Thâm Tàng Bất Lộ
Chương 20: Ăn cơm

Editor + Beta: Basic Needs

Cố Quốc công ngồi trên bậc đá dài ở trước điện, ông chán nản nhìn về phương xa rồi từ từ thở dài.

Vị quan viên trả lời ông cũng bi thương theo, ông ước gì có thể trở lại lúc hồi nãy, tát cho mình một cái để nuốt lại lời nói vào trong.

Ông ta làm cho trái tim Cố Quốc công tan nát nên hiện tại ở cũng không được mà đi cũng không xong, trong lòng ông ta vì vậy mà đau buồn.

Quan viên dựa vào một ít tình nghĩa cộng sự mà cẩn thận tới gần hỏi: “Không lẽ Ngũ lang nhà ông còn nhớ rõ việc năm đó nên vẫn còn có khúc mắc với ông sao?”

“Làm sao có thể không nhớ? Ngay cả ta cũng không quên được đây.” Đáy mắt Cố Quốc công hiện lên vẻ đau khổ: “Phu nhân ta còn vì chuyện này mà ban đêm không dám đi vào giấc ngủ. Ngũ lang thì không cần phải nói. Nó là ông cụ non nên trong lòng có chuyện gì cũng không nói cho chúng ta biết.”

Đồng liêu đồng tình, ông ta vén vạt áo sang một bên rồi cũng ngồi xuống ở bên cạnh mà an ủi: “Việc lúc trước hoàn toàn không thể trách ông, bản thân ông còn chẳng thể làm chủ được*. Ngũ lang là người hiểu chuyện có lẽ sẽ thông cảm cho ông thôi.”

*Nguyên gốc: Thân bất do kỷ

Cố Quốc công lắc đầu: “Nói cho cùng thì ta cũng không phải là người phụ thân tốt. Những thứ tranh đấu quyền lực xấu xa đó lại làm liên lụy đến hài tử như vậy. Ta rốt cuộc không biết cuối cùng là nó hiểu chuyện hay là đã chết tâm với ta rồi.”

“Ông không nên tự trách mình như thế, nếu muốn trách thì nên nói tên Phúc Đông Lai kia quá mức trơ trẽn!” Quan viên chửi bới: “Dù cho hắn có chết trăm ngàn lần cũng không chuộc được tội!”

Phúc Đông Lai là một vị thuật sĩ*.

Thuật sĩ: người biết làm phép thuật.

Tiên đế lúc còn trẻ thì sáng suốt nhưng khi có tuổi lại bắt đầu không phân biệt được đúng sai. Bởi vì sợ cái chết nên ông ta cố chấp mê muội vào đạo trường sinh, chiêu mộ thuật sĩ ở khắp nơi, muốn bọn họ đi tìm Bồng Lai tiên cảnh cho mình. Mà người được yêu thích nhất trong số đó là Phúc Đông Lai.

Ông ta làm cho Phúc Đông Lai đạt đỉnh cao danh vọng, ban cho hàng vạn hàng nghìn vàng bạc; thậm chí suýt chút nữa phong hắn thành Phò mã.

Cho nên người thông minh cũng có lúc không thanh tỉnh; mà khi bọn họ đã không tỉnh táo rồi thì đáng sợ hơn so với người bình thường. Thế nên tuy Tần Hoàng Hán Võ là một nhân vật anh hùng hào kiệt thì cũng không có ngoại lệ.

Tiên đế bước lên con đường cầu tiên thì giống như bị điên, bị Phúc Đông Lai đùa cho phát ngốc. Lúc thì muốn đi tuần tra ở phía nam; lúc thì muốn đi báo cáo với trời đất*; lúc nhàn rỗi không có việc gì thì lại làm lễ tế thiên [1] còn thân thể không tốt thì lại vội vã nốc thuốc. Chỉ có điều đáng mừng duy nhất đó là ông ta không giống như hai vị đại nhân vật kia, làm một trận tàn sát “lưu danh sử sách” *[2].

*Nguyên gốc: phong thiện – vua chúa lên đỉnh núi Thái Sơn cúng tế/ báo cáo với trời đất.

*Hai vị vua: Tần Thủy Hoàng và Minh Thế Tông [2]

Lúc ấy Quốc công cùng với những thần tử liên quan cảm thấy không ổn nên dâng tấu buộc tội Phúc Đông Lai lãng phí lại kết bè kéo cánh làm việc xấu. Không nghĩ đến Phúc Đông Lai vì việc này mà ghi hận.

Người nọ làm việc cực kỳ nham hiểm, biết mình không đụng căn cơ thâm hậu của Cố gia được nên đã tâu với bệ hạ rằng tiểu công tử Cố phủ rất có duyên với tiên, thích hợp làm tiên đồng cho hắn. Nếu như mang theo công tử thì có thể sớm tìm ra Bồng Lai tiên đảo.  Sau đó lại nói đã tính một quẻ cho Cố Ngũ công tử thấy rằng mệnh cách* của Cố Phong Giản trùng với vận mệnh quốc gia, trời sinh sẽ thành tiên nên không nên làm quan; nếu không thì làm quan võ sẽ lộng quyền còn làm quan văn sẽ gây ra dịch tả, triều cường. Khi ấy Quốc công tức giận đến mức thiếu nữa giơ kiếm mà giết chết hắn tại chỗ.

*Mệnh cách: cung mệnh/ mệnh của một người theo bói toán.

Cố Quốc công khi đó còn chưa phải là Quốc công, trên tay ông không có nhiều quyền lực như vậy nên cũng không lay chuyển được trưởng bối trong tộc. Sau khi cứng rắn chống đỡ được mấy ngày thì chỉ có thể nhìn Cố Phong Giản khóc lóc thê thảm bị người lôi đi trở thành tiểu đạo đồng* của Phúc Đông Lai.

*Tiểu đạo đồng: tiên đồng nhỏ tuổi đi theo học đạo.

Mỗi lần ông đi thăm Ngũ lang thì hắn đều la khóc muốn cùng ông về nhà làm cho trong lòng ông rất khó chịu. Cố phu nhân vì chuyện này nên cũng ngã bệnh nên cần chiếu cố, ông không thể thoát thân ra được. Hơn nữa Phúc Đông Lai sẽ cố tình phái Ngũ lang đi làm việc trước mặt ông; ông tới một lần thì Ngũ lang sẽ chịu thảm một lần. Nếu như ông không đi thì Ngũ lang còn có thể ăn no mặc ấm, sống cuộc sống thoải mái. Vì thế nên về sau ông cũng không dám xuất hiện nữa.

Cũng may tiên đế không sống quá mấy năm thì chết…Không phải, chính là tên Phúc Đông Lai đáng giận kia đã khiến cho tiên đế chết sớm như vậy! Lúc này Cố Phong Giản mới được dẫn về nhà.

Chẳng qua chỉ ở chỗ kia có mấy năm vậy mà trí nhớ của Cố Phong Giản rất rõ ràng. Hắn là kẻ thông minh trời sinh nhưng thân thể lại không tốt, đối với người thân trong nhà cũng không thân thiết mà lạnh nhạt.

Đồng liêu vỗ lưng của Cố Quốc công.

Ông ta biết đây là việc khó khăn nhất cho Cố Quốc công.

Lúc ấy bệ hạ gần như điên cuồng, ai nói cũng không nghe. Nếu như ông không đồng ý để Cố Phong Giản bị đưa đi làm tiên đồng thì sẽ liên lụy đến những người khác trong Cố phủ. Nhưng mà khi ông đồng ý rồi thì Cố phu nhân lại chịu không nổi.

Ông ấy bị kẹp ở giữa, ngay cả cơ hội kêu khổ cũng không có. Toàn bộ sức nặng giữa quốc và gia, trung và tình đều đè nặng lên một mình ông.

May mắn là tính tình của Cố Phong Giản khá tốt. Hắn thông minh, đầu óc lại thanh tỉnh nên Phúc Đông Lai cũng không dám làm cái gì quá mức với hắn. Lúc ấy còn có một vị tiểu công tử làm đạo đồng chung nữa, nhưng hiện tại đã xuất gia bởi vì bị lừa quá nặng.

“Ngũ lang của chúng ta làm sao có thể thắng được Phạm nhị chứ? Thậm chí nó còn không biết võ công. Nhi tử của Phạm Thượng thư cũng thật là hổ báo, giống y như Tứ lang nhà ta vậy.” Cố Quốc công ưu sầu nói tiếp: “Phạm nhị chắn chắn sẽ không cho mặt mũi, hẳn là Ngũ lang cũng bị thương rồi đúng không?”

Đồng liêu nói: “Thân thể Ngũ lang nhà ông đúng là không được tốt nhưng mà ta nghe người khác nói người bị thương không phải là nó mà là Phạm nhị công tử.”

Cố Quốc công lắc đầu không tin: “Chưa chắc. Ngay cả khi nó bị thương cũng sẽ lặng lẽ giấu đi.”

Đồng liêu thầm nghĩ, chuyện này còn có thể lặng lẽ giấu đi sao?

Cố Quốc công nói: “Ngũ lang chúng ta rất chịu khó, hiểu chuyện lại dễ nói chuyện nên ta mới luôn lo lắng cho nó.”

Quan viên nói: “Nếu như ông lo lắng cho nó như vậy thì cho nó đi theo Cố Tứ lang học chút quyền cước cũng được.”

Lại một tiếng thở dài của Cố Quốc công vang lên: “Hây dà, khi nó trở về cũng nó đề cập đến việc muốn học võ nên Tứ lang đã xung phong nhận việc dạy cho nó. Kết quả là không biết nặng nhẹ mà bắt nó tập đứng tấn ở đầu gió. Ngũ lang mới học có một ngày thì sốt hết ba ngày, thiếu chút nữa là đi luôn. Vì tức giận nên ta đánh nó một trận, không cho nó lại quấy rối nữa.”

Quan viên cả kinh nói: “Ông đã đánh Ngũ lang sao?”

Cố Quốc công trừng mắt: “Làm sao có chuyện đó! Tất nhiên là đánh Tứ lang rồi!”

Đồng liêu: “……” Như thế nào nghe xong lại cảm thấy Cố Tứ lang lại đáng thương hơn?

Đồng liêu cân nhắc một lát, rốt cuộc ông ta vẫn nói: “Ông không nên phạt Tứ lang đâu.”

“Hiện giờ ngẫm lại thì thấy ta thật sự không nên phạt Tứ lang nặng như vậy.” Cố Quốc công nắm chặt tay của mình lại rồi có chút hối hận mà nói: “Sau chuyện đó thì Ngũ lang cũng không còn thân thiết với Tứ lang nữa.”

Bọn họ quá mức cẩn thận khi đối xử với Ngũ lang không giống như những phụ mẫu bình thường khác.

Lần đó Ngũ lang nói muốn học võ vậy mà cuối cùng Tứ lang lại là người bị đánh một trận. Hơn nữa lúc trước Cố Quốc công đã đưa hắn đi làm đạo đồng cùng với mấy lời nói lung tung của Phúc Đông Lai về mệnh cách có lẽ khó tránh khỏi làm cho Cố Phong Giản suy nghĩ nhiều.

Hắn rất nhạy cảm nên vì vậy cũng xa cách với mọi người.

Quan viên hỏi: “Về sau như thế nào? Như thế nào lại không học? Ông có thể mời một tiên sinh tốt cho nó mà.”

Cố Quốc công cũng rất buồn rầu: “Ta đi hỏi nó một lần nữa, khi đó nó không muốn nói chuyện với ta, chỉ nói không cần.”

Quan viên cảm giác có loại dự cảm không tốt: “Ông hỏi như thế nào?”

“Còn hỏi như thế nào nữa?” Cố Quốc công nói: “Ta đi hỏi trực tiếp mà nó cũng thẳng thắn nói không cần.”

Quan viên cẩn thận tưởng tượng hình ảnh đó.

Cố Tứ lang bị đánh đau đến mức nằm ở trên giường một cách ngoan ngoãn. Cố Phong Giản thì mới khỏi sau một cơn bệnh nặng nên có thể còn bị nhốt trong phòng. Lúc này, Cố Quốc công trưng một khuôn mặt lạnh lùng ra trước mặt Cố Phong Giản, ông ấy hỏi một cách máy móc: “Còn muốn học võ không?”

Cố Ngũ lang thuận theo mà nói: “Con không học nữa.”

Cố Quốc công vì thế “Hừ” một tiếng, phất tay áo rời đi.

Đây là đúng là hiện trường đe dọa cực kỳ tàn ác mà!?

Cả người vị quan viên run lập cập. Ông cảm thấy hơn phân nửa sự việc chính là như thế.

Cố Quốc công còn vô cùng ăn năn: “Đúng là do ta quá mức sao nhãng nó.”

Sau khi tiên đế băng hà thì triều chính hỗn loạn, có rất nhiều việc cần phải làm. Đương kim hoàng thượng lúc ấy còn nhỏ nên cần phải dựa vào sự nâng đỡ của một loạt lão thần. Cố Quốc công được giao trọng trách nặng nề, ông phụng mệnh đi tuần tra giám sát các nơi, chủ trì đại cục; ngay cả thời gian chăm sóc cho gia đình cũng không có. Chờ đến khi ông ý thức được sự nghiêm trọng của chuyện này, muốn kéo gần quan hệ với Cố Phong Giản thì hắn đã trưởng thành.

Việc nước thì ông không thể không quản nhưng mà quản việc nhà thì hỏng bét.

Cố Quốc công lại lần thở dài. Ông cảm thấy thật là phiền muộn.

Vị đồng liêu nghe ông than thở đến mức cả người cảm thấy không khỏe.

“Ta cảm thấy ông nên nói chuyện với Ngũ lang. Dù cho nó không muốn nhiều lời với ông thì ông cứ nói hết chuyện của mình trước.” Quan viên nói tiếp, “Ông không cần giữ vẻ mặt căng thẳng như vậy.”

Cố Quốc công nói: “Ta làm gì có nghiêm nghị?”

Quan viên: “Ông đang làm mặt nghiêm kia kìa.”

Cố Quốc công chỉ trích: “Ông nói bậy!”

“Trở về soi gương đi, là sự thật.” Quan viên đứng lên, vừa chạy vừa nhắc nhở ông, “Nhớ trở về soi hình ảnh của mình đi!”

Cố Quốc công không khỏi sờ lông mày của mình. Mày kiếm anh dũng, trời sinh đã lộ ra vẻ nghiêm nghị. Có không ít người đã từng nói ông rất đáng sợ khi tức giận nhưng Cố Quốc công lại không để trong lòng.

Lúc tức giận lại không thể làm cho cấp dưới sợ hãi vậy thì tức để làm gì?

Huống chi có rất nhiều người nói ông có tướng mạo nghiêm chỉnh, dáng vẻ nghiêm túc thì làm sao có thể hung ác được?

Cố Quốc công vất vả kết thúc một ngày chính vụ* thì có chút đăm chiêu trở lại phủ. Lúc này, Tống Sơ Chiêu đang nói chuyện với Cố phu nhân ở trong viện.

*Chính vụ: công tác quản lý/ sử lý việc trong triều.

Cố phu nhân hỏi thăm nàng chuyện ở Hạ phủ đồng thời dò hỏi xem chuyến đi này có thuận lợi hay không.

Tống Sơ Chiêu gật đầu nói thuận lợi, Hạ tướng quân rất tốt với nàng. Ông không chỉ có mời nàng ăn điểm tâm mà còn khen món lễ vật mà nàng tặng. Tiếc rằng không có giữ nàng ở lại ăn cơm trưa mà thôi.

Cố phu nhân chia sẻ với nàng những việc bà nghe được ở trước cửa Tống phủ.

Tống Sơ Chiêu cảm thấy tiếc nuối bởi vì không thể mặt dày chạy qua cho nên đã lỡ mất một vở tuồng.

Hai người cùng với Cố Tứ lang trò truyện thật vui vẻ, ai cũng nghĩ rằng chuyện này của Tống phủ đúng là buồn cười.

Khi Cố Tứ lang ngẩng đầu cười lớn thì phát hiện Cố Quốc công đang đứng nghe lén ở đằng sau cột nhà, không biết ông đã đứng với cái tư thế kia bao lâu rồi. Hắn sững sờ một lát rồi mới hô: “Phụ thân.”

Thế nên tiếng của Cố phu nhân và Tống Sơ Chiêu cũng dừng lại. Bọn họ nhìn về phía người kia.

Trải qua nhiều ngày như vậy nhưng đây là lần đầu tiên Tống Sơ Chiêu nhìn thấy Cố Quốc công. Nàng không dám buông lỏng khi đối mặt với vị nam nhân lạ mặt anh tuấn và oai phong này. Nàng đứng thẳng người chờ chỉ thị của đối phương.

Cố Quốc công phát hiện không khí lại lạnh như băng khi mình vừa xuất hiện thì vẻ mặt của ông tối sầm.

Cố Tứ lang phát hiện ra cảm xúc của ông thay đổi thì trong lòng hắn đông cứng lại. Bản thân hắn là kẻ hay phạm tội nên bắt đầu thuần thục suy nghĩ kỹ lại những việc mình đã làm. Suy nghĩ xong, lại cảm thấy gần đây mình khá là kiềm chế hẳn là không làm gì sai nên hắn bày ra một độ cong đúng tiêu chuẩn trên miệng rồi mỉm cười với Cố Quốc công.

Tống Sơ Chiêu vừa thấy sự khác thường của Cố Tứ lang thì bắt đầu khẩn trương. Nàng ép thẳng sống lưng rồi hỏi thăm ông theo đúng lễ nghĩa.

Cố Quốc công nhìn thấy cảnh này giống như bọn họ đang thảm thương tham kiến quan lớn thì trong lòng ông chán nản; vậy nên ông hỏi một câu hàn huyên thân thiết, ý muốn cứu vãn tình hình.

“Mọi người đã ăn chưa?”

Vẫn là Cố phu nhân hiểu rõ ông nên bà cười nói một câu: “Còn chưa có đâu. Hôm nay chàng trở về thật sớm.”

Cố Quốc công gật đầu: “Ừ.” Ông nhanh chóng xử lý công vụ rồi gấp gáp trở về để có thể tâm sự việc nhân sinh với Ngũ lang.

Cố phu nhân nói: “Để ta đi gọi người chuẩn bị đồ ăn rồi ăn cơm luôn.”

Cố Quốc công nói: “Được.”

Cố Tứ lang xoay người, hắn đi trước một bước về phía đại sảnh.

Cố Quốc công kéo tay áo của Cố phu nhân ý bảo bà đi theo ông.

Hai người đứng ở chỗ không có người.

Cố Quốc công hỏi: “Mặt ta trông như thế nào?”

Cố phu nhân nhìn ông nói: “Chàng nói thử xem?”

Cố Quốc công dừng lại một chút rồi hỏi: “Hiện tại mặt ta có nghiêm nghị hay không?”

Giọng Cố phu nhân hơi nặng nề nhưng vẫn nói: “Chàng nói thử xem?”

Cố Quốc công kinh ngạc, ông không thể tin được.

Cố phu nhân còn kinh ngạc hơn so với ông. Ông có bí mật gì liên quan đến mặt mũi như vậy?

Khi còn trẻ ông cũng không có đáng sợ như vậy, chỉ là một người lạnh lùng tuấn tú mà thôi. Sau này bởi vì vào triều làm quan thì mới khoác lên mình khí thế đáng sợ để tạo uy tính nên rốt cuộc cũng thành thói quen rồi thành ra như vậy. Lúc này thậm chí cơ mặt của ông cũng lộ ra vẻ hà khắc.

Cố Quốc công hỏi: “Vậy vì sao lúc trước nàng không sợ ta?”

“Ta sợ chàng làm cái gì? Chàng cũng chưa từng hung dữ với ta. Ta thích chàng bên ngoài uy phong lãnh đạm nhưng về nhà lại nói nhỏ nhẹ với ta…” Cố phu nhân ngượng ngùng nói, sau đó vỗ lên người ông thật mạnh: “Nói cái này làm gì? Không cảm thấy ngại sao?”

Cố Quốc công: “….” Thì ra là như thế hả?

Cố phu nhân nói: “Mau đi ăn cơm, không cần làm trò kỳ kỳ quái quái.”

Hai người Cố thị đi tới thính đường ăn cơm thì không khỏi ngây dại ra khi thấy Tống Sơ Chiêu cũng ở đó.

Cố Tứ lang đồng dạng kinh ngạc nói: “Ngũ đệ, hôm nay đệ muốn ăn cơm với chúng ta hả?”

Trên đầu Tống Sơ Chiêu xuất hiện một nhân vật đang bối rối.

Người đều đến đông đủ, chẳng lẽ không cùng nhau ăn cơm sao? Không phải người một nhà sao?

Nàng cẩn thận suy nghĩ, cảm thấy Cố Phong Giản có khả năng sẽ ở trong phòng mình ăn cơm bởi vì trước giờ tôi tớ đều sẽ đưa đồ vào đúng lúc, hoàn toàn không cần nàng phải phí sức.

Thật ra nàng không biết thời gian ăn cơm của mấy người Cố phủ không có giống nhau.

Dạ dày Cố Phong Giản không tốt nên tuy hắn ăn ít nhưng lại ăn nhiều bữa vì thế phía sau bếp lúc nào cũng chuẩn bị điểm tâm cho hắn. Còn Cố Quốc công thì bận rộn công vụ nên có nhiều khi trở về lúc tối muộn, Cố phu nhân sẽ không kêu Cố Phong Giản chịu đói chung.

Hơn nữa phụ tử hai người có mối bất hòa nên Cố Phong Giản sẽ cố ý tránh đi. Cuối cùng quanh năm suốt tháng trở thành bọn họ hiếm khi ngồi cùng bàn ăn cơm.

Việc đã đến nước này, Tống Sơ Chiêu không thể rời đi. Nàng thản nhiên gật đầu: “Hôm nay vừa khéo vậy thì cùng nhau ăn cơm đi.”

Cố phu nhân nghe vậy rất vui mừng: “Xem ra tâm tình Ngũ lang hôm nay rất rốt nha! Mau đi thúc giục sau bếp, kêu bọn hắn làm nhiều thêm hai món. Nhanh nhanh lên một tí. Ngũ lang à, hiện tại con có đói bụng không? Có muốn ăn tạm món gì cho đỡ đói không?”

Tống Sơ Chiêu nói: “Con thấy cũng bình thường.”

Cố phu nhân vẫn đẩy điểm tâm tới trước mặt nàng, kêu nàng cứ tùy ý.

Cố phu nhân liếc Cố Quốc công một cái rồi kéo ông ngồi xuống ở bên tay trái mình, vừa lúc ngồi đối diện với Tống Sơ Chiêu.

Hôm nay Cố phủ làm đồ ăn thật mau. Đầu tiên là một mâm rau xanh xào, tiếp theo lại là một mâm thịt gà hầm.

Tuy rằng đồ ăn còn chưa bưng lên hết nhưng Cố phu nhân đã cầm lấy đôi đũa ý bảo mọi người nếu muốn ăn thì cứ ăn trước đi.

Cố phu nhân hiểu được tính tình của Cố Quốc công nên chủ động khuấy động bầu không khí: “Lang quân, không phải chành có chuyện muốn hỏi Ngũ lang sao?”

Cố Quốc công ngẩng đầu, đầu óc nóng lên, ông há miệng nói ra sự tình đang suy nghĩ: “Nghe nói mấy ngày trước con đánh nhau với Phạm nhị công tử hả?”

Vẻ mặt của Cố phu nhân cứng đờ, bà không thể duy trì được ý cười khéo léo trên mặt mình nữa.

Bỗng nhiên đôi đũa mà Tống Sơ Chiêu đang cầm dừng ở không trung, toàn thân nàng đều lộ ra vẻ đề phòng. Trong tâm thầm nhủ rốt cuộc lại là một bữa Hồng Môn Yến. Nàng dùng sức từ trong cổ họng phun ra một chữ: “Dạ!”

Cố Quốc công thấy nàng khẩn trương thì cảm thấy ảo não. Vì tỏ vẻ mình không có ý chất vấn cũng như truy cứu nên ông cũng đáp lại một chữ rồi nhanh chóng chấm dứt đề tài này.

“Ừ.”

Tống Sơ Chiêu: “…”

Không giấu diếm được, lúc này nàng thật sự luống cuống.

Cố phu nhân nắm đôi đũa đến mức đầu ngón tay bà cũng dần dần trắng bệnh.

Cũng may lúc này tì nữ lại bưng một tô đồ ăn lên lấp vào chỗ trống xấu hổ này.

Cố phu nhân nhìn chằm chằm vào món gà hầm sau đó hất cằm về phía Tống Sơ Chiêu.

Tống Sơ Chiêu cho rằng bà đang nhắc nhở mình nhanh đi xin lỗi Cố Quốc công. Xét cho cùng thì môn quy trong Cố phủ cũng thật nghiêm khắc, nàng đã đánh người ta xong mà vẫn chưa có hối lỗi.

Hơn nữa nghe lời nói của Cố Phong Giả thì Cố Quốc công chắc không thích nhi tử mình dùng vũ lực.

Tống Sơ Chiêu tự giác gắp lên một cái đùi gà rồi chậm rãi bỏ vào chén của Cố Quốc công.

Trong một khắc, toàn bộ hoạt động trên bàn cơm đều dừng lại.

Đôi đũa trong tay Cố Tứ lang rơi xuống nhưng hắn vẫn giơ tay như cũ, không dám đi nhặt.

Mắt Cố phu nhân cũng quên chớp, bà há miệng sững sờ ở đó.

Toàn bộ cơ mặt của Cố Quốc công giật giật, sau đó ông dùng sức mà nhìn về phía nàng.

Vô cùng kỳ lạ.

Việc này không đúng.

Tống Sơ Chiêu thét chói tai ở trong lòng.

Vì sao tâm tư của người Cố gia khó đoán như vậy? Vì sao lại như vậy!!

Nàng quyết định gắp đùi gà trở về.

“Con ――” Cố Quốc công đột nhiên đứng lên, ông nắm lấy cổ tay của nàng rồi cất giọng muốn sống chết bảo vệ cái đùi gà: “Đã gắp đồ ăn vào chén của ta vì sao lại muốn lấy lại nữa!”

Tống Sơ Chiêu không rõ Cố Quốc công vì sao lại kích động bởi vì một cái đùi gà nhỏ như vậy. Nàng tự nhủ không được hoảng sợ! Nàng bày ra tư thế tỉnh táo nhất mà nói: “Con nghĩ là phụ thân không cần.”

Cố Quốc công: “Ta ――”

Cố phu nhân nâng một chân lên rồi lại thả xuống, bà hung dữ đạp lên giày của Cố Quốc công.

Sắc mặt của Cố Quốc công bắt đầu đỏ lên rồi lan dần đến lỗ tai nhưng ông rốt cuộc cũng bình tĩnh lại. Lúc mở miệng một lần nữa, ông đã khôi phục được sự ôn hòa lúc trước.

“Ta muốn. Con có thể thả ra được rồi”

Ông nói xong lại bổ sung một câu: “Cảm ơn con.”

Tống Sơ Chiêu: “Vậy sao…”

Cố Tứ lang run rẩy mà nâng chén của mình lên, cõi lòng tràn đầy hy vọng mà đưa tới giữa bàn: “Ta cũng muốn một cái được không?”

Cố phu nhân gắp đồ ăn cho hắn: “Để nương gắp cho con, ngoan ngoãn ăn cơm đi, không cần nói chuyện.”

Cố Tứ lang ngoan ngoãn nói: “Dạ.”

Cố Quốc công được một cái đùi gà thì tâm tình đã nhảy nhót. Ông cảm thấy mình nên nói cái gì đó để làm Cố Ngũ lang vui vẻ. Vì thế nên ông hỏi: “Ngũ lang à, dạo gần đây con có muốn quyển sách nào không?”

Tống Sơ Chiêu: “……??” Vì sao lại đối xử với nàng như vậy?

Cố Quốc công lại nêu ra một việc: “Con đã chuẩn bị cho kỳ thi mùa xuân sang năm như thế nào rồi?”

Tống Sơ Chiêu gian nan nói: “Con có nhìn qua một chút.”

Cố Quốc công: “Lại đi nhìn? Con không nghĩ muốn đi tham gia sao?”

Tống Sơ Chiêu tiếp tục đùn đẩy: “Hay là bàn sau đi.”

Cố Quốc công trầm ngâm.

Với sự nhạy bén của mình, ông cảm thấy nhi tử của mình…hẳn là có tâm bệnh.

………………………

Tác giả có lời muốn nói:

Cố Quốc công: Ta sinh ra đã có bộ mặt hung dữ như vậy rồi, con tin ta đi! Con tin ta điiii! *Lắc lắc vai*
Chú thích

[1]: Phong thiện và Tế thiên ở đây khác nhau.

A. Lễ tế thiên (Lễ tế giao)

Lễ tế giao bắt nguồn từ nhà Chu, hình thành bởi sự kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian Trung Hoa và lễ nghi do Chu Công đặt định. Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Hạo Thiên Thượng đế là vị thần tối cao cai quản cõi trời (Thiên đình) vì thế Hoàng đế là người đứng đầu thế giới loài người phải thay mặt toàn thể dân chúng mà làm lễ tế trời. (Theo Wikipedia)

=> Theo mình hiểu là lễ này không cần đi đâu quá xa, mà toàn dân cũng có thể cùng nhau tổ chức lễ này.

B. Lễ phong thiện (Phong thiền)

Là điển lễ đế vương nhận mệnh từ trời. Nghi thức này khởi nguồn từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đương thời, các nho sĩ nước Tề nước  Lỗ cho rằng Thái sơn là núi cao nhất trong thiên hạ, đế vương tối cao chốn nhân gian phải đến ngọn núi cao nhất này để tế thần linh chí cao vô thượng, mà Thái sơn lại là phân giới giữa Tề và Lỗ. Về sau, nghi thức tế tự Thái sơn được mở rộng thành tế vọng thống nhất đế quốc, đồng thời định danh là “Phong Thiện”. Trong hai chữ “Phong Thiện”, “Phong” ý nghĩa là tế Thiên, “Thiện” ý nghĩa là tế Địa.

[…]

Người đầu tiên chân chính cử hành Phong Thiện là Tần Thuỷ Hoàng. Năm Thuỷ Hoàng thứ 3, tuần thú quận huyện đã cùng với các nho sĩ thảo luận điển lễ Phong Thiện. Các Bác sĩ nghị luận sôi nổi, nhưng không đưa ra trình từ lễ nghi cụ thể. Tần Thuỷ Hoàng bèn mượn dùng nghi điển tế Thượng Đế vốn có của nước Tần, trước tiên đến Thái sơn cử hành Phong lễ, sau đó đến Lương Phụ cử hành Thiện lễ.

(Theo chuonghung: chuonghung.com/2017/02/dich-thuat-phong-thien.html)

=> Lễ này cũng tế trời nhưng vua phải đi lên đỉnh Thái Sơn, số lượng người tham dự không đông bằng lễ tế thiên.

………..

[2] Hai vị vua liên quan đến thuật trường sinh và thảm sát người: Do tác giả không đề cập đến nên mình đoán là Tần Thủy Hoàng và Minh Thế Tông.

A. Tần Thủy Hoàng

Trong những năm cuối đời, Tần Thủy Hoàng bị ám ảnh với việc có được sự bất tử, ông viếng thăm đảo Chi Phù tới ba lần để hi vọng tìm được thuốc trường sinh.

Tần Thủy Hoàng từng phái một con tàu chở hàng trăm đồng nam và đồng nữ tìm kiếm núi Bồng Lai thần bí. Nhiều thủ hạ của ông cũng được gửi đi để tìm An Cơ Sinh, một người bất tử 1.000 tuổi mà Tần Thủy Hoàng đã gặp trong một chuyến vi hành. Những người này không bao giờ trở lại, có lẽ bởi vì biết rằng nếu quay về mà không có thuốc trường sinh, họ chắc chắn sẽ bị xử tử hình

B. Minh Thế Tông

Minh Thế Tông – Gia Tĩnh Đế (1507-1567) là vị Vua đời Minh bị ảm ảnh lớn bởi việc trường sinh.

Ông ta say mê thuật trường sinh đến nỗi bỏ luôn cả việc chính sự. Lý do Thế Tông bỏ việc triều đình là vì ông ta còn bận ở hậu cung để thực hiện phép trường sinh do một đạo sĩ tên là Đào Trọng Văn bày cho.

Thuật “trường sinh” mà Đào Trọng Văn dạy Thế Tông được gọi là phương thuốc bí truyền ngự nữ. Các sách vở không nói cụ thể nhưng đại khái nội dung thuật này là hưởng thụ kinh nguyệt của trinh nữ.

Để làm theo cách do Đào Trọng Văn chỉ bảo, Minh Thế Tông đã bắt rất nhiều trinh nữ vào hậu cung để hưởng thụ. Người ta thống kê: chỉ trong năm Gia Tĩnh thứ 31, riêng ở kinh sư đã có 300 trinh nữ từ 8 đến 14 tuổi bị đưa vào cung cho vua hưởng thụ.

Trong triều đại của mình, Gia Tĩnh Đế đã nạp hàng ngàn trinh nữ vào Tử Cấm Thành với mục đích để “thu hoạch” kinh nguyệt. Để đảm bảo rằng cơ thể của họ tinh khiết, chế độ ăn đối với các trinh nữ là chỉ là nho đen và sương. Nhiều cung nữ đã chết vì suy nhược do chế độ ăn uống độc ác này.

(Theo doanhnghiepvn.vn và kienthuc.net.vn)
Lời của editor: Đăng chương mới giờ này coi như là quà cho các bạn cú đêm như mình nha. Ai xem được chương này lúc khuya thì điểm danh nào! Bên mình là 2 giờ sáng rồi đó.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương