Tokyo Hoàng Đạo Án
-
Chương 7: Cảnh 2: Bức vẽ thứ 12
“Không, không thể như vậy được,” Kiyoshi nói. “Tên giết người chắc hẳn phải đào thoát qua một lối đi bí mật!”
“Anh nói đúng. Nhưng cảnh sát đã kiểm tra mọi ngóc ngách. Không có lối ra nào khác, chả nhẽ hung thủ lại nhảy xuống bồn cầu và thoát ra bằng đường ống à! Không thể nào. Bây giờ hãy xem xét đến xưởng vẽ, có hai điều rất kỳ lạ. Thứ nhất là giường của Heikichi không dựa vào tường như trong hình minh họa. Chúng ta biết là cái giường có thể di chuyển xung quanh phòng, nên điều này là hoàn toàn bình thường, nhưng biết đâu đây lại là đầu mối quan trọng. Thứ hai là Heikichi luôn để râu. Nhưng khi phát hiện ra xác ông ấy, bộ râu đã bị cắt một nửa. Những chứng cứ trên hiện trường cho thấy việc này không thể do ông ấy tự làm mà do người khác dùng kéo cắt. Mấy sợi râu vương vãi gần xác chết nhưng không hề có cái kéo hay dao cạo nào trong xưởng vẽ cả.”
“Heikichi và em trai là Yoshio trông rất giống nhau, có khả năng họ là anh em sinh đôi, thiên hạ đồn rằng người bị giết thật ra là Yoshio. Có thể Heikichi đã viện một lý do để mời em trai đến xưởng vẽ của mình, giết ông em rồi bỏ đi hoặc ngược lại. Mặc dù giả thiết này không được coi trọng lắm, nhưng không thể loại trừ chuyện nhận diện nhầm tử thi bởi vì chưa ai trong gia đình thấy Heikichi không để râu với cái đầu dập nát. Heikichi say mê nghệ thuật đến điên cuồng nên có vẻ như ông ta sẽ làm mọi việc để tạo ra Azoth.”
“Chậc, đó là tất cả những gì được biết về hiện trường. Chúng ta sẽ chuyển sang những chứng cứ vắng mặt của các nghi phạm chứ?”
“Đợi một chút…”
“Gì vậy?”
“Anh giải thích nhanh quá! Tôi chẳng kịp ngẫm các sự kiện.”
“Anh lại đùa tôi rồi!”
“Không. Tôi muốn biết thêm về Heikichi khi bị khóa ở bên trong. Chẳng phải mọi người đã suy nghĩ nát óc về chuyện đó cũng như bí ẩn của những dấu giày ư?”
“Ừ, suy nghĩ suốt bốn mươi năm rồi.”
“Hãy nói thêm cho tôi nghe về xưởng vẽ.”
“Được rồi. Hy vọng tôi có thể nhớ được tất cả các chi tiết. Mái xưởng vẽ cao ngang một tòa nhà hai tầng, cho nên dù dựng đứng giường lên thì cũng không thể với tới trần nhà. Hơn nữa các cửa trời đều có song sắt và không hề có thang trong xưởng vẽ. Ống khói lò sưởi được làm bằng thiếc nhưng nó quá mỏng, vả lại than vẫn đang tiếp tục cháy trong lò, chắc chắn không ai có thể leo qua lối đó được, kể cả ông già Nô-en. Dĩ nhiên có một lỗ trên tường để gắn đường ống nhưng quá nhỏ so với một cái đầu. Đó là tất cả những gì tôi nhớ. Thật sự không có đường khác để ra khỏi xưởng vẽ.”
“Cửa sổ có rèm không?”
“Có một số. Gần giường ngủ ở mạn phía bắc của xưởng vẽ có tìm thấy một cây gậy dài để đóng mở rèm, cách cửa sổ khá xa.”
“Thế à. Cửa sổ có đóng không?”
“Một số khóa, một số không.”
“Thế còn cửa sổ phía trên vị trí tìm thấy dấu giày của người đàn ông?”
“Nó không khóa.”
“Tôi hiểu. Còn có gì khác trong xưởng vẽ không?”
“Không nhiều lắm, anh có thể thấy rõ trong hình minh họa: Một bàn làm việc, một ít sơn và màu vẽ, vài cái bút, quyển sổ tay mà Heikichi viết những ghi chép của mình, một cái đồng hồ đeo tay, ít tiền mặt và một tấm bản đồ. Tôi nghĩ tất cả chỉ có thể. Không có sách, báo hay tạp chí và cũng chẳng có đài đóm gì cả. Ông Umezawa không muốn bất kỳ thứ gì của đời sống thế tục xâm nhập vào xưởng vẽ.”
“Tôi thấy bức tường của khu nhà có một cánh cổng. Nó có khóa không?”
“Nó có thể khóa từ bên trong, nhưng khóa đã bị hỏng. Có thể giật mạnh và mở cổng từ bên ngoài một cách dễ dàng.”
“Không an toàn cho lắm.”
“Chính xác, rất không an toàn. À, còn nữa, vào lúc bị giết, Heikichi rất gầy do bị mất ngủ thường xuyên và không ăn được nhiều.”
“Hừm. Ông ta ốm yếu và ở trong một căn phòng khóa chặt… bị giết từ phía sau bởi một kẻ thậm chí không buồn làm giả hiện trường cho giống một vụ tự tử. Nào, Kazumi, tại sao anh nghĩ là hung thủ đã khóa xưởng vẽ?”
Tôi đã chuẩn bị sẵn cho câu hỏi này. “À, hãy nghĩ về những viên thuốc ngủ,” tôi trả lời. “Khi Heikichi uống thuốc, ông ấy đang tiếp một hoặc hai vị khách. Vì thế chắc chắn anh phải đoán rằng ít nhất một trong số họ không phải người lạ.”
“Hừm. Ông ấy có bạn bè nào không?”
“Có vài họa sĩ ông ấy đã gặp ở phòng trưng bày de Médicis và mấy người khách ở quán rượu nhỏ tên là Kakinoki. Umezawa liên tục đến đó và quen biết hai khách hàng thường xuyên là: Genzo Ogata, ông chủ một nhà máy sản xuất ma-nơ-canh và Tamio Yasukawa, nhân viên của Ogata. Nhưng họ không phải là bạn bè thân thiết. Một người quen nữa thỉnh thoảng cũng ghé thăm xưởng vẽ nhưng không thể gọi người đó là bạn thân được.”
“Thế còn Yoshio thì sao? Hay Heitaro? Họ biết Heikichi khá rõ.”
“Chứng cứ ngoại phạm của họ đã được xác minh mặc dù họ không có nhiều nhân chứng. Vào đêm ngày 25, Heitaro đánh bài với mẹ và một vài người bạn ghé chơi sau khi phòng tranh đóng cửa. Những người khách ra về lúc 10 giờ 20 phút và hai mẹ con họ lên phòng ngủ trên gác lúc 10 giờ 30 phút. Nếu Heitaro là kẻ giết người, anh ta không thể chạy như bay đến xưởng vẽ của Heikichi trong vòng ba mươi hoặc bốn mươi phút để ra tay được. Ngay cả khi không có tuyết thì cũng rất khó đi từ Ginza đến Meguro nhanh như thế, tuyết rơi dày như hôm đó thì càng không thể. Tuy nhiên, nếu Heitaro âm mưu cùng mẹ giết Umezawa thì họ có thể ra khỏi phòng tranh ngay sau khi bạn bè ra về. Như vậy họ có thể gây án trong khoảng thời gian giả định của vụ giết người. Nhưng động cơ của họ là gì? Heitaro thì có thể cho rằng Heikichi là cha của cậu ấy và hận ông ta vì sự vô trách nhiệm và những đau khổ mà ông ta đã gây ra cho mẹ cậu. Tuy nhiên, Yasue không có lý do gì thù ghét Heikichi; đã có thời gian bà rất gắn bó với ông và bây giờ bà đang là đối tác duy nhất độc quyền kinh doanh các tác phẩm của ông ấy. Đúng là tranh của Heikichi được bán với giá rất cao sau khi ông chết, đặc biệt là sau chiến tranh. Nhưng Yasue không có ràng buộc với Heikichi, cho nên bà ấy không được lợi và sẽ chẳng bao giờ được lợi gì từ cái chết của ông ấy.”
“Ừm.”
“Còn Yoshio, em trai của Heikichi, thì đã đến Tohoku vào ngày 25 tháng Hai và trở về nhà vào khoảng nửa đêm ngày 27. Vào thời điểm vụ giết người, Yoshio đang trên đường đến gặp những người bạn ở Tsugaru. Thực sự ông ta có đến đó. Đây là một câu chuyện dài nhưng tôi sẽ nói qua cho anh các tình tiết chính. Ông ấy có chứng cứ ngoại phạm, nhưng như với một số nghi phạm khác, đặc biệt là đám phụ nữ, bằng chứng ngoại phạm không được chặt chẽ cho lắm. Ví dụ như vợ của Yoshio: bà ở một mình trong khi chồng đi vắng, hai cô con gái đang ở cùng Masako. Bà không có chứng cứ ngoại phạm.”
“Nếu bà ta chính là người mẫu thì sao?”
“Lúc đó bà ta đã 46 tuổi. Không lẽ Heikichi có thiên hướng vẽ một mụ nạ dòng ở tuổi sồn sồn?”
“Hừm…”
“Tiếp đến là cô con gái lớn của Kazue. Cô này đã ly hôn và sống một mình ở Kaminoge, khi đó vẫn là một thị trấn khá hẻo lánh. Kazue cũng không có chứng cứ ngoại phạm. Masako thì ở nhà chính ăn tối với các con gái là Tomoko, Akiko, Yukiko và cùng các cháu gái là Rieko và Nobuyo. Lúc 10 giờ đêm, tất cả đều đi ngủ. Và Tokiko thì ở nhà mẹ đẻ tại Hoya.”
“Ngôi nhà chính có sáu phòng ngủ chưa kể bếp và phòng khách, nơi các cô con gái tập múa ba lê và dương cầm. Phòng ngủ của Masako, Tomoko và Akiko ở tầng trệt. Trên gác, Reiko và Nobuyo chung một phòng gần cầu thang nhất, kế bên là phòng của Yukiko và phòng còn lại của Tokiko. Heikichi chủ yếu sống trong xưởng vẽ của ông ấy.”
“Bất kỳ ai trong số những phụ nữ này cũng đều có thể lẻn ra khỏi phòng mình vào ban đêm, nhưng lại không hề có dấu giày xung quanh ngôi nhà chính. Giả sử nếu họ lẻn ra đường từ cửa trước thì họ có thể đi xung quanh khu nhà và vào qua cổng sau. Sáng ngày 26, Tomoko xúc tuyết ở các bậc cấp đá từ sáng sớm và cho biết chỉ có dấu giày của thằng bé đưa báo, tất nhiên không có nhân chứng nào khác chứng thực lời cô. Masako cũng đã xác nhận rằng buổi sáng khi bà thức dậy, không có bất cứ dấu giày nào gần bức tường bao quanh khu nhà chăng dây thép gai bên trên khiến cho việc men theo hoặc trèo qua tường là hoàn toàn không thể.”
“Vợ cũ của Heikichi, bà Tae, và con gái Tokiko làm chứng cho nhau. Tae nói rằng Tokiko ở chỗ bà ấy vào ngày 25. Trong số các con gái, chỉ có Tokiko có chứng cứ ngoại phạm được người khác chứng thực, nhưng vì đó lại là mẹ ruột nên chứng cứ ngoại phạm của Tokiko không hoàn toàn đáng tin cậy.”
“Tôi hiểu. Vì vậy tất cả đều là đối tượng tình nghi. Nào, thế còn cô người mẫu bí ẩn chưa bao giờ xuất hiện thì sao?”
“Ồ, cảnh sát nghi ngờ rằng dấu giày nữ có thể do một người mẫu để lại. Umezawa thường thuê người mẫu qua Câu lạc bộ Người mẫu Fuyo ở Ginza, hoặc qua một trong những mối quen của Yasue. Nhưng không tìm ra ai làm mẫu cho Umezawa vào ngày 25. Ngoài ra, theo lời Yasue, Umezawa đã rất phấn khích vì tìm được một người mẫu phù hợp hoàn toàn với những gì ông ấy yêu cầu. Ông ta thực sự cảm thấy hạnh phúc vì đã tìm được thiếu nữ trong mơ của mình. Umezawa dự định sẽ dành tất cả nhiệt huyết để hoàn thành bức tranh này, bởi vì nó sẽ là cơ hội cuối cùng để ông ấy làm được việc gì đó lớn lao.”
“Ừm,” Kiyoshi lầm bầm. Cậu ta nhắm mắt và nằm ườn trên tràng kỷ.
“Anh vẫn đang nghe tôi đấy chứ?” Tôi hỏi. “Tôi kể toàn bộ câu chuyện chỉ vì muốn tốt cho anh đấy! Tiếp tục nào!”
“Tất nhiên là tôi đang nghe! Tiếp tục đi nào anh bạn…”
“Cô người mẫu mà Umezawa muốn vẽ là một người cung Bạch Dương, giống với cung chủ đề của bức tranh còn lại, anh nhớ nhé. Ông ấy có thể sử dụng con gái mình là Tokiko, người thuộc cung Bạch Dương, nhưng cảnh sát suy luận rằng Heikichi đã mời một người khác bởi vì người mẫu này chắc chắn phải khỏa thân.”
“Đúng đấy.”
“Vì vậy cảnh sát đã tới tất cả các địa điểm môi giới ở Tokyo để tìm kiếm một người mẫu giống Tokiko. Cuộc điều tra kéo dài một tháng, nhưng họ không tìm thấy ai cả. Sau Sự kiện 26-3, cảnh sát quá bận rộn nên không thể tiếp tục điều tra, vụ Heikichi bị khép lại. Họ kết luận rằng ông Umezawa chắc hẳn đã thuê một cô gái trên đường hoặc trong quán rượu. Có thể cô ta rất cần tiền và sẵn sàng làm mẫu khỏa thân nhưng lại muốn giữ kín chuyện đó. Có thể cô ta đã có chồng. Nhưng dù sao thì người mẫu đó cũng chẳng bao giờ xuất hiện.”
“Tất nhiên là không đời nào nếu cô ta phạm tội!” Kiyoshi lên tiếng.
“Hả?”
“Chậc, hãy cứ cho rằng cô người mẫu đã giết Heikichi,” cậu tiếp tục. “Cô ta có thể che giấu dấu giày của mình bằng giày của đàn ông, đúng không? Do đó…”
“Anh nói đúng. Nhưng cảnh sát đã kiểm tra mọi ngóc ngách. Không có lối ra nào khác, chả nhẽ hung thủ lại nhảy xuống bồn cầu và thoát ra bằng đường ống à! Không thể nào. Bây giờ hãy xem xét đến xưởng vẽ, có hai điều rất kỳ lạ. Thứ nhất là giường của Heikichi không dựa vào tường như trong hình minh họa. Chúng ta biết là cái giường có thể di chuyển xung quanh phòng, nên điều này là hoàn toàn bình thường, nhưng biết đâu đây lại là đầu mối quan trọng. Thứ hai là Heikichi luôn để râu. Nhưng khi phát hiện ra xác ông ấy, bộ râu đã bị cắt một nửa. Những chứng cứ trên hiện trường cho thấy việc này không thể do ông ấy tự làm mà do người khác dùng kéo cắt. Mấy sợi râu vương vãi gần xác chết nhưng không hề có cái kéo hay dao cạo nào trong xưởng vẽ cả.”
“Heikichi và em trai là Yoshio trông rất giống nhau, có khả năng họ là anh em sinh đôi, thiên hạ đồn rằng người bị giết thật ra là Yoshio. Có thể Heikichi đã viện một lý do để mời em trai đến xưởng vẽ của mình, giết ông em rồi bỏ đi hoặc ngược lại. Mặc dù giả thiết này không được coi trọng lắm, nhưng không thể loại trừ chuyện nhận diện nhầm tử thi bởi vì chưa ai trong gia đình thấy Heikichi không để râu với cái đầu dập nát. Heikichi say mê nghệ thuật đến điên cuồng nên có vẻ như ông ta sẽ làm mọi việc để tạo ra Azoth.”
“Chậc, đó là tất cả những gì được biết về hiện trường. Chúng ta sẽ chuyển sang những chứng cứ vắng mặt của các nghi phạm chứ?”
“Đợi một chút…”
“Gì vậy?”
“Anh giải thích nhanh quá! Tôi chẳng kịp ngẫm các sự kiện.”
“Anh lại đùa tôi rồi!”
“Không. Tôi muốn biết thêm về Heikichi khi bị khóa ở bên trong. Chẳng phải mọi người đã suy nghĩ nát óc về chuyện đó cũng như bí ẩn của những dấu giày ư?”
“Ừ, suy nghĩ suốt bốn mươi năm rồi.”
“Hãy nói thêm cho tôi nghe về xưởng vẽ.”
“Được rồi. Hy vọng tôi có thể nhớ được tất cả các chi tiết. Mái xưởng vẽ cao ngang một tòa nhà hai tầng, cho nên dù dựng đứng giường lên thì cũng không thể với tới trần nhà. Hơn nữa các cửa trời đều có song sắt và không hề có thang trong xưởng vẽ. Ống khói lò sưởi được làm bằng thiếc nhưng nó quá mỏng, vả lại than vẫn đang tiếp tục cháy trong lò, chắc chắn không ai có thể leo qua lối đó được, kể cả ông già Nô-en. Dĩ nhiên có một lỗ trên tường để gắn đường ống nhưng quá nhỏ so với một cái đầu. Đó là tất cả những gì tôi nhớ. Thật sự không có đường khác để ra khỏi xưởng vẽ.”
“Cửa sổ có rèm không?”
“Có một số. Gần giường ngủ ở mạn phía bắc của xưởng vẽ có tìm thấy một cây gậy dài để đóng mở rèm, cách cửa sổ khá xa.”
“Thế à. Cửa sổ có đóng không?”
“Một số khóa, một số không.”
“Thế còn cửa sổ phía trên vị trí tìm thấy dấu giày của người đàn ông?”
“Nó không khóa.”
“Tôi hiểu. Còn có gì khác trong xưởng vẽ không?”
“Không nhiều lắm, anh có thể thấy rõ trong hình minh họa: Một bàn làm việc, một ít sơn và màu vẽ, vài cái bút, quyển sổ tay mà Heikichi viết những ghi chép của mình, một cái đồng hồ đeo tay, ít tiền mặt và một tấm bản đồ. Tôi nghĩ tất cả chỉ có thể. Không có sách, báo hay tạp chí và cũng chẳng có đài đóm gì cả. Ông Umezawa không muốn bất kỳ thứ gì của đời sống thế tục xâm nhập vào xưởng vẽ.”
“Tôi thấy bức tường của khu nhà có một cánh cổng. Nó có khóa không?”
“Nó có thể khóa từ bên trong, nhưng khóa đã bị hỏng. Có thể giật mạnh và mở cổng từ bên ngoài một cách dễ dàng.”
“Không an toàn cho lắm.”
“Chính xác, rất không an toàn. À, còn nữa, vào lúc bị giết, Heikichi rất gầy do bị mất ngủ thường xuyên và không ăn được nhiều.”
“Hừm. Ông ta ốm yếu và ở trong một căn phòng khóa chặt… bị giết từ phía sau bởi một kẻ thậm chí không buồn làm giả hiện trường cho giống một vụ tự tử. Nào, Kazumi, tại sao anh nghĩ là hung thủ đã khóa xưởng vẽ?”
Tôi đã chuẩn bị sẵn cho câu hỏi này. “À, hãy nghĩ về những viên thuốc ngủ,” tôi trả lời. “Khi Heikichi uống thuốc, ông ấy đang tiếp một hoặc hai vị khách. Vì thế chắc chắn anh phải đoán rằng ít nhất một trong số họ không phải người lạ.”
“Hừm. Ông ấy có bạn bè nào không?”
“Có vài họa sĩ ông ấy đã gặp ở phòng trưng bày de Médicis và mấy người khách ở quán rượu nhỏ tên là Kakinoki. Umezawa liên tục đến đó và quen biết hai khách hàng thường xuyên là: Genzo Ogata, ông chủ một nhà máy sản xuất ma-nơ-canh và Tamio Yasukawa, nhân viên của Ogata. Nhưng họ không phải là bạn bè thân thiết. Một người quen nữa thỉnh thoảng cũng ghé thăm xưởng vẽ nhưng không thể gọi người đó là bạn thân được.”
“Thế còn Yoshio thì sao? Hay Heitaro? Họ biết Heikichi khá rõ.”
“Chứng cứ ngoại phạm của họ đã được xác minh mặc dù họ không có nhiều nhân chứng. Vào đêm ngày 25, Heitaro đánh bài với mẹ và một vài người bạn ghé chơi sau khi phòng tranh đóng cửa. Những người khách ra về lúc 10 giờ 20 phút và hai mẹ con họ lên phòng ngủ trên gác lúc 10 giờ 30 phút. Nếu Heitaro là kẻ giết người, anh ta không thể chạy như bay đến xưởng vẽ của Heikichi trong vòng ba mươi hoặc bốn mươi phút để ra tay được. Ngay cả khi không có tuyết thì cũng rất khó đi từ Ginza đến Meguro nhanh như thế, tuyết rơi dày như hôm đó thì càng không thể. Tuy nhiên, nếu Heitaro âm mưu cùng mẹ giết Umezawa thì họ có thể ra khỏi phòng tranh ngay sau khi bạn bè ra về. Như vậy họ có thể gây án trong khoảng thời gian giả định của vụ giết người. Nhưng động cơ của họ là gì? Heitaro thì có thể cho rằng Heikichi là cha của cậu ấy và hận ông ta vì sự vô trách nhiệm và những đau khổ mà ông ta đã gây ra cho mẹ cậu. Tuy nhiên, Yasue không có lý do gì thù ghét Heikichi; đã có thời gian bà rất gắn bó với ông và bây giờ bà đang là đối tác duy nhất độc quyền kinh doanh các tác phẩm của ông ấy. Đúng là tranh của Heikichi được bán với giá rất cao sau khi ông chết, đặc biệt là sau chiến tranh. Nhưng Yasue không có ràng buộc với Heikichi, cho nên bà ấy không được lợi và sẽ chẳng bao giờ được lợi gì từ cái chết của ông ấy.”
“Ừm.”
“Còn Yoshio, em trai của Heikichi, thì đã đến Tohoku vào ngày 25 tháng Hai và trở về nhà vào khoảng nửa đêm ngày 27. Vào thời điểm vụ giết người, Yoshio đang trên đường đến gặp những người bạn ở Tsugaru. Thực sự ông ta có đến đó. Đây là một câu chuyện dài nhưng tôi sẽ nói qua cho anh các tình tiết chính. Ông ấy có chứng cứ ngoại phạm, nhưng như với một số nghi phạm khác, đặc biệt là đám phụ nữ, bằng chứng ngoại phạm không được chặt chẽ cho lắm. Ví dụ như vợ của Yoshio: bà ở một mình trong khi chồng đi vắng, hai cô con gái đang ở cùng Masako. Bà không có chứng cứ ngoại phạm.”
“Nếu bà ta chính là người mẫu thì sao?”
“Lúc đó bà ta đã 46 tuổi. Không lẽ Heikichi có thiên hướng vẽ một mụ nạ dòng ở tuổi sồn sồn?”
“Hừm…”
“Tiếp đến là cô con gái lớn của Kazue. Cô này đã ly hôn và sống một mình ở Kaminoge, khi đó vẫn là một thị trấn khá hẻo lánh. Kazue cũng không có chứng cứ ngoại phạm. Masako thì ở nhà chính ăn tối với các con gái là Tomoko, Akiko, Yukiko và cùng các cháu gái là Rieko và Nobuyo. Lúc 10 giờ đêm, tất cả đều đi ngủ. Và Tokiko thì ở nhà mẹ đẻ tại Hoya.”
“Ngôi nhà chính có sáu phòng ngủ chưa kể bếp và phòng khách, nơi các cô con gái tập múa ba lê và dương cầm. Phòng ngủ của Masako, Tomoko và Akiko ở tầng trệt. Trên gác, Reiko và Nobuyo chung một phòng gần cầu thang nhất, kế bên là phòng của Yukiko và phòng còn lại của Tokiko. Heikichi chủ yếu sống trong xưởng vẽ của ông ấy.”
“Bất kỳ ai trong số những phụ nữ này cũng đều có thể lẻn ra khỏi phòng mình vào ban đêm, nhưng lại không hề có dấu giày xung quanh ngôi nhà chính. Giả sử nếu họ lẻn ra đường từ cửa trước thì họ có thể đi xung quanh khu nhà và vào qua cổng sau. Sáng ngày 26, Tomoko xúc tuyết ở các bậc cấp đá từ sáng sớm và cho biết chỉ có dấu giày của thằng bé đưa báo, tất nhiên không có nhân chứng nào khác chứng thực lời cô. Masako cũng đã xác nhận rằng buổi sáng khi bà thức dậy, không có bất cứ dấu giày nào gần bức tường bao quanh khu nhà chăng dây thép gai bên trên khiến cho việc men theo hoặc trèo qua tường là hoàn toàn không thể.”
“Vợ cũ của Heikichi, bà Tae, và con gái Tokiko làm chứng cho nhau. Tae nói rằng Tokiko ở chỗ bà ấy vào ngày 25. Trong số các con gái, chỉ có Tokiko có chứng cứ ngoại phạm được người khác chứng thực, nhưng vì đó lại là mẹ ruột nên chứng cứ ngoại phạm của Tokiko không hoàn toàn đáng tin cậy.”
“Tôi hiểu. Vì vậy tất cả đều là đối tượng tình nghi. Nào, thế còn cô người mẫu bí ẩn chưa bao giờ xuất hiện thì sao?”
“Ồ, cảnh sát nghi ngờ rằng dấu giày nữ có thể do một người mẫu để lại. Umezawa thường thuê người mẫu qua Câu lạc bộ Người mẫu Fuyo ở Ginza, hoặc qua một trong những mối quen của Yasue. Nhưng không tìm ra ai làm mẫu cho Umezawa vào ngày 25. Ngoài ra, theo lời Yasue, Umezawa đã rất phấn khích vì tìm được một người mẫu phù hợp hoàn toàn với những gì ông ấy yêu cầu. Ông ta thực sự cảm thấy hạnh phúc vì đã tìm được thiếu nữ trong mơ của mình. Umezawa dự định sẽ dành tất cả nhiệt huyết để hoàn thành bức tranh này, bởi vì nó sẽ là cơ hội cuối cùng để ông ấy làm được việc gì đó lớn lao.”
“Ừm,” Kiyoshi lầm bầm. Cậu ta nhắm mắt và nằm ườn trên tràng kỷ.
“Anh vẫn đang nghe tôi đấy chứ?” Tôi hỏi. “Tôi kể toàn bộ câu chuyện chỉ vì muốn tốt cho anh đấy! Tiếp tục nào!”
“Tất nhiên là tôi đang nghe! Tiếp tục đi nào anh bạn…”
“Cô người mẫu mà Umezawa muốn vẽ là một người cung Bạch Dương, giống với cung chủ đề của bức tranh còn lại, anh nhớ nhé. Ông ấy có thể sử dụng con gái mình là Tokiko, người thuộc cung Bạch Dương, nhưng cảnh sát suy luận rằng Heikichi đã mời một người khác bởi vì người mẫu này chắc chắn phải khỏa thân.”
“Đúng đấy.”
“Vì vậy cảnh sát đã tới tất cả các địa điểm môi giới ở Tokyo để tìm kiếm một người mẫu giống Tokiko. Cuộc điều tra kéo dài một tháng, nhưng họ không tìm thấy ai cả. Sau Sự kiện 26-3, cảnh sát quá bận rộn nên không thể tiếp tục điều tra, vụ Heikichi bị khép lại. Họ kết luận rằng ông Umezawa chắc hẳn đã thuê một cô gái trên đường hoặc trong quán rượu. Có thể cô ta rất cần tiền và sẵn sàng làm mẫu khỏa thân nhưng lại muốn giữ kín chuyện đó. Có thể cô ta đã có chồng. Nhưng dù sao thì người mẫu đó cũng chẳng bao giờ xuất hiện.”
“Tất nhiên là không đời nào nếu cô ta phạm tội!” Kiyoshi lên tiếng.
“Hả?”
“Chậc, hãy cứ cho rằng cô người mẫu đã giết Heikichi,” cậu tiếp tục. “Cô ta có thể che giấu dấu giày của mình bằng giày của đàn ông, đúng không? Do đó…”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook