Thất Dạ Tuyết
-
Chương 17: Dư quang
Một thời đại hỗn loạn bất an cuối cùng đã qua đi.
Sauk hi đại đồ đệ Thiên Sơn phái, một trong Bát Kiếm, Hoắc Triển Bạch tiếp nhận chức vị các chủ Đỉnh Kiếm các thay Nam Cung Ngôn Kỳ lão các chủ, võ lâm Trung Nguyên bắt đầu một thời kỳ bình an hiếm có – sau trận nội loạn, Đại Quang Minh cung ở Côn Luân không còn xuất đầu lộ diện, sát thủ Tu La trường cũng không tung hoành Tây Vực nữa, thậm chí Bái Nguyệt giáo ở phương Nam sau khi Thiên Lại giáo chủ qua đời cũng đã xếp cờ cất trống, không còn hằn hè đe dọa Võ Minh phương Nam nữa.
Trận chiến đó làm Thất Kiếm tổn thất quá nửa nhân thủ, các môn phái tiêu hao thực lực, nên phân tranh trong võ lâm Trung Nguyên cũng tạm thời dịu lại. Tất cả tựa như dòng nước chảy qua đoạn quanh co khúc khuỷu nhất, cuồi cùng cũng dần dần đến đoạn bằng lặng.
Hồi Thiên lệnh của Dược Sư cốc vẫn không ngừng phát ra, từng đợt từng đợt bệnh nhân không ngại vượt ngàn dặm xa xôi đến cầu y, nhưng số lượng đã từ 10 người mỗi năm biến thành mỗi ngày một người – trong cốc, mọi việc vẫn như cũ, chỉ là vị Tiết cốc chủ áo tím kia đã không còn ở đó nữa.
Tiền nhiệm cốc chủ Liêu Thanh Nhiễm trở về chấp chưởng Dược Sư cốc, nhưng lại chưa 1 lần lộ diện, mọi chuyện đều do đệ tử mới thu nhận sắp xếp.
Mọi người đều ngạc nhiên khi thấy Dược Sư cốc xưa chỉ toàn nữ tử lại thu nhận một đồ đệ nam nhi, nhưng Liêu cốc chủ chỉ chăm chú nhìn đàn bướm dạ quang thi nhau đậu trên vai người đồ đệ mới nhận, điềm đạm đáp một câu: “Nhã Di có trái tim của một đứa trẻ.”
Có điều, chẳng bao lâu sau, những người dị nghị kia cũng cảm thấy đó là chuyện hết sức bình thường…
Đệ tử có cái tên Nhã Di kia chẳng những thiên tư thông minh, chăm chỉ hiếu học, y thuật tiến bộ thần tốc, mà hiếm có hơn là tính cách của y cũng rất tốt, khiến những bệnh nhân từng phải chịu đựng tính khí nóng như lửa của Tiết cốc chủ thuở trước đều có cảm giác được tắm trong làn gió xuân dịu dàng ấm áp.
Hơn nữa, y cũng là một người có khả năng phục chúng. Bất luận là bệnh nhân hung hăng thế nào, chỉ cần gặp phải y là đều hết sức biết điều, ngoan ngoãn nghe lời.
Từng có một lần, Quan Đông Đại Đạo Mãnh HỘc bị chuẩn đoán mắc phải tuyệt chứng không thể chữa trị, tuyệt vọng hóa điên, điên cuồng đuổi giết mọi người trong cốc, nhất thời không ai cản nổi. Đệ tử trẻ tuổi có mái tóc xanh lam ấy đã chặn y lại ở Đông Chi Quán, nụ cười trên miệng chưa tắt, chỉ khẽ cất tay đã trực tiếp hạ sát đối phương.
Người tên Nhã Di đó chẳng mấy chốc đã trở thành truyền kỳ trên giang hồ, khiến người người đều không ngừng suy đoán.
Y đối xử với ai cũng ôn hòa lễ độ, ứng đối đắc thể, nhưng lại ngấm ngầm giữ một khoảng cách không thể tiếp cận. Có người hỏi y về quá khứ, y chỉ cười cười đáp: “Từng là một bệnh nhân bị bệnh ăn đến xương tủy, được cốc chủ Tiết Tử Dạ cứu mạng, vậy nên đã đầu nhập làm môn hạ Dược Sư cốc, hy vọng có thể báo đáo đại ân .”
Không ai biết những lời này là thật hay giả, cũng như không ai nhìn thấu được ánh mắt đằng sau nụ cười tủm tỉm đó của y.
Không ai biết được, đại phu trẻ tuổi diệu thủ nhân tâm, ôn như nhã nhặn này lại từng là một kẻ sát nhân vô cảm. Càng không ai biết được, làm sao mà y sống lại được – quá trình “sống” lại đó, thậm chí còn đau khổ hơn “chết” bội phần.
Bởi vì khi y khôi phục lại cảm xúc của một người bình thường, tất cả đều đã trở thành hư ảo.
Y từng nhờ Đồng phái người xuống vực sâu tìm kiếm di thể của vương tỷ Thiện Mật, song không có kết quả gì – cuối cùng y cũng nhận ra, sợi dây cuối cùng nối mình với thế giới ấy đã bị cắt đứt.
Nhưng y vẫn chỉ mỉm cười như trước.
Nhiều lúc, người trong cốc lại thấy y đứng trên hồ Băng Hỏa trầm tư – thiếu niên nằm dưới lớp băng kia đã được an tang chung với Tiết cốc chủ rồi, nhưng y vẫn nhìn mặt băng ấy đến xuất thần, phảng phất như đã nhìn thấy một thời không khác bên dưới làn nước sâu không thấy đáy kia. Không người nào hiểu y đang chờ đợi điều gì…
Y chờ đợi một thời đại gió mây vần vũ, chờ đợi thời khắc 2 vị cao thủ chính tà của Trung Nguyên và Tây Vực quyết chiến lần nữa. Lúc ấy, y sẽ như nàng, tận hết toàn lực, không lùi nửa bước.
Mỗi năm khi mùa đông dừng chân ở Giang Nam, tân các chủ Đỉnh Kiếm các đều một mình đến Dược Sư cốc, không phải để xem bệnh, mà chỉ đến dưới gốc mai kia ngồi lặng lẽ, độc ẩm vài chung, sau đó lại lặng lẽ ra đi. Bầu bạn với gã, ngoài con Tuyết Diêu hiểu tính người kia, chỉ có vị tân cốc chủ thần bí Nhã Di mà thôi.
Ngoài chuyện này ra, gã cũng là một các chủ hết sức cần mẫn. Mỗi ngày đều xử lý một lượng lớn các án quyển, điều đình mâu thuẫn giữa các môn phái trong võ lâm, tuyển lựa anh tài, trừ quân bại hoại – ngọn đèn lầu cao nhất của Đỉnh Kiếm các, thường xuyên đến khuya mới tắt.
Hàng tháng cứ đến ngày 15, gã đều từ Đỉnh Kiếm các ở Mạt Lăng tới Cửu Diệu sơn trang ở Lâm An thăm Thu Thủy Âm.
Nàng xuất giá đã mười mấy năm, tuổi xuân dần qua. Còn gã thiếu niên trẻ tuổi bộp chộp năm xưa cũng đã tới tuổi nhi lập, trở thành bá chủ võ lâm Trung Nguyên, thành đối tượng ngưỡng mộ của vô số giang hồ nhi nữ.
Vậy mà, bao nhiêu năm nay, sự quan tâm của gã đối với nàng cũng chưa hề giảm sút nửa phần…
Mỗi tháng, gã đến đến Cửu Diệu sơnt rang, ngồi cách một tấm bình phong, nghiêng người ra trước, khách khí hỏi han tình hình sức khỏe của nàng, cuộc sống có cần thêm gì không. Nữ tử ấy cũng ngồi ngay ngắn sau tấm bình phong khách khí trả lời, duy trì thái độ cẩn trọng nhưng kiêu ngạo.
Nỗi đau mất con đã dần qua đi, bệnh điên của nàng cũng dần thuyên giảm, nhưng đôi mắt lại mỗi ngày một them ảm đạm.
Mỗi lần gã đến, nàng đều nói rất ít, chỉ nhìn chăm chăm vào cái bóng mơ hồ bên kia tấm bình phong, nét mặt hoang mang ngơ ngẩn: cơ hồ nàng cũng biết nam tử ấy sẽ mãi mãi dừng lại ở bên kia tấm màn, không bao giờ tiến lại gần them dù chỉ là nửa bước.
Nàng xưa nay vẫn kiêu ngạo, còn gã thì chỉ biết đuổi theo.
Nàng đã quen được theo đuổi, quen được chiều chuộng, nhưng nàng lại không biết cúi đầu. Vì vậy, gã nay đã thành thủ lĩnh của võ lâm Trung Nguyên, lại cứ giữ mãi thái độ xa cách ấy, thế nên sự kiêu ngạo của nàng cũng không cho phép nàng cúi đầu trước gã.
Câu chuyện rung động lòng người của gã và nàng lan đi trên giang hồ, trở thành giai thoại. Người người đều nói Hoắc các chủ chẳng những là một anh hùng, mà còn là một kẻ si tình, ai nấy đều cảm thán gã là người chung thủy không thay lòng, chỉ trích nàng vô tình lãnh mạc. Còn nàng, nàng chỉ cười lạnh cho qua…
Chỉ có nàng mới hiểu, nàng đã đánh mất gã từ lúc nào không hay.
Tám năm nay, nàng trân mắt ta nhìn gã vì mình mà bôn ba khắp nơi, vào sinh ra tử, bất luận nàng đối đãi thế nào, gã cũng không oán không giận - nàng vốn cứ ngỡ rằng gã sẽ là tù nhân vĩnh viễn của mình.
Vậy mà, không ngờ gã đã thoát ra được gong cùm của số phận mà nàng chẳng hề hay biết.
Trái tim gã, bây giờ ở nơi nao?
Ngày hôm đó, khi gã khách khí đứng dậy cáo từ như mọi khi, nàng đã không thể nén nhịn, đột nhiên đứng phắt dậy, không đếm xỉa gì nữa, đưa tay đẩy ngã tấm bình phong vẫn chắn giữa hai người, đối diện với gã, trong mắt như có lửa cháy bừng bừng, cố tự kiềm chế mà run run giọng hỏi: “Rốt cuộc là vì sao? Vì sao!”
Tiếng đổ vỡ làm người đang dợm bước đi ngẩn ra, ngạc nhiên nhìn nàng.
“Xin lỗi.” Gã không biện bạch câu nào, chỉ buông ra hai chữ ấy.
Phải, thời thiếu niên ngông cuồng trẻ dại của gã từng lập lời thề cả đời sẽ không đổi thay, cũng từng vì nàng mà bôn ba muôn dặm, cửu tử nhất sinh không hề hối hận. Nếu như có thể, gã cũng hy vọng tình cảm này sẽ mãi mãi duy trì, không rời không bỏ, vĩnh viễn tươi mới như xưa.
Thế nhưng, trong dòng chảy của thời gian và những biến hóa của cuộc đời, gã đã không thể kiên định đến cuối cùng.
Gã nhìn nàng, ánh mắt chan chứa bi thương và áy náy.
Sau đó, gã cứ thế quay người bước đi, không ngoảnh mặt lại lấy một lần.
Bầu trời bên ngoài xám xịt, lơ thơ vài bông hoa tuyết lả lướt rơi xuống cổ áo gã.
Mỗi năm đến mùa tuyết rơi, gã đều không thể nén lòng mà nhớ tới nữ tử áo tím kia. Tám năm ròng, thời gian hai người ở bên nhau không nhiều, nhưng mỗi ngày đó đều hết sức vui vẻ và thoải mái.
Gã còn nhớ rất rõ khoảng thời gian cuối cùng ở Dược Sư cốc, tổng cộng 7 đêm, đêm nào cũng có tuyết rơi. Gã mãi không sao quên được cảnh tượng lúc mình tỉnh lại trong đêm hôm ấy: Trời đất lặng im, tuyết rơi mai rụng, ánh lửa chiếu rọi gương mặt nghiêng nghiêng của nữ tử đang say ngủ trong lòng, bình thản mà ấm áp – cuộc sống gã mong muốn cũng chỉ có vậy mà thôi.
Song, trong đêm tuyết ấy, gã bất ngờ có được mọi thứ trong mộng tưởng, nhưng rồi lại mau chóng mát đi tất cả, chỉ để lại trong ký ức một chút ấm áp, sưởi ấm cho nửa đời tịch mịch còn lại.
Giờ lại thêm một năm nữa.
Không biết trong Dược Sư cốc bên bờ Mạc hà kia, cây mai trắng đó đã nở hoa chưa? Bình rượu chon dưới gốc cây đã cạn khô, đại khái chắc chỉ còn vị đại phu tóc lam kia, vẫn đang lặng lẽ thổi một khúc “Cát Sinh” chăng?
Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách tuế chi hậu, quy vu kỳ thất.
Còn gã, trăm năm sau, gã sẽ về nơi đâu?
Ở phương Bắc xa xôi, gió thổi cắt da cắt thịt trên dòng song băng, gào rít như lệ quỷ đang khóc than.
Dưới ánh chiều ta, trong thôn làng hoang phế, một người quỳ trước mộ đã lâu.
“…” Hắn cắm nén hương xuống trước mộ, ngón tay bị cái lạnh làm cho tái nhợt khẽ cất lên, chầm chậm vuốt lên bia mộ lạnh buốt. Ngón trỏ bàn tay ấy đeo một chiếc nhẫn lớn, bên trên khảm một viên ngọc đỏ như lửa, lấp lánh phát sánh trên nền tuyết trắng.
Nén hương cắm trên tuyết, một điểm sang nhỏ ảm đạm lập lòe lúc tắt lúc sang dưới bóng chiều tà.
Hôm nay là Tết Thanh Minh của người Trung Nguyên. Trên tuyết vẫn còn để lại tro tàn và đồ cúng, chứng tỏ hôm nay đã có người tới đây bái tế trước cả hắn.
“Tuyết Hoài, tỷ tỷ…
Người trong tấm áo dài đen tuyền kia ngẩng đầu lên, ánh mắt bỗng thiết tha hiếm thấy, ngây ngây nhìn tấm bia mộ phủ đầy tuyết – đôi mắt hắn đen tuyền như màn đêm, tròng trắng lại ánh lên sắc lam nhàn nhạt kỳ dị, sáng như kim cương, khiến người khác không dám nhìn thẳng vào.
Hắn chăm chú nhìn bia mộ, thì thầm nói: “Đệ đến thăm hai người đây.” Nhưng rồi chỉ có tiếng gió thét gào đáp trả lại hắn.
“Tỷ tỷ, đệ đến để xin tỷ tha thứ.” Giáo vương trẻ tuồi đưa tay phất nhẹ tuyết đọng trên bia mộ, lẩm nhẩm như đang nói với chính bản thân mình: “Một thánh sau, kế hoạch ‘Huyết Hà’ sẽ khởi động, đệ sẽ toàn diện khai chiến với Trung Nguyên Đỉnh Kiếm các!”
Vẫn chỉ cơn gió lạnh buốt của Mạc Hà trả lời hắn, vi vu lướt qua bên tai, nghe như tiếng khóc than.
Hắn quỳ xuống giữa những nấm mộ trải dài, im lìm bất động, để mặc tuyết phủ kín hai vai.
“Giáo vương.” Một tên thuộc hạ đứng xa xa khom người, cung kính nhắc nhở: “Nghe nói sắp tới sẽ có một trận tuyết lở trăm năm khó gặp ở Mạc Hà này, xin Giáo vương khởi hành về cung cho sớm.”
Cuối cùng Đồng cũng đứng dậy, lặng lẽ quay người trước tấm bia mộ, đi qua thôn làng tan hoang ra ngoài đường lớn.
Bên tai bỗng vang lên tiếng kim loại va vào nhau – hắn thoáng kính ngạc, nghiêng đầu nhìn vào một căn phòng trống huếch. Hắn nhận ra: nơi đó, chính là nơi hắn trải qua thời niên thiếu trong những cơn ác mộng! Mười mấy năm sau, mái nhà bện bằng vỏ cây bạch dương đã bị tuyết đè cho sập xuống, gió cứ thế lùa vào, hai sợi xích sắt trên tường rủ xuống va vào nhau, phát ra những âm thanh chói tai.
Hắn bỗng nhiên lảo đảo, gương mặt trở nên thống khổ.
Giây phút ấy, hắn chợt nhớ lại thời thơ ấu xa xăm đến dường như không chân thực, bóng đêm vô cùng vô tận và đôi mắt sáng ngời trong đêm đen ấy… nàng gọi hắn là đệ đệ, kéo tay hắn vui vẻ chơi đùa trên song băng, thật khoái lạc thật tự do biết bao – phải trả giá thế nào, mới có thể khiến nièm hoan lạc ngắn ngủi ấy trùng hiện một lần nữa trong đời hắn đây?
Hắn chỉ muốn mãi mãi ở lại trong ký ức đó, song, không ai có thể trở về thơi xưa cũ ấy nữa rồi.
Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách niên chi hậu, quy vu kỳ thất.
Những người từng cho hắn cảm giác ấm áp, giờ đây đều đã vĩnh viễn trở về với mặt đất lạnh giá kia. Còn hắn, cũng đã trải qua ngàn dặm bôn ba, đứng trên đỉnh cao của quyền lực, kiêu ngạo biết bao, cô độc biết bao.
Quyền lực là một con hổ ác, chỉ cần cưỡi lên lưng nó thì sẽ không dễ gì xuống nổi. Vì vậy, hắn chỉ còn cách điều khiển cho con hổ này không ngừng ngốn ngấu nuốt them nhiều người hơn nữa, tìm về thật nhiều máu để tống đầy cái dạ dày không đáy của nó, chỉ như vậy, hắn mới giữ mình không bị con hổ đó quay đầu cắn ngược – thậm chí gã còn từ vết xe của Giáo vương đời trước mà đoán biết được đời mình sẽ kết cục ở đâu.
Hai mắt Đồng hiện lên vo số màu sắc, trầm mặc giữa trời và tuyết, không để cảm giác đau đớn xé ruột xé gan ấy tuôn trào lên cổ họng.
Bên cạnh thôn trang, rừng linh sam sừng sững như những tấm bia mộ khổng lồ màu xám chọc thẳng lên bầu trời đầy tuyết. Chỉ có tuyết nơi đồng hoang vẫn rơi xuống như vô cùng vô tận, lạnh lẽo mà âm thầm, cơ hồ muốn chôn vủi tất cả.
“Nhìn kìa!” Bỗng nhiên, bỗng nhiên, hắn nghe thấy một tiếng reo mừng rỡ, đám thủ hạ bên cạnh đều ngước mắt lên cao: “Đó là gì vậy?”
Hắn cũng bất giác ngẩng đầu lên, trong nháy mắt, cả hơi thở cũng như nghẽn lại…
Bầu trời xám trắng, bỗng nhiên sáng bừng lên một luồng ánh sáng trải dài vô tận! Luồng sáng đó từ miền cực Bắc xa xăm xạ tới, phủ trùm lên dòng Mạc hà, biến ảo giữa màn tuyết phiêu diêu, màu sắc lần lượt đổi thay: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím… ánh sáng rọi xuống khu mộ địa tựa như một giấc mộng bất ngờ buông xuống nhân gian.
“Ánh sáng.”
Dưới sức mạnh thần kỳ của tạo hóa, vị Giáo vương trẻ tuổi quỳ phục dưới màn tuyết bay bay, chầm chậm vươn hai tay lên trời cao.
Sauk hi đại đồ đệ Thiên Sơn phái, một trong Bát Kiếm, Hoắc Triển Bạch tiếp nhận chức vị các chủ Đỉnh Kiếm các thay Nam Cung Ngôn Kỳ lão các chủ, võ lâm Trung Nguyên bắt đầu một thời kỳ bình an hiếm có – sau trận nội loạn, Đại Quang Minh cung ở Côn Luân không còn xuất đầu lộ diện, sát thủ Tu La trường cũng không tung hoành Tây Vực nữa, thậm chí Bái Nguyệt giáo ở phương Nam sau khi Thiên Lại giáo chủ qua đời cũng đã xếp cờ cất trống, không còn hằn hè đe dọa Võ Minh phương Nam nữa.
Trận chiến đó làm Thất Kiếm tổn thất quá nửa nhân thủ, các môn phái tiêu hao thực lực, nên phân tranh trong võ lâm Trung Nguyên cũng tạm thời dịu lại. Tất cả tựa như dòng nước chảy qua đoạn quanh co khúc khuỷu nhất, cuồi cùng cũng dần dần đến đoạn bằng lặng.
Hồi Thiên lệnh của Dược Sư cốc vẫn không ngừng phát ra, từng đợt từng đợt bệnh nhân không ngại vượt ngàn dặm xa xôi đến cầu y, nhưng số lượng đã từ 10 người mỗi năm biến thành mỗi ngày một người – trong cốc, mọi việc vẫn như cũ, chỉ là vị Tiết cốc chủ áo tím kia đã không còn ở đó nữa.
Tiền nhiệm cốc chủ Liêu Thanh Nhiễm trở về chấp chưởng Dược Sư cốc, nhưng lại chưa 1 lần lộ diện, mọi chuyện đều do đệ tử mới thu nhận sắp xếp.
Mọi người đều ngạc nhiên khi thấy Dược Sư cốc xưa chỉ toàn nữ tử lại thu nhận một đồ đệ nam nhi, nhưng Liêu cốc chủ chỉ chăm chú nhìn đàn bướm dạ quang thi nhau đậu trên vai người đồ đệ mới nhận, điềm đạm đáp một câu: “Nhã Di có trái tim của một đứa trẻ.”
Có điều, chẳng bao lâu sau, những người dị nghị kia cũng cảm thấy đó là chuyện hết sức bình thường…
Đệ tử có cái tên Nhã Di kia chẳng những thiên tư thông minh, chăm chỉ hiếu học, y thuật tiến bộ thần tốc, mà hiếm có hơn là tính cách của y cũng rất tốt, khiến những bệnh nhân từng phải chịu đựng tính khí nóng như lửa của Tiết cốc chủ thuở trước đều có cảm giác được tắm trong làn gió xuân dịu dàng ấm áp.
Hơn nữa, y cũng là một người có khả năng phục chúng. Bất luận là bệnh nhân hung hăng thế nào, chỉ cần gặp phải y là đều hết sức biết điều, ngoan ngoãn nghe lời.
Từng có một lần, Quan Đông Đại Đạo Mãnh HỘc bị chuẩn đoán mắc phải tuyệt chứng không thể chữa trị, tuyệt vọng hóa điên, điên cuồng đuổi giết mọi người trong cốc, nhất thời không ai cản nổi. Đệ tử trẻ tuổi có mái tóc xanh lam ấy đã chặn y lại ở Đông Chi Quán, nụ cười trên miệng chưa tắt, chỉ khẽ cất tay đã trực tiếp hạ sát đối phương.
Người tên Nhã Di đó chẳng mấy chốc đã trở thành truyền kỳ trên giang hồ, khiến người người đều không ngừng suy đoán.
Y đối xử với ai cũng ôn hòa lễ độ, ứng đối đắc thể, nhưng lại ngấm ngầm giữ một khoảng cách không thể tiếp cận. Có người hỏi y về quá khứ, y chỉ cười cười đáp: “Từng là một bệnh nhân bị bệnh ăn đến xương tủy, được cốc chủ Tiết Tử Dạ cứu mạng, vậy nên đã đầu nhập làm môn hạ Dược Sư cốc, hy vọng có thể báo đáo đại ân .”
Không ai biết những lời này là thật hay giả, cũng như không ai nhìn thấu được ánh mắt đằng sau nụ cười tủm tỉm đó của y.
Không ai biết được, đại phu trẻ tuổi diệu thủ nhân tâm, ôn như nhã nhặn này lại từng là một kẻ sát nhân vô cảm. Càng không ai biết được, làm sao mà y sống lại được – quá trình “sống” lại đó, thậm chí còn đau khổ hơn “chết” bội phần.
Bởi vì khi y khôi phục lại cảm xúc của một người bình thường, tất cả đều đã trở thành hư ảo.
Y từng nhờ Đồng phái người xuống vực sâu tìm kiếm di thể của vương tỷ Thiện Mật, song không có kết quả gì – cuối cùng y cũng nhận ra, sợi dây cuối cùng nối mình với thế giới ấy đã bị cắt đứt.
Nhưng y vẫn chỉ mỉm cười như trước.
Nhiều lúc, người trong cốc lại thấy y đứng trên hồ Băng Hỏa trầm tư – thiếu niên nằm dưới lớp băng kia đã được an tang chung với Tiết cốc chủ rồi, nhưng y vẫn nhìn mặt băng ấy đến xuất thần, phảng phất như đã nhìn thấy một thời không khác bên dưới làn nước sâu không thấy đáy kia. Không người nào hiểu y đang chờ đợi điều gì…
Y chờ đợi một thời đại gió mây vần vũ, chờ đợi thời khắc 2 vị cao thủ chính tà của Trung Nguyên và Tây Vực quyết chiến lần nữa. Lúc ấy, y sẽ như nàng, tận hết toàn lực, không lùi nửa bước.
Mỗi năm khi mùa đông dừng chân ở Giang Nam, tân các chủ Đỉnh Kiếm các đều một mình đến Dược Sư cốc, không phải để xem bệnh, mà chỉ đến dưới gốc mai kia ngồi lặng lẽ, độc ẩm vài chung, sau đó lại lặng lẽ ra đi. Bầu bạn với gã, ngoài con Tuyết Diêu hiểu tính người kia, chỉ có vị tân cốc chủ thần bí Nhã Di mà thôi.
Ngoài chuyện này ra, gã cũng là một các chủ hết sức cần mẫn. Mỗi ngày đều xử lý một lượng lớn các án quyển, điều đình mâu thuẫn giữa các môn phái trong võ lâm, tuyển lựa anh tài, trừ quân bại hoại – ngọn đèn lầu cao nhất của Đỉnh Kiếm các, thường xuyên đến khuya mới tắt.
Hàng tháng cứ đến ngày 15, gã đều từ Đỉnh Kiếm các ở Mạt Lăng tới Cửu Diệu sơn trang ở Lâm An thăm Thu Thủy Âm.
Nàng xuất giá đã mười mấy năm, tuổi xuân dần qua. Còn gã thiếu niên trẻ tuổi bộp chộp năm xưa cũng đã tới tuổi nhi lập, trở thành bá chủ võ lâm Trung Nguyên, thành đối tượng ngưỡng mộ của vô số giang hồ nhi nữ.
Vậy mà, bao nhiêu năm nay, sự quan tâm của gã đối với nàng cũng chưa hề giảm sút nửa phần…
Mỗi tháng, gã đến đến Cửu Diệu sơnt rang, ngồi cách một tấm bình phong, nghiêng người ra trước, khách khí hỏi han tình hình sức khỏe của nàng, cuộc sống có cần thêm gì không. Nữ tử ấy cũng ngồi ngay ngắn sau tấm bình phong khách khí trả lời, duy trì thái độ cẩn trọng nhưng kiêu ngạo.
Nỗi đau mất con đã dần qua đi, bệnh điên của nàng cũng dần thuyên giảm, nhưng đôi mắt lại mỗi ngày một them ảm đạm.
Mỗi lần gã đến, nàng đều nói rất ít, chỉ nhìn chăm chăm vào cái bóng mơ hồ bên kia tấm bình phong, nét mặt hoang mang ngơ ngẩn: cơ hồ nàng cũng biết nam tử ấy sẽ mãi mãi dừng lại ở bên kia tấm màn, không bao giờ tiến lại gần them dù chỉ là nửa bước.
Nàng xưa nay vẫn kiêu ngạo, còn gã thì chỉ biết đuổi theo.
Nàng đã quen được theo đuổi, quen được chiều chuộng, nhưng nàng lại không biết cúi đầu. Vì vậy, gã nay đã thành thủ lĩnh của võ lâm Trung Nguyên, lại cứ giữ mãi thái độ xa cách ấy, thế nên sự kiêu ngạo của nàng cũng không cho phép nàng cúi đầu trước gã.
Câu chuyện rung động lòng người của gã và nàng lan đi trên giang hồ, trở thành giai thoại. Người người đều nói Hoắc các chủ chẳng những là một anh hùng, mà còn là một kẻ si tình, ai nấy đều cảm thán gã là người chung thủy không thay lòng, chỉ trích nàng vô tình lãnh mạc. Còn nàng, nàng chỉ cười lạnh cho qua…
Chỉ có nàng mới hiểu, nàng đã đánh mất gã từ lúc nào không hay.
Tám năm nay, nàng trân mắt ta nhìn gã vì mình mà bôn ba khắp nơi, vào sinh ra tử, bất luận nàng đối đãi thế nào, gã cũng không oán không giận - nàng vốn cứ ngỡ rằng gã sẽ là tù nhân vĩnh viễn của mình.
Vậy mà, không ngờ gã đã thoát ra được gong cùm của số phận mà nàng chẳng hề hay biết.
Trái tim gã, bây giờ ở nơi nao?
Ngày hôm đó, khi gã khách khí đứng dậy cáo từ như mọi khi, nàng đã không thể nén nhịn, đột nhiên đứng phắt dậy, không đếm xỉa gì nữa, đưa tay đẩy ngã tấm bình phong vẫn chắn giữa hai người, đối diện với gã, trong mắt như có lửa cháy bừng bừng, cố tự kiềm chế mà run run giọng hỏi: “Rốt cuộc là vì sao? Vì sao!”
Tiếng đổ vỡ làm người đang dợm bước đi ngẩn ra, ngạc nhiên nhìn nàng.
“Xin lỗi.” Gã không biện bạch câu nào, chỉ buông ra hai chữ ấy.
Phải, thời thiếu niên ngông cuồng trẻ dại của gã từng lập lời thề cả đời sẽ không đổi thay, cũng từng vì nàng mà bôn ba muôn dặm, cửu tử nhất sinh không hề hối hận. Nếu như có thể, gã cũng hy vọng tình cảm này sẽ mãi mãi duy trì, không rời không bỏ, vĩnh viễn tươi mới như xưa.
Thế nhưng, trong dòng chảy của thời gian và những biến hóa của cuộc đời, gã đã không thể kiên định đến cuối cùng.
Gã nhìn nàng, ánh mắt chan chứa bi thương và áy náy.
Sau đó, gã cứ thế quay người bước đi, không ngoảnh mặt lại lấy một lần.
Bầu trời bên ngoài xám xịt, lơ thơ vài bông hoa tuyết lả lướt rơi xuống cổ áo gã.
Mỗi năm đến mùa tuyết rơi, gã đều không thể nén lòng mà nhớ tới nữ tử áo tím kia. Tám năm ròng, thời gian hai người ở bên nhau không nhiều, nhưng mỗi ngày đó đều hết sức vui vẻ và thoải mái.
Gã còn nhớ rất rõ khoảng thời gian cuối cùng ở Dược Sư cốc, tổng cộng 7 đêm, đêm nào cũng có tuyết rơi. Gã mãi không sao quên được cảnh tượng lúc mình tỉnh lại trong đêm hôm ấy: Trời đất lặng im, tuyết rơi mai rụng, ánh lửa chiếu rọi gương mặt nghiêng nghiêng của nữ tử đang say ngủ trong lòng, bình thản mà ấm áp – cuộc sống gã mong muốn cũng chỉ có vậy mà thôi.
Song, trong đêm tuyết ấy, gã bất ngờ có được mọi thứ trong mộng tưởng, nhưng rồi lại mau chóng mát đi tất cả, chỉ để lại trong ký ức một chút ấm áp, sưởi ấm cho nửa đời tịch mịch còn lại.
Giờ lại thêm một năm nữa.
Không biết trong Dược Sư cốc bên bờ Mạc hà kia, cây mai trắng đó đã nở hoa chưa? Bình rượu chon dưới gốc cây đã cạn khô, đại khái chắc chỉ còn vị đại phu tóc lam kia, vẫn đang lặng lẽ thổi một khúc “Cát Sinh” chăng?
Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách tuế chi hậu, quy vu kỳ thất.
Còn gã, trăm năm sau, gã sẽ về nơi đâu?
Ở phương Bắc xa xôi, gió thổi cắt da cắt thịt trên dòng song băng, gào rít như lệ quỷ đang khóc than.
Dưới ánh chiều ta, trong thôn làng hoang phế, một người quỳ trước mộ đã lâu.
“…” Hắn cắm nén hương xuống trước mộ, ngón tay bị cái lạnh làm cho tái nhợt khẽ cất lên, chầm chậm vuốt lên bia mộ lạnh buốt. Ngón trỏ bàn tay ấy đeo một chiếc nhẫn lớn, bên trên khảm một viên ngọc đỏ như lửa, lấp lánh phát sánh trên nền tuyết trắng.
Nén hương cắm trên tuyết, một điểm sang nhỏ ảm đạm lập lòe lúc tắt lúc sang dưới bóng chiều tà.
Hôm nay là Tết Thanh Minh của người Trung Nguyên. Trên tuyết vẫn còn để lại tro tàn và đồ cúng, chứng tỏ hôm nay đã có người tới đây bái tế trước cả hắn.
“Tuyết Hoài, tỷ tỷ…
Người trong tấm áo dài đen tuyền kia ngẩng đầu lên, ánh mắt bỗng thiết tha hiếm thấy, ngây ngây nhìn tấm bia mộ phủ đầy tuyết – đôi mắt hắn đen tuyền như màn đêm, tròng trắng lại ánh lên sắc lam nhàn nhạt kỳ dị, sáng như kim cương, khiến người khác không dám nhìn thẳng vào.
Hắn chăm chú nhìn bia mộ, thì thầm nói: “Đệ đến thăm hai người đây.” Nhưng rồi chỉ có tiếng gió thét gào đáp trả lại hắn.
“Tỷ tỷ, đệ đến để xin tỷ tha thứ.” Giáo vương trẻ tuồi đưa tay phất nhẹ tuyết đọng trên bia mộ, lẩm nhẩm như đang nói với chính bản thân mình: “Một thánh sau, kế hoạch ‘Huyết Hà’ sẽ khởi động, đệ sẽ toàn diện khai chiến với Trung Nguyên Đỉnh Kiếm các!”
Vẫn chỉ cơn gió lạnh buốt của Mạc Hà trả lời hắn, vi vu lướt qua bên tai, nghe như tiếng khóc than.
Hắn quỳ xuống giữa những nấm mộ trải dài, im lìm bất động, để mặc tuyết phủ kín hai vai.
“Giáo vương.” Một tên thuộc hạ đứng xa xa khom người, cung kính nhắc nhở: “Nghe nói sắp tới sẽ có một trận tuyết lở trăm năm khó gặp ở Mạc Hà này, xin Giáo vương khởi hành về cung cho sớm.”
Cuối cùng Đồng cũng đứng dậy, lặng lẽ quay người trước tấm bia mộ, đi qua thôn làng tan hoang ra ngoài đường lớn.
Bên tai bỗng vang lên tiếng kim loại va vào nhau – hắn thoáng kính ngạc, nghiêng đầu nhìn vào một căn phòng trống huếch. Hắn nhận ra: nơi đó, chính là nơi hắn trải qua thời niên thiếu trong những cơn ác mộng! Mười mấy năm sau, mái nhà bện bằng vỏ cây bạch dương đã bị tuyết đè cho sập xuống, gió cứ thế lùa vào, hai sợi xích sắt trên tường rủ xuống va vào nhau, phát ra những âm thanh chói tai.
Hắn bỗng nhiên lảo đảo, gương mặt trở nên thống khổ.
Giây phút ấy, hắn chợt nhớ lại thời thơ ấu xa xăm đến dường như không chân thực, bóng đêm vô cùng vô tận và đôi mắt sáng ngời trong đêm đen ấy… nàng gọi hắn là đệ đệ, kéo tay hắn vui vẻ chơi đùa trên song băng, thật khoái lạc thật tự do biết bao – phải trả giá thế nào, mới có thể khiến nièm hoan lạc ngắn ngủi ấy trùng hiện một lần nữa trong đời hắn đây?
Hắn chỉ muốn mãi mãi ở lại trong ký ức đó, song, không ai có thể trở về thơi xưa cũ ấy nữa rồi.
Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách niên chi hậu, quy vu kỳ thất.
Những người từng cho hắn cảm giác ấm áp, giờ đây đều đã vĩnh viễn trở về với mặt đất lạnh giá kia. Còn hắn, cũng đã trải qua ngàn dặm bôn ba, đứng trên đỉnh cao của quyền lực, kiêu ngạo biết bao, cô độc biết bao.
Quyền lực là một con hổ ác, chỉ cần cưỡi lên lưng nó thì sẽ không dễ gì xuống nổi. Vì vậy, hắn chỉ còn cách điều khiển cho con hổ này không ngừng ngốn ngấu nuốt them nhiều người hơn nữa, tìm về thật nhiều máu để tống đầy cái dạ dày không đáy của nó, chỉ như vậy, hắn mới giữ mình không bị con hổ đó quay đầu cắn ngược – thậm chí gã còn từ vết xe của Giáo vương đời trước mà đoán biết được đời mình sẽ kết cục ở đâu.
Hai mắt Đồng hiện lên vo số màu sắc, trầm mặc giữa trời và tuyết, không để cảm giác đau đớn xé ruột xé gan ấy tuôn trào lên cổ họng.
Bên cạnh thôn trang, rừng linh sam sừng sững như những tấm bia mộ khổng lồ màu xám chọc thẳng lên bầu trời đầy tuyết. Chỉ có tuyết nơi đồng hoang vẫn rơi xuống như vô cùng vô tận, lạnh lẽo mà âm thầm, cơ hồ muốn chôn vủi tất cả.
“Nhìn kìa!” Bỗng nhiên, bỗng nhiên, hắn nghe thấy một tiếng reo mừng rỡ, đám thủ hạ bên cạnh đều ngước mắt lên cao: “Đó là gì vậy?”
Hắn cũng bất giác ngẩng đầu lên, trong nháy mắt, cả hơi thở cũng như nghẽn lại…
Bầu trời xám trắng, bỗng nhiên sáng bừng lên một luồng ánh sáng trải dài vô tận! Luồng sáng đó từ miền cực Bắc xa xăm xạ tới, phủ trùm lên dòng Mạc hà, biến ảo giữa màn tuyết phiêu diêu, màu sắc lần lượt đổi thay: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím… ánh sáng rọi xuống khu mộ địa tựa như một giấc mộng bất ngờ buông xuống nhân gian.
“Ánh sáng.”
Dưới sức mạnh thần kỳ của tạo hóa, vị Giáo vương trẻ tuổi quỳ phục dưới màn tuyết bay bay, chầm chậm vươn hai tay lên trời cao.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook