thiếu cảnh giác. Ông ta tưởng rằng mình là bất bại cho đến khi bị chôn xuống mồ. Howl không cho phép mình lơ là như thế, hoặc cậu sẽ có kết cục giống ông ta.
Đôi mắt xinh đẹp nhưng khó gần của cô ta như ngầm ý đuổi Howl đi. Nhưng rõ ràng cậu không phải là loại người quan tâm đến người khác nghĩ gì. Ngược lại là khác:
“Cô có hay ra vào lâu đài Quỷ không?”
Cô ta lắc đầu, rồi đi vào bếp. “Chỉ khi tôi mang táo đến.”
“Phải rồi, cây táo của cô. Nó hết mùa quả rồi thì phải.”
Howl nghe thấy trong bếp tiếng lách cách của cốc thìa. Âm thanh ấy chợt dừng lại một quãng ngắn khi Howl hỏi thế.
“Nếu anh muốn ăn,…” Cô ta nói. “Tôi sẽ mang đến cho anh.”
Cô ta mang cốc nước nóng đến cho Howl, đưa cậu bằng cả hai bàn tay. Những ngón tay cô ta trắng trẻo và thon đẹp, làn da căng mịn sức sống. Nhưng lòng bàn tay vẫn có những mảng da chai sạn.
“Không có thuốc độc đâu mà sợ.”
Cô ta nói khi thấy cậu chần chừ. Sẽ bớt đáng sợ hơn nếu cô ta không nói ra điều đấy. Howl nhếch khóe môi thành một nụ cười:
“Kể cả nếu có, cũng khó mà giết được tôi.”
Howl cầm lấy cốc nước mà uống. Trong khoảnh khắc đó, cậu đã rất chắc chắn cô ta bỏ thứ gì đó vào nước. Nhưng cậu vẫn uống, vì cậu không thể tỏ ra sợ hãi. Cậu không thể hạ mình, hèn nhát trước một người hầu.
“Tôi phải đi đây.” Howl đặt ly nước xuống bàn. “Phải làm thịt con hươu khi nó còn tươi.”
“Để tôi tiễn anh ra.”
Cậu bật cười. “Giờ thì cô tỏ ra lịch sự. Có phải vì tôi uống thuốc độc của cô không vậy?”
Cô ta không trả lời, đi lướt qua Howl và mở cửa trước. Cậu xốc lại ống cung trên vai, rồi đi theo Angeline ra ngoài. Được rồi, không thể nói rằng cậu không có chút nghi ngờ nào về ly nước đấy. Nhưng cho đến giờ cậu vẫn ổn, không chóng mặt, đau đầu hay buồn ngủ. Rồi Howl chợt nghĩ cô ta chỉ đùa. Cô ta cũng như nhiều người hầu khác đều biết việc Moldark bị hạ độc, một chút chơi đùa với sự cảnh giác của cậu và chỉ có thế.
Howl ra khỏi tòa tháp thì chợt nghe thấy tiếng loạt soạt ở bên trái mình. Cậu bước thật nhẹ nhàng về phía đó, thấy sau tán lá có một con gà nhỏ. Nó đứng ở trên một cành cây đổ, một loại gà rừng nào đấy. Howl giương cung lên bắn, sau đó xách con gà đang còn cắm nguyên mũi tên quay lại.
“Có vẻ anh giỏi dùng cung.” Cô ta vừa nói, vừa nhìn con gà.
“Bình thường thôi. Tôi dùng kiếm khá hơn.” Cậu gõ nhẹ một đầu cây cung vào thái dương mình. “Đây mới là thứ tôi giỏi.”
Angeline cau mày. “Đầu óc à?”
Howl cười khẩy, cậu rút mũi tên ra khỏi con gà rừng. “Cứ cho là thế đi. Cô có biết cách nấu không?”
“Đôi khi tôi giúp việc trong nhà bếp.” Cô ta bối rối.
“Đây.” Câu cầm chân con gà giơ lên. “Bữa trưa.”
Trông cô ta còn bối rối hơn cả khi nãy. “Tôi có thể tới lâu đài lấy thức ăn.”
“Lời cảm ơn nho nhỏ thôi. Cô không nhận thì cô thiệt.”
Cậu nhoẻn cười.
Angeline cầm lấy con gà rừng. Nó không to quá nhưng đủ cho cả bữa trưa và tối. Cô ta gật đầu như cảm ơn.
“Tôi đi đây. Hẹn gặp lại.”
Khi nói xong, Howl mới cảm thấy kỳ lạ. Cậu không định nói thế, chỉ là buột miệng. Cậu cũng không nghĩ gặp lại cô ta để làm gì nữa.
“Một việc nữa.” Cô ta chợt lên tiếng, níu Howl lại vài giây. “Tôi chẳng bỏ gì vào trong cốc nước cả.”
“Thật tốt khi nghe điều đấy.” Cậu cười rồi bỏ đi, quay trở lại chỗ con ngựa khi nãy. Bằng một cách nào đấy, Howl tin cô ta nói thật.
Dẫu sao, cậu cũng đã uống cốc nước đó. Kể cả nó có độc thật thì không phải hay hơn là tin rằng nó không có sao?
Đó là vào những tháng cuối trước khi Howl được đưa tới Vampiton. Trong trí nhớ, mẹ cậu khá mờ nhạt. Như bức tranh treo ở hành lang lâu đài Quỷ, bà có nước da hơi trầm, thiếu sức sống. Bà sở hữu mái tóc vàng giống Howl, đôi mắt nâu, cái cằm nhỏ và má lúm đồng tiền. Myris hiếm khi ra khỏi lâu đài. Giống như một tù nhân, bà bị giam lỏng quanh các bức tường và tên cai ngục là cha cậu.
Lúc còn nhỏ, đôi khi Howl bị mộng du. Myris thức dậy lúc nửa đêm để đưa cậu về giường mình. Người mẹ có mùi hương của hoa nhài. Của rừng. Của sự ấm áp, của tình yêu. Howl không biết mẹ có yêu mình không, hay bà cũng khinh ghét cậu bởi cậu là con trai của Moldark.
Myris không cưới Moldark vì tình yêu, điều đấy ai cũng rõ và Howl cũng vậy. Bà thuộc một gia tộc Cambion nghèo khổ và trên đà tan rã, trong gia tộc không còn mấy người. Nếu bà cưới Moldark, ông ta sẽ lo tất cả. Tìm một dinh thự đẹp trong thành phố bên dòng Ner Rill cho người thân của bà, cho bà một cuộc sống không thiếu thốn gì, sung túc đến cuối đời.
Quả thật bà vẫn sống sung túc cho đến khi chết.
Vào ngày mùa xuân trước khi Howl rời khỏi lâu đài Quỷ, cậu nhớ đã thấy mẹ mình trồng những cái cây. “Rồi một ngày chúng sẽ lớn, con trai. Chúng đẹp đẽ và trong sạch. Chúng là những cái mầm không nhuốm bẩn, chúng sẽ soi sáng ngôi nhà của con.”
Cậu luôn nghĩ điều đó thật kỳ lạ.
Myris chết sau khi sinh Abigail vài tháng, trong một đám cháy ở ngọn tháp Tây của lâu đài. Howl đã không ở đó, cũng như không biết về sự tồn tại của tòa tháp này.
Angeline ngước đầu nhìn cậu. “Anh biết nó à?”
“Không. Theo trí nhớ của tôi thì vậy.”
Cậu không chờ cô ta mời vào, dù đúng ra đây là nhà của cô ta thật. Howl đẩy cánh cửa gỗ. Nó có một ổ khóa nhưng lúc này không bị khóa. Bên trong tối nhưng không lạnh lẽo như Howl tưởng tượng. Căn phòng mà Howl vừa bước vào đơn giản hơn bất cứ căn phòng nào trong lâu đài Quỷ. Nó khá khiêm tốn, có một bếp sưởi, một bộ bàn ghế gỗ. Trên gờ một bức tường có các chậu cây nhỏ đang hứng lấy ánh sáng từ cửa sổ. Cuối căn phòng là một gian bếp hẹp, sơ sài, và Howl nhìn thấy một cầu thang đi lên gác.
“Tòa tháp này có bao nhiêu tầng?”
“Hai tầng.” Cô gái ngẩng lên nhìn trần nhà. “Và một gác mái.”
“Cô đã sống ở đây bao lâu?”
Angeline im lặng, nhìn cậu ta chằm chằm. Dường như cô ta không thích những câu hỏi mà cậu đặt ra. Howl biết rõ sự khó chịu mình gây ra, nhưng cậu chỉ nhoẻn cười:
“Tôi hỏi thế thôi.”
“Mười hai.” Cô ta ngập ngừng. “Có thể là mười ba năm. Tôi không nhớ rõ.”
“Cô ở đây từ nhỏ rồi sao?” Cậu nhướn mày.
Howl cúi xuống tấm sàn gỗ. Có một cánh cửa sập bằng sắt ở trên sàn, được khóa chắc chắn. Cậu không nghĩ là nó được mở ra thường xuyên vì sắt đã gỉ sét hết cả.
“Không. Tôi được đưa đến đây bởi một hầu nữ.” Cô ta cắn môi, Howl ngẩng lên nhìn. “Mẹ tôi. Bà ấy mất vài năm trước ở lâu đài rồi.”
Mắt Howl hơi sáng lên. “Chà, bi kịch thật.” Rồi cậu quay lại với cái cửa sập.
Đây là một điều đặc biệt. Ở vùng Bóng tối, bạn phải tập đọc vị người khác trước khi học bất cứ điều gì. Đấy không phải điều bắt buộc, nhưng nhờ đó người vùng Bóng tối luôn có đôi mắt và cảm nhận hơn người vùng Ánh sáng. Họ có thể đoán ai là người như thế nào chỉ bởi một hai lần tiếp xúc và nói chuyện. Nó thuộc về bản năng và Howl giỏi phát triển khả năng đấy của mình. Hơn nữa cậu còn có lợi thế về tâm trí. Bởi vậy, chẳng cần nghi ngờ thêm, cậu biết chắc cô ta đang nói dối.
“Anh không mở được đâu.” Giọng cô ta trầm lại. Tông giọng đó khiến sống lưng Howl lạnh buốt. “Trừ khi anh có chìa khóa.”
Cảm tưởng như đằng sau mình là một kẻ sát nhân và hắn đang giơ con dao lên, chuẩn bị đâm xuống, Howl vội đứng dậy. Cái chết của Quỷ vương là ví dụ điển hình cho sự thiếu cảnh giác. Ông ta tưởng rằng mình là bất bại cho đến khi bị chôn xuống mồ. Howl không cho phép mình lơ là như thế, hoặc cậu sẽ có kết cục giống ông ta.
Đôi mắt xinh đẹp nhưng khó gần của cô ta như ngầm ý đuổi Howl đi. Nhưng rõ ràng cậu không phải là loại người quan tâm đến người khác nghĩ gì. Ngược lại là khác:
“Cô có hay ra vào lâu đài Quỷ không?”
Cô ta lắc đầu, rồi đi vào bếp. “Chỉ khi tôi mang táo đến.”
“Phải rồi, cây táo của cô. Nó hết mùa quả rồi thì phải.”
Howl nghe thấy trong bếp tiếng lách cách của cốc thìa. Âm thanh ấy chợt dừng lại một quãng ngắn khi Howl hỏi thế.
“Nếu anh muốn ăn,…” Cô ta nói. “Tôi sẽ mang đến cho anh.”
Cô ta mang cốc nước nóng đến cho Howl, đưa cậu bằng cả hai bàn tay. Những ngón tay cô ta trắng trẻo và thon đẹp, làn da căng mịn sức sống. Nhưng lòng bàn tay vẫn có những mảng da chai sạn.
“Không có thuốc độc đâu mà sợ.”
Cô ta nói khi thấy cậu chần chừ. Sẽ bớt đáng sợ hơn nếu cô ta không nói ra điều đấy. Howl nhếch khóe môi thành một nụ cười:
“Kể cả nếu có, cũng khó mà giết được tôi.”
Howl cầm lấy cốc nước mà uống. Trong khoảnh khắc đó, cậu đã rất chắc chắn cô ta bỏ thứ gì đó vào nước. Nhưng cậu vẫn uống, vì cậu không thể tỏ ra sợ hãi. Cậu không thể hạ mình, hèn nhát trước một người hầu.
“Tôi phải đi đây.” Howl đặt ly nước xuống bàn. “Phải làm thịt con hươu khi nó còn tươi.”
“Để tôi tiễn anh ra.”
Cậu bật cười. “Giờ thì cô tỏ ra lịch sự. Có phải vì tôi uống thuốc độc của cô không vậy?”
Cô ta không trả lời, đi lướt qua Howl và mở cửa trước. Cậu xốc lại ống cung trên vai, rồi đi theo Angeline ra ngoài. Được rồi, không thể nói rằng cậu không có chút nghi ngờ nào về ly nước đấy. Nhưng cho đến giờ cậu vẫn ổn, không chóng mặt, đau đầu hay buồn ngủ. Rồi Howl chợt nghĩ cô ta chỉ đùa. Cô ta cũng như nhiều người hầu khác đều biết việc Moldark bị hạ độc, một chút chơi đùa với sự cảnh giác của cậu và chỉ có thế.
Howl ra khỏi tòa tháp thì chợt nghe thấy tiếng loạt soạt ở bên trái mình. Cậu bước thật nhẹ nhàng về phía đó, thấy sau tán lá có một con gà nhỏ. Nó đứng ở trên một cành cây đổ, một loại gà rừng nào đấy. Howl giương cung lên bắn, sau đó xách con gà đang còn cắm nguyên mũi tên quay lại.
“Có vẻ anh giỏi dùng cung.” Cô ta vừa nói, vừa nhìn con gà.
“Bình thường thôi. Tôi dùng kiếm khá hơn.” Cậu gõ nhẹ một đầu cây cung vào thái dương mình. “Đây mới là thứ tôi giỏi.”
Angeline cau mày. “Đầu óc à?”
Howl cười khẩy, cậu rút mũi tên ra khỏi con gà rừng. “Cứ cho là thế đi. Cô có biết cách nấu không?”
“Đôi khi tôi giúp việc trong nhà bếp.” Cô ta bối rối.
“Đây.” Câu cầm chân con gà giơ lên. “Bữa trưa.”
Trông cô ta còn bối rối hơn cả khi nãy. “Tôi có thể tới lâu đài lấy thức ăn.”
“Lời cảm ơn nho nhỏ thôi. Cô không nhận thì cô thiệt.”
Cậu nhoẻn cười.
Angeline cầm lấy con gà rừng. Nó không to quá nhưng đủ cho cả bữa trưa và tối. Cô ta gật đầu như cảm ơn.
“Tôi đi đây. Hẹn gặp lại.”
Khi nói xong, Howl mới cảm thấy kỳ lạ. Cậu không định nói thế, chỉ là buột miệng. Cậu cũng không nghĩ gặp lại cô ta để làm gì nữa.
“Một việc nữa.” Cô ta chợt lên tiếng, níu Howl lại vài giây. “Tôi chẳng bỏ gì vào trong cốc nước cả.”
“Thật tốt khi nghe điều đấy.” Cậu cười rồi bỏ đi, quay trở lại chỗ con ngựa khi nãy. Bằng một cách nào đấy, Howl tin cô ta nói thật.
Dẫu sao, cậu cũng đã uống cốc nước đó. Kể cả nó có độc thật thì không phải hay hơn là tin rằng nó không có sao?
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook