Thiên Thần - Barbara Taylor Bradford
-
Chương 25
Bầu trời Paris xám như chì ủ dột. Có lẽ trời sắp mưa. Gavin Ambrose đứng nơi cửa sổ phòng khách của căn hộ anh ở tại khách sạn Ritz buồn bã đưa mắt nhìn ra ngoài. Thời tiết sáng Chủ nhật hôm ấy lạnh lẽo ảm đạm.
Anh còn cả ngày và buổi tối sống trong cảnh ảm đạm này trước khi đáp chiếc Concorde đi New York vào thứ hai. Anh còn vô số thời gian trước mắt: anh không biết làm gì cho đến lúc lên máy bay.
Rủi thay, Rosie không có mặt, vì nàng phải về Loire để ăn lễ Giáng sinh. Không có nàng, anh chỉ còn cặp vợ chồng trong ban lãnh đạo hãng phim Billancourt là những người duy nhất anh quen biết ở Paris. Anh đã đến thăm họ vào thứ sáu và thứ bảy rồi. Hôm nay anh còn một ngày rảnh rỗi, không có việc gì làm.
Cứ nghĩ đến cảnh sống đơn côi là Gavin hốt hoảng và chán nản. Chuyện này thật bất thường đối với anh. Anh nổi tiếng là người cô độc, chỉ thích sống một mình, không bao giờ nghĩ đến cảnh cô đơn. Nhưng độ gần đây anh bỗng đâm ra sợ cảnh sống một mình. Khi ở một mình, anh có thì giờ để suy nghĩ; nhiều tháng nay anh thường hay nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Cuộc đời anh thật bất ổn. Hôn nhân của anh lâm vào cảnh điêu đứng. Anh chỉ còn biết làm việc. Công việc là phần chủ yếu của anh, là lý do chính để anh sống. Anh hết làm bộ phim này đến bộ phim khác không nghỉ ngơi, chủ yếu là để mình luôn luôn bận bịu. Nhờ công việc anh mới có thể tránh khỏi nghĩ đến những vấn đề khó khăn của bản thân, hay khỏi giáp mặt với những con quỉ trong người mình.
Anh đã biết cuộc hôn nhân của anh có bộ mặt giả tạo một cách khủng khiếp. Thực chất không có gì hết. Chỉ là một lỗ hổng đen ngòm, một lỗ hổng rộng toang hoác, vô đáy. Không có cảm xúc. Không có hận thù. Chỉ có sự mâu thuẫn. Giữa anh và Louise không có gì hết. Không có cả cái vẻ như họ là những người quen biết nhau nữa. Bây giờ anh phân vân không biết đã có lúc nào hai người có vẻ như thế không.
Louise là con điếm hạng bét tự cao tự đại, không có trí và hoàn toàn không hiểu anh, không hiểu công việc của anh, không hiểu sự nghiệp thúc bách của anh, nhìn chung là không hiểu cuộc đời của anh. Hay cô ta chẳng hiểu ai hết. Về mặt trí tuệ, cô ta là người u mê.
Danh tiếng chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với anh, chỉ là phó phẩm của công việc anh làm - nghề diễn viên. Nhưng danh tiếng của anh lại được cô ta chộp lấy Ngoài ra, cô ta không quan tâm gì đến cá nhân anh, đã thế từ lâu nay. Cô ta cứ mơ ước những nơi huy hoàng hơn. Anh chẳng cần lưu tâm đến. Nói chung thì chính anh cũng có lỗi, vì anh không quan tâm đến cô ta.
Rất nhiều lần anh tự hỏi tại sao anh lại cưới Louise. Câu hỏi thật điên khùng; vì anh đã quá biết câu trả lời. Anh cưới cô ta vì cô ta có thai. Chuyện cô ta có thai đã không có kết quả tốt. Tiếp theo là tấn bi kịch đau lòng khủng khiếp xảy ra.
Anh sống với Louise là vì thế. Để chứng kiến cảnh cô ta chịu đựng sẩy thai, để chứng kiến cảnh cô ta đau đớn về thể xác lẫn tinh thần. Thực sự muốn giúp cô ta bớt đau khổ, anh hy vọng anh sẽ hết đau khổ do giúp đỡ cô ta.
Thế rồi chuyện cô ta lại có thai là không tránh khỏi và khi David ra đời, đã tám năm nay rồi, anh đâm ra thương yêu đứa con trai. Vì đứa con mà anh phải chịu đựng cuộc hôn nhân thiếu hạnh phúc này.
Khi David biết đi chập chững, Louise đã ngoại tình, cô tìm cách phá vỡ cuộc hôn nhân. Anh không bao giờ ngăn chặn, không để ý đến những hành vi của cô ta nữa, và đằng nào thì hai người cũng không còn chung chăn chung gối nữa.
Bỗng anh tự hỏi nếu hai người ly dị nhau thì chuyện gì sẽ xảy ra cho David? Phải chăng đứa bé sẽ trở thành nạn nhân của trò chơi kéo co độc hại này? Gavin lại nghĩ đến đứa con. Anh không thể chịu đựng được cảnh này. Bây giờ không. Hôm nay không. Mãi mãi không được.
Anh tự nhủ lòng cứ đợi rồi sẽ hay. Nếu anh đợi khá lâu, chắc thế nào Louise cũng yêu cầu ly dị. Cô ta đã sẵn sàng rồi. Anh quá biết rõ cô ta đã gian díu sâu đậm với anh chàng thượng nghị sĩ cô ta đã gặp ở Washington. Anh chàng thượng nghị sĩ góa vợ. Một thượng nghị sĩ hoàn toàn danh giá. Allan Turner là người bạn đời hoàn hảo cho Louise.
Phải, anh cứ đợi rồi sẽ hay. Ít ra, anh cũng có thể đưa ra một số điều kiện. Anh không có ý định giằng đứa bé ra khỏi tay cô ta, làm thế là vô lương tâm. Phải cùng thương yêu David, cùng chăm sóc bảo trợ nó, anh muốn như thế và anh quyết đạt được mục đích ấy.
Lẩm bẩm nguyền rủa trong miệng, Gavin quay khỏi cửa sổ bước vào phòng ngủ, vừa đi vừa nhìn đồng hồ tay. Đã 11 giờ.
Anh cần ra ngoài để hít thở không khí trong lành, đi để xua đuổi ý nghĩ bi quan trong đầu. Nhưng đi ra ngoài lại gặp phải lắm chuyện phiền phúc. Một chuyện phiền phức bất tiện, vì anh là một diễn viên nổi tiếng, nhiều người nhận ra anh.
Anh quấn vào cổ chiếc khăn quàng, đội lên đầu cái mũ phớt rộng vành, choàng lên người chiếc áo khoác ca- sơ- mia, đeo thêm cặp kính râm rồi nhìn vào gương. Anh cười. Anh không nhận ra mình. Khi anh đi qua tiền sảnh ra ngoài công trường Vendôme, chẳng ai nhận ra anh.
Gavin không biết nhiều về thành phố Paris, nhưng vì anh thường ở tại khách sạn Ritz, cho nên khu vục quanh khách sạn này rất quen thuộc với anh, anh bèn đi về phía công trường Concorde. Khi ra ngoài trời, bước nhanh, bao nhiêu buồn bực, bất bình trong người anh đều tiêu tan hết.
Gavin liền nghĩ đến tác phẩm Napoléon và Josephine. Anh nhìn thành phố Paris qua cặp mắt của nhà làm phim, và đồng thời qua cặp mắt của Napoléon, người đã làm hết mình để thay đổi bộ mặt kiến trúc của Parỉs, để thành phố này được như bây giờ.
Qua nghiên cứu, Gavin biết rằng Napoléon đã muốn bao cấp nền kiến trúc trong 10 năm, nền điêu khắc Pháp trong 20 năm. Để làm thế, ông có kế hoạch xây dựng bốn đài chiến thắng, kỷ niệm chiến tích các trận Marengo và Austerlitz, ca ngợi hòa bình và tôn giáo.
Nhưng cuối cùng ông chỉ xây được hai đài, một đài nhỏ kỷ niệm trận Austerlitz, và một đài kỷ niệm Đại Quân (Grande Armée), ông đã nói với người kiến trúc sư của ông rằng ông cho xây dựng đài này để nhớ "đạo quân mà ông có danh dự chỉ huy".
Bây giờ, đứng ở cuối đại lộ Champs Elysées, Gavm nhìn lên con đường rộng, dài, đẹp, mắt anh dán vào đài kỷ niệm hình vòng cung đồ sộ do Napoléon xây cất để ca ngợi đạo quân thân yêu của ông. Đài Arc de Triomphe de L’Etoile giống như lòng mong ước của ông, nhà vua đã nói rằng đài kỷ niệm ghi nhớ Đại quân phải vĩ đại, giản dị, uy nghiêm và không vay mượn gì của quá khứ hết.
Gavin thấy vị kiến trúc sư của nhà vua quả đã làm theo đúng lời yêu cầu của ông, vừa nghĩ anh vừa đi theo đại lộ Champs Elysées hướng đến đài kỷ niệm, lơ đãng nhìn các thứ trang hoàng mừng Giáng sinh hai bên đường.
Đối với Gavin, thực hiện được bộ phim này là anh đã thỏa được ước mơ thời thơ ấu. Ngay khi còn vị thành niên, anh đã bị những nhân vật vĩ đại mê hoặc, nhất là Napoléon.
Khi còn là một cậu bé sống ở New York, anh say mê sách lịch sử, muốn biết nhiều về các nhân vật siêu phàm trên thế giới. Niềm say mê của anh không có biên giới. Cái gì đã làm cho họ nổi tiếng? Tại sao họ lại khác người thế? Đời sống tình cảm của họ ra sao? Tại sao họ yêu những phụ nữ họ thương yêu? Hay là gắn bó với những người họ đã thề nguyền. Động cơ bên trong nào đã thúc giục họ, đưa họ lên đỉnh cao danh vọng? Yếu tố bí mật nào trong con người họ đã làm họ vươn lên khỏi đám đông bình thường? Nói một cách đơn giản nhất là tại sao họ lại vĩ đại hơn những người đương thời.
Một điều anh phát hiện các vĩ nhân bất tử trên thế giới khiến anh kinh ngạc là những vị này cũng chỉ là người và cũng có những lỗi lầm như ai.
Nhưng chính những nhân vật vĩ đại này trong lịch sử mới là những vị anh hùng của anh, chứ không phải những cầu thủ bóng đá, những ngôi sao bóng chày hay là những nhạc sĩ nhạc rốc như nhiều bạn bè của anh tôn thờ. Dĩ nhiên là anh ngưỡng mộ một vài diễn viên, vì chính anh cũng là diễn viên hấp dẫn. Paul Newman và Spencer Tracy là một cặp trong số những diễn viên tài ba mà anh mến mộ.
Tracy trong phim Bad Day at Black Roch (Ngày xấu ở khu Đá đen) thật tuyệt vời, Paul Newman trong Fort Apache (Đồn Apache), The Bronx (Vùng Bronx) cũng vậy. Phim The Bronx ra đời năm 1981, anh xem 4 lần liên tiếp mấy ngày, tài diễn xuất của Newman làm anh say sưa. Bộ phim nói về một khu vực của vùng Bronx và những cảnh sát chìm làm việc trong khu vục đã tác động mạnh đến anh, giúp anh có một quan điểm về nghề diễn viên.
Vùng Bronx. Cái tên này đã làm hiện lên trong anh biết bao kỷ niệm. Anh đã lớn lên ở khu Belmont của Bronx, không lộn xộn nhếch nhác bằng nửa miền Nam vùng Bronx, nơi bộ phim được quay.
Nhưng những năm tháng ấu thơ và trưởng thành sống ở Belmont, anh vẫn luôn luôn mơ đến Paris, mơ đến cuộc sống như hôm nay và mơ trở thành danh tiếng khắp thế giới.
Thỉnh thoảng anh tự hỏi làm sao đời anh lại như thế này. Ban đầu chỉ là một diễn viên vô danh, cật lực phấn đấu để kiếm sống, mỗi khi có việc anh chỉ biết dựa vào may mắn, hoặc ở Broadway, hoặc trên truyền hình. Sau đó anh trở thành ngôi sao trên sân khấu Broadway lúc 25 tuổi, được các nhà làm phim biết tài khi Brando trở thành bất tử với vai Stanley Kowalski trong phim Streetcar (Trạm xe điện) sản xuất năm 1947. Thỉnh thoảng anh lại suy nghĩ về sự so sánh này, vì chính anh cũng bắt đầu sự nghiệp bằng vai này. Thật dễ và rõ ràng cho các nhà phê bình khi họ so sánh. So sánh anh như thế cũng xứng đáng lắm chứ.
Năm 1983 là năm có nhiều biến cố trọng đại đối với anh. Con trai anh chào đời, Hollywood mời anh hợp tác và anh ra đi. Anh đi đi về về nhiều năm trời, cuối cùng mới ở hẳn tại Hollywood. Nhưng anh vẫn thường được biết đến như một diễn viên "thuộc nhóm" Bờ Đông, được xếp vào nhóm với Al Pacino, Robert De Niro, Dustin Hoffman và Armand Assante. Được xếp vào nhóm với họ kể cũng vẻ vang, vì họ đều là những nhân vật vĩ đại, thế nhưng chính Pacino mới là người anh mến phục. Ông ta nổi tiếng như cồn, được mọi người say mê, ông hào hùng, tài giỏi, đồng thời cũng là một minh tinh có tầm cỡ hàng đầu.
Điều kỳ lạ là Gavin Ambrose không ngờ sự thành công vĩ đại của anh lại xảy ra như thế này, xảy ra một cách thình lình không báo trước, và xảy ra như một quả pháo bắn lên trời, cao, cao mãi mà không bao giờ rớt xuống, và thật cám ơn Chúa, không bao giờ hụt hẫng một cách đột ngột, ít ra thì cũng chưa bao giờ bị thế. Nghĩ đến chuyện này, bỗng anh mỉm cười mỉa mai. Thành công đối với anh có thể xem như cảnh phù du trên cõi đời này. Trong nghề diễn viên, người ta chỉ thành công ngang mức tác phẩm vừa ra đời không ai dám nghĩ đến chuyện sắp đến.
Gavin sung sướng về những thành quả của mình. Anh yêu công việc anh làm, anh đam mê con đường sự nghiệp của anh đang dấn thân vào, và chuyện anh muốn mọi người hoan hô chấp nhận là chuyện tự nhiên. Anh chỉ tiếc có một điều là mẹ anh và ông nội anh không còn sống để thấy thành công của anh, để hưởng thụ thành quả của anh. Khi anh nổi tiếng trong phim Trạm xe điện, nổi tiếng lần đầu và ngay lập tức, thì cả hai đều chết vào cùng một năm - năm 1976 - khi anh được 18 tuổi.
Ông Tony Amsbrosini, bố anh, qua đời sau một cơn đau tim khi Gavin mới 9 tuổi, và mẹ anh, bà Adelia, cùng anh đến ở với ông bà nội anh. Mẹ anh không thể nào một mình đảm đang nuôi nấng anh nổi.
Ông bà Ambrosini niềm nở thương yêu hai mẹ con, nhưng buồn thay là bà nội anh, bà Graziella, chết theo con trai bà sau đó bảy tháng. Ông nội anh và mẹ anh san sẻ nỗi buồn cùng nhau, nương tựa nhau. Anh là trung tâm của đời họ, họ hết lòng chăm lo, hy sinh cho anh.
Mẹ anh làm việc trong xưởng làm đồ nữ trang giả của nhà hàng Macy, ông nội anh là một thợ làm đồ gỗ mỹ nghệ rất giỏi, hai người cùng góp tiền để nuôi nấng anh. Ở chung một nhà, họ không giàu có gì, nhưng họ không nghèo sát đất, và họ cố xoay xở để khỏi rơi vào cảnh nghèo nàn. Cho nên Gavin được sống thoải mái, anh thường mơ những ngày thơ ấu của mình với tình thương yêu cảm mến trong lòng. Mẹ anh và ông nội anh đã hết lòng thương yêu anh, động viên khuyến khích anh. Gia đình không sống trong cảnh xa hoa phú quí nhưng êm thấm hạnh phúc. Ông nội Giovanni lại nuông chiều anh, cứ mỗi thứ bảy là dẫn anh đi mua hàng ở siêu thị thực phẩm của Ý trên đại lộ Arthur ở Bronx. Ở đây, ông Giovanni mua nhiều thứ đồ ăn ngon mà anh ưa thích nhập từ cố hương, rồi ông cùng cháu nội và con dâu chia nhau thưởng thức.
Nhưng chính mẹ anh là người dẫn anh đi xem chiếu bóng ngay từ lúc anh còn rất nhỏ. Mỗi tuần bà đi thưởng thức chiếu bóng hai lần, và anh cũng vậy. Chính nhờ những buổi đi xem chiếu bóng mà anh đã học hỏi được nhiều về nghề diễn viên, nhờ xem những diễn viên đóng trên màn bạc. Về sau, anh trở thành người ngưỡng mộ tài tử Lee Strasberg và trở thành người học trò của ông ta cho đến lúc ông chết vào năm 1982. Nhưng chính nhờ những buổi đi xem chiếu bóng vào thời còn non dại này mà trong anh đã nảy sinh ước muốn làm nghề diễn viên.
Mẹ anh là người đáng tin cậy, là huấn luyện viên, là nhà phê bình và là khán giả của anh. Bà khuyến khích anh thực hiện ao ước của mình, luôn luôn nói với anh rằng, anh đẹp trai đủ sức để đóng phim. Nhưng anh không tin bà. Lúc ấy, anh cứ cho là mình lùn quá. Mẹ anh cười, nói chiều cao không quan trọng, chỉ có tài năng mới đáng kể, vả lại khi lớn lên anh sẽ cao hơn. Mẹ anh đã nói đúng điều này. Tuy nhiên, anh cũng không được cao như lòng anh mong ước.
Không lâu sau ngày mẹ anh và ông nội anh mất, Gavin gặp Kevin, Rosie và Nell, đồng thời cũng gặp Mikey và Sunny. Họ lập thành một nhóm nhỏ và thề sẽ xem nhau như người trong một gia đình, luôn luôn thương yêu giúp đỡ nhau, bất kỳ xảy ra hoàn cảnh như thế nào.
Anh sống với một người bà con của bố, một người cô cùng với chồng bà. Anh ở trong một phòng nhỏ trong nhà của họ với một số tiền không đáng kể, rồi làm việc trong một siêu thị vào những ngày cuối tuần để lấy tiền trả tiền nhà. Nhưng khi đã có đủ khả năng, anh rời nhà của bà cô họ, thuê một phòng trong nhà trọ nhỏ ở làng Greenwich, sống thoải mái, làm đủ thứ việc và làm bồi bàn cho một quán ăn ở tại địa phương. Và anh diễn kịch, có cơ hội là anh diễn, phần lớn diễn tại những nhà hát nhỏ trong làng.
Mẹ anh và ông nội anh không để anh hoàn toàn thiếu thốn. Họ đã gởi tiền trong ngân hàng cho anh, nhưng anh thích để dành đấy, phòng khi cần. Anh chỉ dùng tiền này để trả tiền học ở Phim trường Diễn viên, anh học ở đây với diễn viên bậc thầy, tài tử Lee Strasberg. Đây là trường dạy diễn xuất có chất lượng nhất.
Nhóm bạn bè là chỗ dựa chính của anh. Chính Gavin là người đặt cho mọi người trong nhóm những bí danh vào năm đầu tiên nhóm được thành lập. Rosie được anh gọi là Gương Mặt Thiên Thần vì mặt nàng đẹp dễ thương như một thiên thần. Nell được gọi là Nell Nhỏ dựa theo một nhân vật anh thích nhất của Charles Dickens. Kevin là Giày Cao su, cái tên rất thích hợp để gọi một cảnh sát chìm hấp dẫn. Mikey được đặt tên là Giáo sư, vì anh là một sinh viên cần mẫn. Sunny có biệt danh Cô Gái Tóc vàng, vì cô có mái tóc vàng óng ánh và luôn luôn vui cười nhanh nhẹn. Nay cô không còn thế nữa, anh buồn bã thầm nghĩ, không còn thế nữa.
Chính Rosie là người quyết định anh cũng phải có một biệt danh. Không cần hội ý với nhũng người khác, một hôm nàng tuyên bố anh được gọi là Diễn Viên.
- Anh là con tắc kè hoa, Gavin à - nàng nói. - Anh muốn thành người nào là thành người đó, anh đóng vai nào cũng được. Anh đúng là một "diễn viên". Anh là thế đấy. Gọi thế mới đúng với anh.
Rosie và anh luôn luôn gắn bó với nhau, ngay từ buổi đầu tiên anh gặp nàng và anh trai nàng. Rồi hai người yêu nhau một năm sau đó khi nàng 18 tuổi và anh hai mươi. Hai người gắn bó nhau ngay sau khi nàng theo học lớp Tạo mẫu thời trang 4 năm ở Viện thời trang của trường Kỹ thuật New york.
Mối tình đam mê lãng mạn thời son trẻ của hai người kéo dài được ba năm thì tan vỡ, vì những nguyên cớ nhỏ nhặt ngốc nghếch, anh không nhớ ra là những nguyên nhân gì nữa. Nhưng anh biết chắc chắn là do lỗi lầm của anh. Anh ích kỷ, chỉ lo công việc của mình. Anh biết thế. Anh chỉ nghĩ đến mình. Anh phân vân không biết có diễn viên nào không thế không. Tất cả diễn viên đều đối xử ngốc nghếch với người khác như thế.
Khi anh và Rosie lơ là nhau thì anh gặp Louise và anh lên giường với cô ta liền. Thế là bắt đầu những giây phút ngắn ngủi yêu đương cuồng nhiệt. Và sau hai lần làm tình vội vã, cô ta có thai. Họ phải cưới nhau gấp, vì Louise rất sợ bố mẹ cô, những chính trị gia theo xu hướng dân chủ xã hội, cô ta sợ bố mẹ cô sẽ ra tay, và cũng vì anh cảm thấy có tội, anh cảm thấy mình là người hoàn toàn chịu trách nhiệm về nỗi khó khăn của cô. Anh thường tự hào mình là người có danh dự. Và là người có trách nhiệm.
Một năm sau, Rosie được 22 tuổi, tốt nghiệp lớp Tạo mẫu Thời trang, nàng liền đi Paris. Ở đây nàng gặp Guy de Montfleurie qua sự giới thiệu của cô em gái gã, bạn của nàng. Collie. Thế là hai người dính nhau và một năm sau đó họ lấy nhau.
Chuyện đời diễn ra như thế đấy.
Cuối cùng Gavin và Rosie lại trở thành bạn bè rất thân thiết, nàng tham gia vào đoàn làm phim của anh. Hai người vui sướng trong cảnh bạn bè rất đằm thắm, sát cánh bên nhau, cùng làm việc với nhau. Nàng giúp anh chịu đựng được cảnh sống chung với Louise.
Gavin thở dài. Bao nhiêu đổi thay từ ngày họ còn nhỏ ở New York cho đến bây giờ. Trẻ trung, thơ ngây, dại dột, can đảm, lạc quan và rất nhiều chuyện kỳ diệu đã xảy ra. Mười bốn năm rồi. Quá lâu rồi. Gần hai thập niên trôi qua rồi.
Vừa rồi Louise đã ám chỉ anh vẫn còn thương yêu Rosie. Đúng thế. Anh vẫn còn yêu. Nói chung thì nàng là người bạn thân nhất, người đáng tin cẩn và là người cùng làm việc với anh trong tất cả các bộ phim. Anh không muốn làm gì khác hơn. Và đúng là anh yêu Rosalind Madigan. Nhưng tình yêu cao thượng. Những tình cảm lãng mạn với nhau đã hết lâu rồi; ngay trước khi anh gặp Louise, tình yêu mê muội đã hết rồi.
Gavin lật cổ áo lên, run vì lạnh, anh đứng trước tượng đài Arc de Triomphe.
Cứ nhớ lại quá khứ thật không hay ho gì, chẳng đem lại gì mà còn làm cho anh thêm đau lòng vô ích. Phải luôn luôn hướng tới trước. Đó là châm ngôn của anh. Tiến tới và tiến lên, anh nghĩ, mắt nhìn đài kỷ niệm hình cung uy nghiêm, nhìn lá cờ ba sắc tung bay trước gió. Lá cờ nước Pháp. Cờ của Napoléon.
Làm bộ phim này chắc là một công việc cực kỳ khó khăn, anh nghĩ, và đóng vai Napoléon mọt thử thách lớn lao nhất chưa từng có trong đời mình. Nhưng mình đã có một đội làm phim kỳ diệu gắn bó nhau; mình phải làm sao để phân công cho thật tốt mới được.
Mình làm việc có chuẩn bị hẳn hoi thì khi bắt đầu quay sẽ dễ dàng hơn.
Anh còn cả ngày và buổi tối sống trong cảnh ảm đạm này trước khi đáp chiếc Concorde đi New York vào thứ hai. Anh còn vô số thời gian trước mắt: anh không biết làm gì cho đến lúc lên máy bay.
Rủi thay, Rosie không có mặt, vì nàng phải về Loire để ăn lễ Giáng sinh. Không có nàng, anh chỉ còn cặp vợ chồng trong ban lãnh đạo hãng phim Billancourt là những người duy nhất anh quen biết ở Paris. Anh đã đến thăm họ vào thứ sáu và thứ bảy rồi. Hôm nay anh còn một ngày rảnh rỗi, không có việc gì làm.
Cứ nghĩ đến cảnh sống đơn côi là Gavin hốt hoảng và chán nản. Chuyện này thật bất thường đối với anh. Anh nổi tiếng là người cô độc, chỉ thích sống một mình, không bao giờ nghĩ đến cảnh cô đơn. Nhưng độ gần đây anh bỗng đâm ra sợ cảnh sống một mình. Khi ở một mình, anh có thì giờ để suy nghĩ; nhiều tháng nay anh thường hay nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Cuộc đời anh thật bất ổn. Hôn nhân của anh lâm vào cảnh điêu đứng. Anh chỉ còn biết làm việc. Công việc là phần chủ yếu của anh, là lý do chính để anh sống. Anh hết làm bộ phim này đến bộ phim khác không nghỉ ngơi, chủ yếu là để mình luôn luôn bận bịu. Nhờ công việc anh mới có thể tránh khỏi nghĩ đến những vấn đề khó khăn của bản thân, hay khỏi giáp mặt với những con quỉ trong người mình.
Anh đã biết cuộc hôn nhân của anh có bộ mặt giả tạo một cách khủng khiếp. Thực chất không có gì hết. Chỉ là một lỗ hổng đen ngòm, một lỗ hổng rộng toang hoác, vô đáy. Không có cảm xúc. Không có hận thù. Chỉ có sự mâu thuẫn. Giữa anh và Louise không có gì hết. Không có cả cái vẻ như họ là những người quen biết nhau nữa. Bây giờ anh phân vân không biết đã có lúc nào hai người có vẻ như thế không.
Louise là con điếm hạng bét tự cao tự đại, không có trí và hoàn toàn không hiểu anh, không hiểu công việc của anh, không hiểu sự nghiệp thúc bách của anh, nhìn chung là không hiểu cuộc đời của anh. Hay cô ta chẳng hiểu ai hết. Về mặt trí tuệ, cô ta là người u mê.
Danh tiếng chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với anh, chỉ là phó phẩm của công việc anh làm - nghề diễn viên. Nhưng danh tiếng của anh lại được cô ta chộp lấy Ngoài ra, cô ta không quan tâm gì đến cá nhân anh, đã thế từ lâu nay. Cô ta cứ mơ ước những nơi huy hoàng hơn. Anh chẳng cần lưu tâm đến. Nói chung thì chính anh cũng có lỗi, vì anh không quan tâm đến cô ta.
Rất nhiều lần anh tự hỏi tại sao anh lại cưới Louise. Câu hỏi thật điên khùng; vì anh đã quá biết câu trả lời. Anh cưới cô ta vì cô ta có thai. Chuyện cô ta có thai đã không có kết quả tốt. Tiếp theo là tấn bi kịch đau lòng khủng khiếp xảy ra.
Anh sống với Louise là vì thế. Để chứng kiến cảnh cô ta chịu đựng sẩy thai, để chứng kiến cảnh cô ta đau đớn về thể xác lẫn tinh thần. Thực sự muốn giúp cô ta bớt đau khổ, anh hy vọng anh sẽ hết đau khổ do giúp đỡ cô ta.
Thế rồi chuyện cô ta lại có thai là không tránh khỏi và khi David ra đời, đã tám năm nay rồi, anh đâm ra thương yêu đứa con trai. Vì đứa con mà anh phải chịu đựng cuộc hôn nhân thiếu hạnh phúc này.
Khi David biết đi chập chững, Louise đã ngoại tình, cô tìm cách phá vỡ cuộc hôn nhân. Anh không bao giờ ngăn chặn, không để ý đến những hành vi của cô ta nữa, và đằng nào thì hai người cũng không còn chung chăn chung gối nữa.
Bỗng anh tự hỏi nếu hai người ly dị nhau thì chuyện gì sẽ xảy ra cho David? Phải chăng đứa bé sẽ trở thành nạn nhân của trò chơi kéo co độc hại này? Gavin lại nghĩ đến đứa con. Anh không thể chịu đựng được cảnh này. Bây giờ không. Hôm nay không. Mãi mãi không được.
Anh tự nhủ lòng cứ đợi rồi sẽ hay. Nếu anh đợi khá lâu, chắc thế nào Louise cũng yêu cầu ly dị. Cô ta đã sẵn sàng rồi. Anh quá biết rõ cô ta đã gian díu sâu đậm với anh chàng thượng nghị sĩ cô ta đã gặp ở Washington. Anh chàng thượng nghị sĩ góa vợ. Một thượng nghị sĩ hoàn toàn danh giá. Allan Turner là người bạn đời hoàn hảo cho Louise.
Phải, anh cứ đợi rồi sẽ hay. Ít ra, anh cũng có thể đưa ra một số điều kiện. Anh không có ý định giằng đứa bé ra khỏi tay cô ta, làm thế là vô lương tâm. Phải cùng thương yêu David, cùng chăm sóc bảo trợ nó, anh muốn như thế và anh quyết đạt được mục đích ấy.
Lẩm bẩm nguyền rủa trong miệng, Gavin quay khỏi cửa sổ bước vào phòng ngủ, vừa đi vừa nhìn đồng hồ tay. Đã 11 giờ.
Anh cần ra ngoài để hít thở không khí trong lành, đi để xua đuổi ý nghĩ bi quan trong đầu. Nhưng đi ra ngoài lại gặp phải lắm chuyện phiền phúc. Một chuyện phiền phức bất tiện, vì anh là một diễn viên nổi tiếng, nhiều người nhận ra anh.
Anh quấn vào cổ chiếc khăn quàng, đội lên đầu cái mũ phớt rộng vành, choàng lên người chiếc áo khoác ca- sơ- mia, đeo thêm cặp kính râm rồi nhìn vào gương. Anh cười. Anh không nhận ra mình. Khi anh đi qua tiền sảnh ra ngoài công trường Vendôme, chẳng ai nhận ra anh.
Gavin không biết nhiều về thành phố Paris, nhưng vì anh thường ở tại khách sạn Ritz, cho nên khu vục quanh khách sạn này rất quen thuộc với anh, anh bèn đi về phía công trường Concorde. Khi ra ngoài trời, bước nhanh, bao nhiêu buồn bực, bất bình trong người anh đều tiêu tan hết.
Gavin liền nghĩ đến tác phẩm Napoléon và Josephine. Anh nhìn thành phố Paris qua cặp mắt của nhà làm phim, và đồng thời qua cặp mắt của Napoléon, người đã làm hết mình để thay đổi bộ mặt kiến trúc của Parỉs, để thành phố này được như bây giờ.
Qua nghiên cứu, Gavin biết rằng Napoléon đã muốn bao cấp nền kiến trúc trong 10 năm, nền điêu khắc Pháp trong 20 năm. Để làm thế, ông có kế hoạch xây dựng bốn đài chiến thắng, kỷ niệm chiến tích các trận Marengo và Austerlitz, ca ngợi hòa bình và tôn giáo.
Nhưng cuối cùng ông chỉ xây được hai đài, một đài nhỏ kỷ niệm trận Austerlitz, và một đài kỷ niệm Đại Quân (Grande Armée), ông đã nói với người kiến trúc sư của ông rằng ông cho xây dựng đài này để nhớ "đạo quân mà ông có danh dự chỉ huy".
Bây giờ, đứng ở cuối đại lộ Champs Elysées, Gavm nhìn lên con đường rộng, dài, đẹp, mắt anh dán vào đài kỷ niệm hình vòng cung đồ sộ do Napoléon xây cất để ca ngợi đạo quân thân yêu của ông. Đài Arc de Triomphe de L’Etoile giống như lòng mong ước của ông, nhà vua đã nói rằng đài kỷ niệm ghi nhớ Đại quân phải vĩ đại, giản dị, uy nghiêm và không vay mượn gì của quá khứ hết.
Gavin thấy vị kiến trúc sư của nhà vua quả đã làm theo đúng lời yêu cầu của ông, vừa nghĩ anh vừa đi theo đại lộ Champs Elysées hướng đến đài kỷ niệm, lơ đãng nhìn các thứ trang hoàng mừng Giáng sinh hai bên đường.
Đối với Gavin, thực hiện được bộ phim này là anh đã thỏa được ước mơ thời thơ ấu. Ngay khi còn vị thành niên, anh đã bị những nhân vật vĩ đại mê hoặc, nhất là Napoléon.
Khi còn là một cậu bé sống ở New York, anh say mê sách lịch sử, muốn biết nhiều về các nhân vật siêu phàm trên thế giới. Niềm say mê của anh không có biên giới. Cái gì đã làm cho họ nổi tiếng? Tại sao họ lại khác người thế? Đời sống tình cảm của họ ra sao? Tại sao họ yêu những phụ nữ họ thương yêu? Hay là gắn bó với những người họ đã thề nguyền. Động cơ bên trong nào đã thúc giục họ, đưa họ lên đỉnh cao danh vọng? Yếu tố bí mật nào trong con người họ đã làm họ vươn lên khỏi đám đông bình thường? Nói một cách đơn giản nhất là tại sao họ lại vĩ đại hơn những người đương thời.
Một điều anh phát hiện các vĩ nhân bất tử trên thế giới khiến anh kinh ngạc là những vị này cũng chỉ là người và cũng có những lỗi lầm như ai.
Nhưng chính những nhân vật vĩ đại này trong lịch sử mới là những vị anh hùng của anh, chứ không phải những cầu thủ bóng đá, những ngôi sao bóng chày hay là những nhạc sĩ nhạc rốc như nhiều bạn bè của anh tôn thờ. Dĩ nhiên là anh ngưỡng mộ một vài diễn viên, vì chính anh cũng là diễn viên hấp dẫn. Paul Newman và Spencer Tracy là một cặp trong số những diễn viên tài ba mà anh mến mộ.
Tracy trong phim Bad Day at Black Roch (Ngày xấu ở khu Đá đen) thật tuyệt vời, Paul Newman trong Fort Apache (Đồn Apache), The Bronx (Vùng Bronx) cũng vậy. Phim The Bronx ra đời năm 1981, anh xem 4 lần liên tiếp mấy ngày, tài diễn xuất của Newman làm anh say sưa. Bộ phim nói về một khu vực của vùng Bronx và những cảnh sát chìm làm việc trong khu vục đã tác động mạnh đến anh, giúp anh có một quan điểm về nghề diễn viên.
Vùng Bronx. Cái tên này đã làm hiện lên trong anh biết bao kỷ niệm. Anh đã lớn lên ở khu Belmont của Bronx, không lộn xộn nhếch nhác bằng nửa miền Nam vùng Bronx, nơi bộ phim được quay.
Nhưng những năm tháng ấu thơ và trưởng thành sống ở Belmont, anh vẫn luôn luôn mơ đến Paris, mơ đến cuộc sống như hôm nay và mơ trở thành danh tiếng khắp thế giới.
Thỉnh thoảng anh tự hỏi làm sao đời anh lại như thế này. Ban đầu chỉ là một diễn viên vô danh, cật lực phấn đấu để kiếm sống, mỗi khi có việc anh chỉ biết dựa vào may mắn, hoặc ở Broadway, hoặc trên truyền hình. Sau đó anh trở thành ngôi sao trên sân khấu Broadway lúc 25 tuổi, được các nhà làm phim biết tài khi Brando trở thành bất tử với vai Stanley Kowalski trong phim Streetcar (Trạm xe điện) sản xuất năm 1947. Thỉnh thoảng anh lại suy nghĩ về sự so sánh này, vì chính anh cũng bắt đầu sự nghiệp bằng vai này. Thật dễ và rõ ràng cho các nhà phê bình khi họ so sánh. So sánh anh như thế cũng xứng đáng lắm chứ.
Năm 1983 là năm có nhiều biến cố trọng đại đối với anh. Con trai anh chào đời, Hollywood mời anh hợp tác và anh ra đi. Anh đi đi về về nhiều năm trời, cuối cùng mới ở hẳn tại Hollywood. Nhưng anh vẫn thường được biết đến như một diễn viên "thuộc nhóm" Bờ Đông, được xếp vào nhóm với Al Pacino, Robert De Niro, Dustin Hoffman và Armand Assante. Được xếp vào nhóm với họ kể cũng vẻ vang, vì họ đều là những nhân vật vĩ đại, thế nhưng chính Pacino mới là người anh mến phục. Ông ta nổi tiếng như cồn, được mọi người say mê, ông hào hùng, tài giỏi, đồng thời cũng là một minh tinh có tầm cỡ hàng đầu.
Điều kỳ lạ là Gavin Ambrose không ngờ sự thành công vĩ đại của anh lại xảy ra như thế này, xảy ra một cách thình lình không báo trước, và xảy ra như một quả pháo bắn lên trời, cao, cao mãi mà không bao giờ rớt xuống, và thật cám ơn Chúa, không bao giờ hụt hẫng một cách đột ngột, ít ra thì cũng chưa bao giờ bị thế. Nghĩ đến chuyện này, bỗng anh mỉm cười mỉa mai. Thành công đối với anh có thể xem như cảnh phù du trên cõi đời này. Trong nghề diễn viên, người ta chỉ thành công ngang mức tác phẩm vừa ra đời không ai dám nghĩ đến chuyện sắp đến.
Gavin sung sướng về những thành quả của mình. Anh yêu công việc anh làm, anh đam mê con đường sự nghiệp của anh đang dấn thân vào, và chuyện anh muốn mọi người hoan hô chấp nhận là chuyện tự nhiên. Anh chỉ tiếc có một điều là mẹ anh và ông nội anh không còn sống để thấy thành công của anh, để hưởng thụ thành quả của anh. Khi anh nổi tiếng trong phim Trạm xe điện, nổi tiếng lần đầu và ngay lập tức, thì cả hai đều chết vào cùng một năm - năm 1976 - khi anh được 18 tuổi.
Ông Tony Amsbrosini, bố anh, qua đời sau một cơn đau tim khi Gavin mới 9 tuổi, và mẹ anh, bà Adelia, cùng anh đến ở với ông bà nội anh. Mẹ anh không thể nào một mình đảm đang nuôi nấng anh nổi.
Ông bà Ambrosini niềm nở thương yêu hai mẹ con, nhưng buồn thay là bà nội anh, bà Graziella, chết theo con trai bà sau đó bảy tháng. Ông nội anh và mẹ anh san sẻ nỗi buồn cùng nhau, nương tựa nhau. Anh là trung tâm của đời họ, họ hết lòng chăm lo, hy sinh cho anh.
Mẹ anh làm việc trong xưởng làm đồ nữ trang giả của nhà hàng Macy, ông nội anh là một thợ làm đồ gỗ mỹ nghệ rất giỏi, hai người cùng góp tiền để nuôi nấng anh. Ở chung một nhà, họ không giàu có gì, nhưng họ không nghèo sát đất, và họ cố xoay xở để khỏi rơi vào cảnh nghèo nàn. Cho nên Gavin được sống thoải mái, anh thường mơ những ngày thơ ấu của mình với tình thương yêu cảm mến trong lòng. Mẹ anh và ông nội anh đã hết lòng thương yêu anh, động viên khuyến khích anh. Gia đình không sống trong cảnh xa hoa phú quí nhưng êm thấm hạnh phúc. Ông nội Giovanni lại nuông chiều anh, cứ mỗi thứ bảy là dẫn anh đi mua hàng ở siêu thị thực phẩm của Ý trên đại lộ Arthur ở Bronx. Ở đây, ông Giovanni mua nhiều thứ đồ ăn ngon mà anh ưa thích nhập từ cố hương, rồi ông cùng cháu nội và con dâu chia nhau thưởng thức.
Nhưng chính mẹ anh là người dẫn anh đi xem chiếu bóng ngay từ lúc anh còn rất nhỏ. Mỗi tuần bà đi thưởng thức chiếu bóng hai lần, và anh cũng vậy. Chính nhờ những buổi đi xem chiếu bóng mà anh đã học hỏi được nhiều về nghề diễn viên, nhờ xem những diễn viên đóng trên màn bạc. Về sau, anh trở thành người ngưỡng mộ tài tử Lee Strasberg và trở thành người học trò của ông ta cho đến lúc ông chết vào năm 1982. Nhưng chính nhờ những buổi đi xem chiếu bóng vào thời còn non dại này mà trong anh đã nảy sinh ước muốn làm nghề diễn viên.
Mẹ anh là người đáng tin cậy, là huấn luyện viên, là nhà phê bình và là khán giả của anh. Bà khuyến khích anh thực hiện ao ước của mình, luôn luôn nói với anh rằng, anh đẹp trai đủ sức để đóng phim. Nhưng anh không tin bà. Lúc ấy, anh cứ cho là mình lùn quá. Mẹ anh cười, nói chiều cao không quan trọng, chỉ có tài năng mới đáng kể, vả lại khi lớn lên anh sẽ cao hơn. Mẹ anh đã nói đúng điều này. Tuy nhiên, anh cũng không được cao như lòng anh mong ước.
Không lâu sau ngày mẹ anh và ông nội anh mất, Gavin gặp Kevin, Rosie và Nell, đồng thời cũng gặp Mikey và Sunny. Họ lập thành một nhóm nhỏ và thề sẽ xem nhau như người trong một gia đình, luôn luôn thương yêu giúp đỡ nhau, bất kỳ xảy ra hoàn cảnh như thế nào.
Anh sống với một người bà con của bố, một người cô cùng với chồng bà. Anh ở trong một phòng nhỏ trong nhà của họ với một số tiền không đáng kể, rồi làm việc trong một siêu thị vào những ngày cuối tuần để lấy tiền trả tiền nhà. Nhưng khi đã có đủ khả năng, anh rời nhà của bà cô họ, thuê một phòng trong nhà trọ nhỏ ở làng Greenwich, sống thoải mái, làm đủ thứ việc và làm bồi bàn cho một quán ăn ở tại địa phương. Và anh diễn kịch, có cơ hội là anh diễn, phần lớn diễn tại những nhà hát nhỏ trong làng.
Mẹ anh và ông nội anh không để anh hoàn toàn thiếu thốn. Họ đã gởi tiền trong ngân hàng cho anh, nhưng anh thích để dành đấy, phòng khi cần. Anh chỉ dùng tiền này để trả tiền học ở Phim trường Diễn viên, anh học ở đây với diễn viên bậc thầy, tài tử Lee Strasberg. Đây là trường dạy diễn xuất có chất lượng nhất.
Nhóm bạn bè là chỗ dựa chính của anh. Chính Gavin là người đặt cho mọi người trong nhóm những bí danh vào năm đầu tiên nhóm được thành lập. Rosie được anh gọi là Gương Mặt Thiên Thần vì mặt nàng đẹp dễ thương như một thiên thần. Nell được gọi là Nell Nhỏ dựa theo một nhân vật anh thích nhất của Charles Dickens. Kevin là Giày Cao su, cái tên rất thích hợp để gọi một cảnh sát chìm hấp dẫn. Mikey được đặt tên là Giáo sư, vì anh là một sinh viên cần mẫn. Sunny có biệt danh Cô Gái Tóc vàng, vì cô có mái tóc vàng óng ánh và luôn luôn vui cười nhanh nhẹn. Nay cô không còn thế nữa, anh buồn bã thầm nghĩ, không còn thế nữa.
Chính Rosie là người quyết định anh cũng phải có một biệt danh. Không cần hội ý với nhũng người khác, một hôm nàng tuyên bố anh được gọi là Diễn Viên.
- Anh là con tắc kè hoa, Gavin à - nàng nói. - Anh muốn thành người nào là thành người đó, anh đóng vai nào cũng được. Anh đúng là một "diễn viên". Anh là thế đấy. Gọi thế mới đúng với anh.
Rosie và anh luôn luôn gắn bó với nhau, ngay từ buổi đầu tiên anh gặp nàng và anh trai nàng. Rồi hai người yêu nhau một năm sau đó khi nàng 18 tuổi và anh hai mươi. Hai người gắn bó nhau ngay sau khi nàng theo học lớp Tạo mẫu thời trang 4 năm ở Viện thời trang của trường Kỹ thuật New york.
Mối tình đam mê lãng mạn thời son trẻ của hai người kéo dài được ba năm thì tan vỡ, vì những nguyên cớ nhỏ nhặt ngốc nghếch, anh không nhớ ra là những nguyên nhân gì nữa. Nhưng anh biết chắc chắn là do lỗi lầm của anh. Anh ích kỷ, chỉ lo công việc của mình. Anh biết thế. Anh chỉ nghĩ đến mình. Anh phân vân không biết có diễn viên nào không thế không. Tất cả diễn viên đều đối xử ngốc nghếch với người khác như thế.
Khi anh và Rosie lơ là nhau thì anh gặp Louise và anh lên giường với cô ta liền. Thế là bắt đầu những giây phút ngắn ngủi yêu đương cuồng nhiệt. Và sau hai lần làm tình vội vã, cô ta có thai. Họ phải cưới nhau gấp, vì Louise rất sợ bố mẹ cô, những chính trị gia theo xu hướng dân chủ xã hội, cô ta sợ bố mẹ cô sẽ ra tay, và cũng vì anh cảm thấy có tội, anh cảm thấy mình là người hoàn toàn chịu trách nhiệm về nỗi khó khăn của cô. Anh thường tự hào mình là người có danh dự. Và là người có trách nhiệm.
Một năm sau, Rosie được 22 tuổi, tốt nghiệp lớp Tạo mẫu Thời trang, nàng liền đi Paris. Ở đây nàng gặp Guy de Montfleurie qua sự giới thiệu của cô em gái gã, bạn của nàng. Collie. Thế là hai người dính nhau và một năm sau đó họ lấy nhau.
Chuyện đời diễn ra như thế đấy.
Cuối cùng Gavin và Rosie lại trở thành bạn bè rất thân thiết, nàng tham gia vào đoàn làm phim của anh. Hai người vui sướng trong cảnh bạn bè rất đằm thắm, sát cánh bên nhau, cùng làm việc với nhau. Nàng giúp anh chịu đựng được cảnh sống chung với Louise.
Gavin thở dài. Bao nhiêu đổi thay từ ngày họ còn nhỏ ở New York cho đến bây giờ. Trẻ trung, thơ ngây, dại dột, can đảm, lạc quan và rất nhiều chuyện kỳ diệu đã xảy ra. Mười bốn năm rồi. Quá lâu rồi. Gần hai thập niên trôi qua rồi.
Vừa rồi Louise đã ám chỉ anh vẫn còn thương yêu Rosie. Đúng thế. Anh vẫn còn yêu. Nói chung thì nàng là người bạn thân nhất, người đáng tin cẩn và là người cùng làm việc với anh trong tất cả các bộ phim. Anh không muốn làm gì khác hơn. Và đúng là anh yêu Rosalind Madigan. Nhưng tình yêu cao thượng. Những tình cảm lãng mạn với nhau đã hết lâu rồi; ngay trước khi anh gặp Louise, tình yêu mê muội đã hết rồi.
Gavin lật cổ áo lên, run vì lạnh, anh đứng trước tượng đài Arc de Triomphe.
Cứ nhớ lại quá khứ thật không hay ho gì, chẳng đem lại gì mà còn làm cho anh thêm đau lòng vô ích. Phải luôn luôn hướng tới trước. Đó là châm ngôn của anh. Tiến tới và tiến lên, anh nghĩ, mắt nhìn đài kỷ niệm hình cung uy nghiêm, nhìn lá cờ ba sắc tung bay trước gió. Lá cờ nước Pháp. Cờ của Napoléon.
Làm bộ phim này chắc là một công việc cực kỳ khó khăn, anh nghĩ, và đóng vai Napoléon mọt thử thách lớn lao nhất chưa từng có trong đời mình. Nhưng mình đã có một đội làm phim kỳ diệu gắn bó nhau; mình phải làm sao để phân công cho thật tốt mới được.
Mình làm việc có chuẩn bị hẳn hoi thì khi bắt đầu quay sẽ dễ dàng hơn.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook