Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
-
Chương 22: Sau đèn Kết Phách, mối bi tình đó tới tới lui lui
Ta tìm Dạ Hoa trong hậu hoa viên của phủ Thượng thư.
Khi ta tìm đến, chàng vận thường phục bằng lụa màu đen, đang đứng nâng chén ngắm hoa đào cùng một người con gái vận đồ trắng. Ở chỗ chàng ngồi, phía trên là một cây hoa đào đang thắm sắc.
Người con gái vận đồ trắng ngồi đối diện chàng dường như nói câu gì đó, chàng nâng chén rượu trên bàn, cười rạng rỡ với người con gái ấy, người con gái đó lập tức thẹn thùng cúi đầu.
Nụ cười này của chàng vừa rạng rỡ vừa thân thiết, nhưng trong mắt ta lại cực kỳ gai mắt. Sáu ngày không gặp, chàng coi vật đính ước của ta là đồ bỏ, chẳng phải rước cho ta một món nợ tình tạp nham sao? Nỗi ghen tức xộc lên, ta đang định đi vào để xem xem ngọn nguồn thế nào, thì sau lưng vang lên một giọng nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, Tố Cẩm xin được thỉnh an thượng thần ở đây”.
Ta sững sờ, quay người lại.
Phép ẩn thân chỉ là phép thuật che mắt, có thể che mắt người phàm chứ không thể che mắt thần tiên. Nhìn Tố Cẩm xiêm y giản dị trước mặt ta thấy không quen cho lắm, bèn hỏi: “Sao ngươi lại ở đây?”.
Nàng ta nhìn ta, đáp: “Quân thượng một mình lịch kiếp dưới trần gian, Tố Cẩm sợ quân thượng cô đơn, nên cố ý làm một người quân thượng nhung nhớ, sắp đặt ở bên cạnh chàng. Hôm nay Tây Vương Mẫu mở hội trà, Tố Cẩm cũng được thiếp mời, tiện đường qua đây, nên xuống thăm người Tố Cẩm làm cho quân thượng, xem nàng ta có hầu hạ quân thượng chu đáo hay không?”.
Ta quay lại nhìn người con gái áo trắng đang đứng bên Dạ Hoa. Vừa nãy không để ý, bây giờ nhìn lại, quả nhiên người con gái đó chỉ là một con rối đội da người. Ta lấy chiếc quạt ra, lạnh lùng buông một câu: “Chu đáo quá”.
Nàng ta nhìn ta ân cần, nói: “Thượng thần có biết Tố Cẩm làm con rối theo mẫu của ai không?”.
Ta nghiêng đầu nhìn dò xét, nhưng không cảm thấy gương mặt của người con gái áo trắng kia có điểm gì đặc biệt.
Ánh mắt nàng ta trở nên xa xăm: “Thượng thần có bao giờ nghe tới cái tên Tố Tố không?”.
Lòng ta run rẩy. Tiểu thần tiên Tố Cẩm gần đây quả có tiến bộ, vừa mới gặp đã có thể xéo đúng lên nỗi đau của ta. Sao ta lại không biết mẫu thân đã nhảy xuống Tru Tiên đài của cục bột, phu nhân trước mà Dạ Hoa hết lòng yêu thương tên là gì chứ. Nhưng từ sau khi ta khám phá ra tình cảm của mình dành cho Dạ Hoa, thì đã gói ghém tất cả tin đồn về mẫu thân của cục bột nhỏ, vứt vào trong hòm, khóa ba tầng khóa, thề rằng sẽ không bao giờ mở hòm ra, để bản thân khỏi phải tự tìm đau khổ. Ta không phải là người đầu tiên Dạ Hoa yêu, mỗi lần nhớ ra lại càng nuối tiếc, đau đớn. Nhưng số phận đã như vậy, ta cũng không hề oán trách, chỉ có thể thở dài than rằng số không may, đường tình trắc trở mà thôi.
Tố Cẩm liếc nhìn thần sắc của ta, nói: “Thượng thần không cần phải lo lắng đâu, bây giờ quân thượng chỉ là một người phàm trần, mới không nhận ra người trước mặt chàng chỉ là một con rối, có thể tác thành, khiến giấc mộng mà lòng chàng khao khát trở thành hiện thực. Đợi quân thượng quay về chính thân, cho dù con rối đó có mang gương mặt của Tố Tố, thì theo tính cách của quân thượng, sao có thể quan tâm đến một con rối chứ?”.
Có phải nàng ta đang muốn nói cho ta hay, bây giờ Dạ Hoa đã rất quan tâm tới con rối này không?
Ta cười ha ha, nói: “Ngươi không sợ sau khi Dạ Hoa trở về chính thân, nhớ ra chuyện ngươi đã lừa chàng, sẽ trách tội ngươi sao?”.
Nét mặt nàng ta cứng đờ, gượng cười đáp: “Tố Cẩm chẳng qua chỉ làm một con rối, đặt ở trên đường trước cửa phủ của quân thượng, nếu quân thượng không có ý với nó, thì hai người cũng chỉ là vô duyên thôi. Nhưng quân thượng vừa nhìn đã yêu mến, đưa nó về phủ. Nếu đến lúc đó quân thượng trách tội Tố Cẩm, Tố Cẩm cũng đành chịu”.
Lồng ngực ta căng tức, chỉ mân mê chiếc quạt không nói gì.
Nàng ta lại nở nụ cười dịu dàng, nói: “Có thể thấy, nếu đúng là yêu một người đến khắc cốt ghi tâm, thì dù uống nước Vong Xuyên của U Minh Ti Minh Chủ, cũng vẫn có ấn tượng, đầu thai rồi vẫn yêu người đó. Đúng rồi”, nàng ta ngưng lại giây lát, thong thả nói tiếp, “Thượng thần có biết, ba trăm năm nay, quân thượng luôn chong đèn Kết Phách để tập hợp khí trạch của Tố Tố không?”.
Trong đầu ta bỗng ầm một tiếng, khiến ta không phân biệt nổi phương hướng, lồng ngực căng tức, cồn cào.
Chàng, Dạ Hoa trước đây định tái tạo một Tố Tố sao?
Cái đêm của sáu hôm trước, khi ta ngồi bên cạnh giường Dạ Hoa, chàng còn không nhận ra ta, chàng nói không nhận ra. Sáu năm sau, chàng lại dẫn một người con gái không quen biết về nhà. Quả đúng là chàng yêu ta chẳng sâu sắc bằng chàng yêu Tố Tố khi xưa, nên mới không nhận ra ta. Hoặc giả, hoặc giả, chiếc hòm có ba lần khóa kia đã mở ra, hoặc là chỉ vì khi ta băng mắt có vài phần giống với phu nhân trước, nên Dạ Hoa mới dần dần yêu ta? Đầu óc rối loạn, ngực đau căng tức, tim ta nhói buốt.
Nhưng dù đầu óc hỗn loạn, ta vẫn khâm phục bản thân, ra vẻ thượng thần rất đạt, ta ung dung nói: “Ngươi quả am hiểu chuyện ái tình, đúng là am hiểu như thế mới có thể chịu đựng được sự coi thường của Dạ Hoa, còn có thể làm thứ phi của chàng suốt hơn hai trăm năm. Trong đám tiểu bối bây giờ, ngươi có thể coi là một kẻ có tầm nhìn, con rối ngươi làm rất tinh xảo, để nó bên Dạ Hoa cũng tốt, đỡ cho bản thượng thần phải nhọc công. Sau này nếu Dạ Hoa có trách ngươi gạt chàng, bản thượng thần sẽ nói đỡ cho ngươi”.
Nụ cười của nàng ta đông cứng trên gương mặt, mãi sau mới khóe môi, nói: “Đa tạ thượng thần”.
Ta giơ tay xua xua, nói: “Để lỡ hội trà của Tây Vương Mẫu thì không hay đâu”.
Nàng ta cúi đầu quỳ gối: “Vậy Tố Cẩm xin lui trước”.
Tố Cẩm đi rồi, ta quay đầu lại nhìn, con rối đó đang cùng Dạ Hoa uống rượu. Mấy cánh hoa đào nương theo gió rụng xuống, bay lả tả, vương trên tóc Dạ Hoa. Con rối đó giơ bàn tay trắng như ngọc như ngà, phẩy nhẹ một cái, mấy cánh hoa đào rớt xuống đấy. Nó ngẩng đầu lên nhìn Dạ Hoa cười thẹn thùng, Dạ Hoa không nói gì, uống cạn chén rượu. Đầu ta đột nhiên đau buốt.
Tứ ca hay nói, ta chẳng chịu suy nghĩ, luôn tùy ý hành động, may mà cha mẹ ta giỏi giang, ta mới không phải thiệt thòi, nhưng ta cũng không ít lần làm mất thể diện tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ nhà ta. Cố nhiên ta cảm thấy huynh ấy còn làm nhiều chuyện mất thể diện hơn ta, nhưng niệm tình huynh ấy lớn hơn ta, nên ta cũng nhường huynh ấy.
Giờ đây, ta mới thấy huynh ấy nói có lý. Ta hành động hết sức tùy ý, không hề suy nghĩ. Ví dụ như lúc ban đầu Dạ Hoa bày tỏ với ta, chàng nói chàng thích ta, chàng nói còn ta nghe, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trong toàn thể nữ thần của bốn bể tám cõi, sao chàng chỉ yêu mình ta, cho dù sau này ta cũng yêu chàng, hai bên tình nồng ý đượm, cũng không hề hỏi chàng chuyện quan trọng này. Nếu như chàng thực sự vì mẫu thân của cục bột nhỏ mới thích ta, thì người thế thân Bạch Thiển ta với con rối đang uống rượu với chàng kia, đâu có gì khác nhau. Tuy cũng biết rằng so đo với người đã mất là hẹp hòi, nhưng tình yêu lại thực sự không thể tính tới thể diện hay độ lượng được.
Ngọn lửa ghen tuông ngùn ngụt, ta day day góc trán, cảm thấy lúc này nên ngẫm nghĩ kỹ một số chuyện về Dạ Hoa, bèn bắt quyết gọi một đám mây, rồi lú lú lẫn lẫn bay về Thanh Khâu.
Tối nay, ta đem đèn Kết Phách ra ngắm nghía dưới ánh sáng của viên dạ minh châu. Chiếc đèn này luôn đặt ở chỗ Tây Hải đại hoàng tử để giúp y dưỡng thần, sau khi Mặc Uyên tỉnh lại đã được Chiết Nhan lấy về và đặt ở Thanh Khâu. Lúc trên Cửu Trùng Thiên, Dạ Hoa không hỏi tới, còn ta cũng quên đem trả.
Dưới ánh sáng trắng của viên dạ minh châu, cây đèn Kết Phách ấy khêu lên một ngọn lửa nho nhỏ bằng hạt đậu, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Đâu có ai ngờ, trong cây đèn không có gì đặc biệt này lại chứa khí trạch ba trăm năm của một người phàm.
Ta càng nghĩ lòng càng chùng xuống, lời của Tố Cẩm tuy không thể tin hoàn toàn, nhưng còn lời của tiểu tiên nữ Nại Nại trên Thiên Đình làm chứng, bây giờ ta đã rảnh rỗi để chắp ghép từng chuyện lại, ba trăm nay quả nhiên Dạ Hoa tình sâu như biển với mẫu thân của cục bột nhỏ. Một người nặng tình như chàng, một mối tình sâu như biển ấy, sao chỉ mới ba trăm năm mà đã có thể tan thành mây khói được, sao có thể vừa nhìn thấy bản thượng thần là lập tức thay đổi tình cảm được đây?
Ta càng nghĩ càng cảm thấy ngọn lửa ghen tuông trong lòng bốc lên ngùn ngụt, lan đến tim phổi, cháy bùng lên. Ta yêu Dạ Hoa vì chính con người chàng, nếu như chàng có tướng mạo giống với sư phụ Mặc Uyên, ta cũng chưa bao giờ coi chàng là Mặc Uyên, dù chỉ là một khắc. Nếu như ta coi chàng là thế thân của Mặc Uyên, thì e rằng mỗi lần nhìn thấy chàng ta đều cung kính thưa hỏi, không dám khinh nhờn một chút nào.
Ta đã yêu chàng như vậy, nên cũng mong chàng đối xử lại với ta như thế. Nếu như vì ta giống mẫu thân của cục bột nhỏ, mà chàng lại không nguôi thương nhớ mẫu thân của cục bột nhỏ nên mới chuyển sang ta, thì Bạch Thiển ta không thể nhận sự yêu mến này của chàng.
Mê Cốc đứng bên ngoài khẽ giọng gọi: “Cô Cô, có cần ta dâng ít rượu lên không?”.
Ta im lặng đồng ý.
Rượu mà Mê Cốc dâng lên đều là rượu mới nấu, hơi cay nồng còn chưa được êm lắng, đi vào trong miệng, họng lập tức cay xè, đầu óc ta càng trở nên choáng váng hơn. Có lẽ hôm nay Mê Cốc thấy ta có tâm sự, nên mới cố ý chọn ra loại rượu mạnh này, hễ được lệnh là đem vào trong phòng ta.
Ta uống tới mức một cây đèn Kết Phách trước mắt biến thành mười cây, cảm thấy uống khá say, mới đứng dậy loạng choạng đi ngủ. Mơ mơ màng màng nhưng không ngủ được, luôn cảm thấy trên bàn có thứ gì đang tỏa sáng, rất chói mắt, chẳng trách ngủ không được. Ta ngồi bên mép giường, nheo mắt nhìn, hóa ra là một ngọn đèn. A, có lẽ là cái đèn Kết, kết gì đó…
Ta nghĩ mãi mà không nghĩ ra.
Ngọn đèn đó chiếu sáng khiến trái tim người ta rối bời, toàn thân ta mềm nhũn không bò nổi dậy, cứ ngồi cách bảy, tám bước mà thổi ngọn đèn trên bàn, thổi mãi mà không tắt, muốn dùng pháp thuật để tắt đèn nhưng nhất thời chẳng nhớ nổi một phép thuật nào để thổi tắt đèn cả. Ta rên rỉ một tiếng “đen đủi”, dứt khoát bắt quyết chĩa về phía chiếc đèn Kết gì đó, “choang” một tiếng, ngọn đèn đó hình như vỡ tan. Cũng tốt, ngọn lửa trong đèn đã tắt rồi.
Sau cơn giày vò ấy, trời đất quay mòng mòng, ta lập tức ngã xuống giường ngủ say như chết.
Ta ngủ li bì hai ngày liền, khi ngủ cũng nhớ ra rất nhiều chuyện cũ.
Hóa ra năm trăm năm trước, Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, sau khi ta cố gắng nhốt hắn vào trong, chẳng hề giống như cha mẹ ta vẫn nói là ngủ liền hai trăm mười hai năm trong động Hồ Ly, mà bị Kình Thương gieo một phong ấn trong người, rơi xuống núi Tuấn Tật ở Đông Hoang.
Cái gì mà Tố Tố, cái gì mà mẫu thân của cục bột nhỏ, cái gì mà người phàm nhảy xuống Tru Tiên đài, đó căn bản đều là bản thượng thần ta – khi ấy vẫn còn vô năng, vô tri.
Ta còn thắc mắc là lúc thăng lên làm thượng thần, mình đã lịch kiếp như thế nào, chẳng qua đánh với Kình Thương một trận, ngủ vỏn vẹn có hai trăm mười hai năm, rồi trong giấc mộng say lại được thăng làm thượng thần. Ba trăm năm trước trong động Hồ Ly, khi tỉnh dậy, ta mắt chữ O miệng chữ A nhìn nguyên thần của mình từ ánh sáng bạc chuyển thành ánh sáng vàng lấp lánh, còn tưởng rằng ông trời ưu ái ta, cảm kích đến mức cảm thấy ông trời quá nhân từ.
Ta đâu biết, trận đánh với Kình Thương kia chỉ là một ngòi nổ, mà kiếp nạn ta phải trải qua để được thăng làm thượng thần, lại chính là tình kiếp. Ta phải hy sinh trái tim không nói, mà còn phải hy sinh cả đôi mắt. Nếu không phải Kình Thương phong ấn tiên nguyên của ta, thì nhảy xuống Tru Tiên đài ta còn phải hy sinh toàn bộ tu vi. Ông trời hành sự chẳng hồ đồ chút nào, nhân từ, nhân từ, ông ta nhân từ cái cóc khô ấy.
Ta đã hiểu vì sao khi ở Thanh Khâu, Dạ Hoa ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi; hiểu được cái đêm ở quán trọ dưới trần gian, cái câu “Ta mong nàng nhớ ra, lại mong nàng vĩnh viễn không nhớ” ta nghe được trong lúc mơ màng hoàn toàn không phải là ta ngủ mơ; tất cả đều có trước có sau, là năm đó Dạ Hoa đã để ta chịu oan, chàng cảm thấy có lỗi với ta. E là chàng mãi mãi không bao giờ hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho cục bột là A Ly, mãi mãi không hiểu được tại sao ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài.
Chuyện cũ lần lượt ào về như thác đổ, nỗi đau kéo dài suốt ba năm đó của ba trăm năm về trước mới như ngày hôm qua, cái gì là đại nghĩa, cái gì là đạo lý, cái gì là bảo vệ sự an toàn cho một người phàm như ta mà không thể không làm với không thể làm, đêm đêm một mình vò võ trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, từng tia hy vọng nhỏ nhoi bị bóp nghẹt. Tình cảm ấy ào ạt chảy về, ta cảm thấy cõi lòng bi thương vô tận. Ba năm đó, bản thượng thân sống vô dụng biết bao, đau đớn biết bao.
Ta cảm thấy với tâm trạng của mình giờ đây, nếu thành thân với Dạ Hoa vào tháng mười, e rằng hơi khó. Ta biết rằng mình vẫn còn yêu chàng. Ba trăm năm trước ta bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc choáng váng; ba trăm năm sau lại bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc mụ mẫm; đây là oan nghiệt. Ta không thể ngăn được mình yêu chàng, nhưng nghĩ đến chuyện ba trăm năm trước, trái tim yêu chàng như trồi lên một cái nhọt, cái nhọt này lại chẳng thể tiêu tan. Thế nên, ta cũng chẳng thể tha thứ cho chàng.
Mê Cốc bưng nước vào trong phòng cho ta rửa mặt, nhìn ta một lúc, lão nói: “Cô cô, có cần ta đi lấy thêm chút rượu nữa không?”.
Ta giơ tay sờ lên mặt, mới phát hiện nước mắt đẫm tay mình.
Mê Cốc dâng rượu lên thật. Bữa trước ta uống bảy, tám vò, cứ tưởng đã uống hết sạch rượu tứ ca cất giữ, Mê Cốc vẫn còn có thể dâng thêm năm, sáu vò, chứng tỏ trong gian nhà tranh của lão cất giữ không ít rượu.
Mỗi khi ta uống say thì sẽ ngủ, tỉnh lại uống, lại say rồi lại ngủ, cứ lặp lại một cách đơn điệu như vậy ba, bốn ngày. Đến chạng vạng tối ngày thứ năm thì tỉnh, Mê Cốc đang ngồi trong phòng ta, nói: “Cô cô lo lắng đến bản thân một chút đi, trong động không còn rượu để mang lên nữa rồi”.
Mê Cốc quá lo, bản thân ta đâu cần lo lắng gì, chỉ là mệt mỏi quá thôi, không vô dụng như Phượng Cửu, thất tình uống tí rượu vào là say đến nỗi ói mật xanh mật vàng. Qua lần tôi luyện này, tửu lượng của ta còn tăng tiến không ít.
Không có men rượu mạnh, đầu ta lại tỉnh táo trở lại. Đầu óc tỉnh táo khiến ta nhớ một chuyện quan trọng mà dù thế nào cũng không thể quên. Đôi mắt của ta đang sống trong hốc mắt của Tố Cẩm, nên đòi nó trở về rồi.
Khi đó ta trải qua tình kiếp, bị Tố Cẩm nhân cướp mất đôi mắt. Bây giờ ta đã lịch kiếp xong, đôi mắt ta vẫn để trong hốc mắt nàng ta là không được, nàng ta nuôi đôi mắt của ta hẳn cũng thấy không tự nhiên.
Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, ta gọi quạt Côn Luân đến, soi gương chỉnh sửa lại dung nhan. Haizz, sắc mặt ta nhìn không tốt lắm, để không mất thể diện của Thanh Khâu, ta đành lấy hộp phấn ra, thoa ít phấn lên.
Mặt mày rạng rỡ, ta lên Cửu Trùng Thiên, ta bắt quyết, dễ dàng lách qua đám thiên binh thiên tướng canh Nam Thiên Môn, đi thẳng một mạch đến điện Sướng Hòa của Tố Cẩm nằm trong khuôn viên Tẩy Ngô cung.
Nàng “mẫu mực” quả rất biết hưởng phúc, nàng ta đang nằm trên giường quý phi an nhàn nhắm mắt dưỡng thần.
Ta hiện thân, một tiên nga thị tỳ vừa bước vào điện trông thấy đã kêu “á” một tiếng. “Mẫu mực” liền mở choàng mắt, nhìn thấy ta thì sững người, miệng vẫn giả lả: “Thượng thần giá đáo, Tố Cẩm vô cùng sợ hãi”. Động tác trở mình xuống giường lại cực kỳ chậm rãi, bình thản thong dong, quả là “vô cùng sợ hãi”.
Ta ngồi một bên. Nàng ta ra vẻ tươi cười, cởi mở, nói; “Tố Cẩm đoán thánh ý của thượng thần, có lẽ là đến để hỏi thăm tình hình gần đây của quân thượng. Nếu nói đến quân thượng”, ngừng lại một lát, lại cười vẻ vô cùng cởi mở, “Tố Tố ở trần gian kia, vẫn sống cùng quân thượng rất vui vẻ, chăm sóc quân thượng rất chu đáo”.
Nụ cười làm nền cho đôi mắt sáng lấp lánh trên gương mặt, ta sờ lên mặt chiếc quạt, ra vẻ ung dung, nói: “Nếu như thế này, tự nhiên là tốt nhất. Dạ Hoa đã có ngươi chăm sóc, ta cũng an tâm, còn hôm nay, ta lại muốn quan tâm tới ngươi một chút”.
Nàng ta nghi hoặc nhìn ta.
Ta cười đoan trang: “Tố Cẩm, ngươi dùng đôi mắt của bản thượng thần đã ba trăm năm, dùng có tốt không?”.
Nàng ta ngẩng phắt đầu, máu trên khuôn mặt từ đỏ chuyển sang hồng nhạt, từ hồng nhạt chuyển sang trắng bệch, trong nháy mắt đổi ba màu, cực kỳ thú vị. Nàng ta nói với giọng run rẩy: “Vừa nãy ngươi, ngươi nói gì?”.
Ta xòe quạt, cười đáp: “Ba trăm năm trước bản thượng thần trải qua tình kiếp, đã đánh mất đôi mắt vào tay ngươi, hôm nay nhớ ra chuyện này, nên cố ý tới đây đòi. Theo ngươi, tự ngươi động thủ hay là bản thượng thần đích thân động thủ?”.
Nàng ta lùi về sau hai bước, va ngay vào thành giường quý phi đằng sau, nhưng dường như không hề hay biết, miệng lắp bắp: “Ngươi là, ngươi là Tố Tố?”.
Ta không bình tĩnh được nữa, xòe quạt: “Rốt cuộc là ngươi đích thân móc trả hay là bản thượng thần móc giúp ngươi?”.
Đôi mắt nàng ta thất thần, tay vặn xoắn tà áo, há miệng mấy lần, nhưng không nói được một câu hoàn chỉnh nào, như cười như khóc, nói: “Người đó, người đó rõ ràng chỉ là một người phàm, sao lại là ngươi, ả rõ ràng là một người phàm”.
Ta bước tới, rót một chén trà đặc còn bốc khói nghi ngút trên bàn, ngạc nhiên nói: “Một người phàm thì sao, một thượng thần thì sao nào? Chỉ vì ba trăm năm trước ta hóa thành một người phàm, yếu ớt vô dụng, một tiểu thần tiên như ngươi có thể đoạt đôi mắt của ta, lừa ta nhảy xuống Tru Tiên đài được sao?”.
Chân nàng ta mềm nhũn, loạng choạng ngã xuống, cứ lắp bắp “ta, ta” hồi lâu mà không nói được câu gì biện hộ.
Ta bước tới, đưa tay sờ lên hốc mắt của nàng ta, dịu dàng nói: “Gần đây bản thượng thần có chuyện vui, uống mấy vò rượu, tay hơi run, động thủ có lẽ sẽ đau hơn ngươi tự làm, ngươi thông cảm nhé!”.
Tay ta còn chưa hạ xuống, nàng ta đã kêu thét thất thanh. Ta vung tay phóng ra một đạo tiên chướng trùm lên trước điện Sướng Hòa, đảm bảo cho dù đám tiểu tiên đồng, tiểu cung nga có nghe thấy tiếng kêu của nàng ta cũng không vào trong được.
Ánh mắt nàng ta đã rối loạn, hai tay giữ chặt lấy tay ta, nói: “Ngươi không thể, ngươi không thể…”.
Ta buồn cười, vỗ nhẹ lên mặt nàng ta: “Ba trăm năm trước ngươi thích giả vờ yếu đuối, lúc nào ta gặp ngươi, ngươi cũng giả vờ yếu đuối, không thể để bản thượng thần mở mắt, nhìn xem lúc ngươi không yếu đuối trông thế nào? Lúc Dạ Hoa móc đôi mắt của ta nói nợ người ta cuối cùng vẫn phải trả, khi đó đôi mắt của ngươi sao lại không có, hai chúng ta đều hiểu rõ. Đôi mắt của ta sao lại lọt vào hốc mắt ngươi, hai chúng ta cũng đều hiểu rõ. Ngươi nói xem, tại sao ta không thể lấy lại đôi mắt của mình, lẽ nào đôi mắt của ta nằm trong hốc mắt của ngươi ba trăm năm, thì sẽ biến thành của ngươi sao?”.
Dứt lời ta ra tay dứt khoát, nàng ta kêu lên thảm thiết. Ta ghé tai nàng ta thì thầm: “Chuyện ba trăm năm trước, Thiên Quân âm thầm làm, chuyện hôm nay, ta cũng âm thầm làm. Khi xưa ngươi nợ ta hai món nợ, một là đôi mắt, hai là Tru Tiên đài. Món nợ hôm nay coi như ta đã bắt ngươi trả. Món nợ Tru Tiên đài, hoặc là ngươi đường hoàng nhảy xuống một lần, hoặc là ngươi nói với Thiên Quân, dùng tiên lực bé mọn của ngươi đến nhà lao ở bến Nhược Thủy canh chừng chuông Đông Hoàng nhốt Kình Thương, vĩnh viễn không lên trời nữa”.
Toàn thân nàng ta co rúm, có lẽ rất đau đớn. Nỗi đau này ta cũng từng trải qua, nên cũng đoán ra. Nàng ta đau đến mức không thể thở nổi, nhưng vẫn bướng bỉnh nhả ra ba tiếng: “Ta… quyết… không…”.
Không sai, không giả vờ yếu đuối với ta, cố gắng cứng rắn một lần. Ta nâng cao khuôn mặt đẫm máu của nàng ta lên, cười nói: “Ô? Vậy là ngươi muốn bản thượng thần đích thân đi nói với Thiên Quân. Nhưng con người ta xưa nay lúc này nói một đằng, lúc khác lại nói một nẻo. Nếu để ta đến nói với Thiên Quân, không biết lúc đó ta có nói như bây giờ không nữa”.
Cơ thể nàng ta cứng đờ, rồi tiếp tục đau đớn cuộn tròn lại. Ta thầm niệm một câu kinh Phật, thiện ác quả báo, đạo trời luân hồi.
Tất Phương lại đi mất, tứ ca lại đi tìm hắn. Trong rừng đào mười dặm chỉ còn một mình Chiết Nhan.
Khi ta đưa đôi mắt còn đẫm máu trong tay cho Chiết Nhan, lão kinh ngạc tột độ, đem ra soi xét cẩn thận rất lâu dưới ánh mặt trời, nói: “Đôi mắt bị trộm ba trăm năm vẫn có thể tìm lại được, thật là chuyện lạ”, rồi lại nói, “Ngươi đã uống thuốc của ta, giờ lại nhớ ra quá khứ đau thương khi trước, cũng là chuyện lạ”.
Đôi mắt này được lấy ra từ một tiên thể chưa đến bảy bảy bốn mươi chín ngày, nếu không thì chỉ có nước bỏ đi. Chiết Nhan cảm thấy lạ lùng, có lẽ lão tưởng đôi mắt ta mất hẳn, chẳng ngờ lại được đặt trên khuôn mặt của người khác, đến hôm nay mang đôi mắt này về, còn có thể đặt lại vào hốc mắt ta.
Ta gượng cười một cái.
Lão liếc nhìn thần sắc trên mặt ta, hẳn cũng đoán rằng ta không muốn nhắc lại chuyện cũ, nên cũng rất hiểu ý ho hai tiếng, không hỏi nhiều nữa.
Chiết Nhan nói lão cần mấy ngày để loại trừ hết những tạp khí trên đôi mắt này, sau đó mới thay mắt cho ta. Ta vui vẻ nhận lời, rồi nhân thể vòng ra sau núi đào mấy bình rượu lên, cưỡi mây bay về Thanh Khâu.
Cứ thế lại uống say mèm mấy ngày. Ta dặn Mê Cốc giúp ta để ý động tĩnh thứ phi của thái tử trên Cửu Trùng Thiên, mấy ngày này đóng cửa Thanh Khâu, ta không gặp ai cả. Rượu Chiết Nhan cất, quả nhiên ngon hơn rượu do Mê Cốc tích trữ rất nhiều, hôm qua say còn nôn ra dịch mật, đầu đau đến mức muốn cầm kiếm xuyên qua huyệt Thái Dương từ bên trái sang bên phải. Nhưng như thế cũng tốt, hễ nhắm mắt là trời xoay mòng mòng, sẽ không còn thời gian mà đi nhớ đến chuyện khác nữa.
Mê Cốc khuyên ta nên uống chậm lại, tạm thời không say rượu trong một, hai ngày, mà nên giữ gìn sức khỏe.
Nhưng lần này hoàn toàn khác với nỗi đau lòng trong quá khứ, hễ không say là ta không thể chợp mắt.
Khi ta say túy lúy thì chẳng biết trời trăng gì, nhưng nếu không say mèm, thì vẫn láng máng nhớ Mê Cốc thường nói chuyện với ta. Lão nói rất nhiều, đại khái là những chuyện không quan trọng. Có hai chuyện mà ta vẫn nhớ rất rõ, một là thứ phi thái tử trên Cửu Trùng Thiên mà ta rất để ý không hiểu sao cuối cùng cũng ngộ ra, dâng thư lên Thiên Quân, cam tâm tình nguyện xin rút khỏi Tiên tộc, đến bến Nhược Thủy vừa tu hành vừa giữ chuông Đông Hoàng. Thiên Quân cảm động trước ý tốt của nàng ta, bèn phê chuẩn; một chuyện nữa là thái tử Dạ Hoa lịch kiếp dưới trần gian, vốn đã uống nước Vong Xuyên không còn nhớ chuyện cũ, nhưng lại tin quỷ thần, dốc cả đời đi tìm tiên cảnh Thanh Khâu, tuy làm quan đến chức tể tướng nhưng suốt đời không lấy vợ, năm hai mươi bảy tuổi u uất bệnh mà chết, trăn trối người nhà đem thi thể hỏa táng, hợp táng với chuỗi ngọc thường đeo bên mình.
Ta không biết lúc Mê Cốc nói chuyện đó ta có rơi lệ hay không. Nếu như ta thực sự rơi lệ, thì vì sao lại rơi lệ chứ? Ta uống rất nhiều, đầu óc trở nên chậm chạp, nghĩ mãi mà không ra.
Qua mấy ngày, Mê Cốc hớt hơ hớt hải chạy vào động Hồ Ly, báo tin cho ta. Nghe nói thái tử điện hạ Dạ Hoa Quân trên Cửu Trùng Thiên, đã đợi bên ngoài cửa cốc Thanh Khâu bảy ngày, chàng muốn gặp ta.
Mê Cốc nói lão làm theo lệnh của cô cô, không dám cho bất cứ ai vào cốc, cho dù là Dạ Hoa cũng không dám cho vào. Nhưng bảy ngày trôi qua, Dạ Hoa vẫn chưa có ý muốn rời đi, lão không thể tự ý, nên đành đi vào thông báo với ta, xem ý ta ra sao.
Đầu óc ta cuối cùng cũng tỉnh táo lại.
A, Dạ Hoa ở trần gian hai mươi bảy tuổi đã tạ thế, hai nắm đất vàng chôn cất, đương nhiên sẽ trở chính thân.
Không hiểu tại sao, trong lòng đột nhiên nhói đau. Ta ôm tim, trượt theo chân bàn quỵ xuống, Mê Cốc định đỡ dậy, ta cản lão lại.
Dựa vào chân bàn, ta ngước nhìn xà nhà. Ta muốn gặp Dạ Hoa.
Ta muốn hỏi chàng ba trăm năm trước, vì Tố Cẩm phản bội chàng lấy Thiên Quân, nên chàng đau lòng, mới cắn răng lấy một người phàm trần không?
Chàng có thật lòng yêu ta không? Chàng để ta vò võ ba năm trong Thiên Cung lạnh lẽo, là vì muốn tốt cho ta sao? Khi chàng yêu ta, có phải vẫn yêu Tố Cẩm không? Nếu như yêu, vậy thì yêu sâu đậm bao nhiêu? Nếu như không phải ta bị lừa nhảy xuống Tru Tiên đài, có phải chàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy Tố Cẩm không? Bây giờ chàng tỏ ra tình sâu nghĩa nặng với ta, có phải vì hối hận chuyện ba trăm năm trước không?
Càng nghĩ lại càng không muốn tiếp tục nghĩ nữa. Ta đưa tay che mắt, nước mắt trào qua kẽ tay. Nếu như chàng nói là “đúng” thì sao? Nếu như chàng nói toàn bộ là “đúng” thì sao?
Ta không biết mình có nên tự tay giết chàng không.
Mê Cốc đứng bên lo lắng nói: “Cô cô, gặp hay không gặp đây?”.
Ta thở dài, nói: “Không gặp. Nói với chàng rằng, chàng không cần đến Thanh Khâu nữa. Ngày mai ta sẽ tìm Thiên Quân từ hôn”.
Lúc lâu sau, Mê Cốc quay về, im lặng một lát mới nói: “Thái tử điện hạ, thần sắc của người rất xấu. Người đứng ở cửa cốc đã bảy ngày, một bước cũng không rời”.
Ta liếc lão một cái, tợp một ngụm rượu, không đáp lại.
Lão ngần ngừ rồi thưa: “Thái tử điện hạ nhờ ta chuyển lời tới cô cô. Người muốn hỏi cô cô, ban đầu cô cô nói, nếu khi ở trần gian người có vướng phải hoa đào, thì cô cô sẽ trói người mang về nhốt ở Thanh Khâu. Khi ở trần gian, ngoài mang một thị nữ có dáng vẻ giống cô cô lúc là người phàm, để hầu hạ mẫu thân bị bệnh ra, thì nửa đóa hoa đào ngài cũng chưa vướng bận, lúc đầu cô cô đã hứa với ngài, sao giờ lại không tính?”.
Ta hất bình rượu, quát to: “Không tính, cái gì cũng không tính, cút, ngươi bảo hắn cút đi, ta không muốn nhìn mặt hắn”.
Lòng đau như cắt, ta biết rằng không phải mình không muốn gặp chàng, chỉ là trong lòng có nút thắt, không biết phải gặp chàng ra sao.
Ngày thứ hai, ta vẫn chưa lên Cửu Trùng Thiên từ hôn, chỉ cảm thấy tạm gác lại đã, đợi khi nào tâm trạng thoải mái thì sẽ đi. Nhưng trong một thời gian ngắn, sợ rằng tâm trạng khó mà thoải mái được.
Ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm, Mê Cốc nói Dạ Hoa vẫn đứng ở cửa cốc, không rời nửa bước. Ta nói với lão, nếu còn nhắc đến cái tên Dạ Hoa, thì sẽ đánh cho lão hiện nguyên hình là cây Mê Cốc một vạn tám nghìn năm trước, cuối cùng lão cũng ngậm miệng lại.
Ta không sao uống rượu được nữa. Vì từ khi biết Dạ Hoa đang đứng bên ngoài Thanh Khâu, mỗi lần uống, càng uống ta lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau lòng, càng đau lòng lại càng khó ngủ.
Mưa tí tách cả đêm, vì tinh thần ta rệu rã, nên trời vừa hửng sáng đã tỉnh dậy, cảm thấy mấy thành tiên lực dùng để phong ấn Kình Thương trên chuông Đông Hoàng năm trăm năm trước bị chấn động mạnh.
Tim ta nhói đau. Quả là mùa thu đa sự, gần đây hết việc này đến việc kia kéo đến, đúng không uổng danh hiệu “phiền não nhất là tiết sang thu”. Có lẽ, Quỷ Quân đời trước Kình Thương công đức đã viên mãn, sắp phá chuông Đông Hoàng mà ra rồi.
Ta vội vàng rửa mặt, sai Mê Cốc gấp rút đi rừng đào mười dặm chuyển lời đến Chiết Nhan, nhờ lão đến giúp ta một tay.
Năm trăm năm trước, khi lần đầu tiên Kình Thường phá vỡ chuông Đông Hoàng, ta cố gắng lắm mới có thể chặn hắn lại và nhốt hắn trở lại trong chuông. Nhưng đánh một trận cũng khiến chuông Đông Hoàng bị sứt mẻ, ta lại không thể chỉ dùng có năm thành tu vi mà vá lành nó được. Với ngần này tu vi còn lại trên người, vừa nhẩm tính thì liều tấn công cũng hỏng, mà lý trí phòng thủ cũng hỏng, nếu còn vài phần sáng suốt, cũng đủ biết là không thể đấu lại với hắn.
Nhưng Kình Thương không phải là kẻ lương thiện, bị nhốt ngần ấy năm, không chừng sau khi phá chuông Đông Hoàng chui ra, bạo tính lại bộc phát, lại đứng đầu tập họp thần thú của tám cõi tiêu diệt chư thiên, đốt cháy bốn bể tám cõi và ba nghìn thế giới thành tro bụi.
Nghĩ đến đây, những chuyện phiền não trăng gió canh cánh cả trong giấc mộng vừa nãy đã bay biến đâu cả. Ta lấy quạt Côn Luân, nhún mình vút lên một đám mây, tức tốc nhằm thẳng hướng Nhược Thủy mà đi, định bụng trước khi Chiết Nhan tới, phải cố gắng chống chọi, tuyệt đối không được để Kình Thương phá chuông Đông Hoàng thoát ra.
Ta biết rằng mình sẽ gặp Dạ Hoa ở cửa cốc. Chàng vẫn đứng chờ ở cửa cốc, nếu như ta ra khỏi Thanh Khâu, tất sẽ phải gặp chàng. Ta nhắm mát, giả vờ vô tình đi lướt qua chàng, thì một tay chàng níu tay áo ta lại. Khuôn mặt chàng trắng bệch khiến người ta phát hoảng, dáng vẻ tiều tụy, mệt mỏi thấy rõ.
Chuyện gấp gáp như thế này sao có thể ở đây lằng nhằng với chàng, ta quay đầu dùng quạt chém một nhát cắt đứt một nửa ống tay áo bị chàng giữ, roạt một tiếng, chàng sững người, nghẹn ngào thốt hai tiếng: “Thiển… Thiển”.
Ta không đáp, quay người tiếp tục bay đến Nhược Thủy. Ta liếc nhìn, chàng cũng cưỡi mây bám theo sau.
Nhiều năm về sau, ta luôn nghĩ, khi đó, khi đó cho dù ta chỉ nói với chàng một câu thôi, cho dù chỉ một câu thôi? Nhưng ta lại lạnh lùng nhìn chàng. Một câu cũng không nói. Nhìn xuống Nhược Thủy mờ mịt, sóng bạc dâng cao ngang trời, phía trên mây đen vần vũ, chuông Đông Hoàng như một tòa tháp cao đứng sừng sững bên bến Nhược Thủy, trong nháy mắt một tiếng nổ ầm rung chuyển một phương. Tố Cẩm đáng nhẽ phải trấn thủ chuông Đông Hoàng mất tăm mất tích, có lẽ nhìn thấy cảnh tượng này đã sợ hãi, tìm chỗ trốn rồi.
Trong tầng mây lơ lửng trên không trung đã nhìn thấy ló ra nửa cái đầu của thổ thần Nhược Thủy. Năm trăm năm trước ta đã có duyên gặp mặt với thổ địa này, y ló đầu từ trong mây ra, lo lắng nhìn chuông Đông Hoàng đang rùng lắc, thấy ta và Dạ Hoa, thì cuống quýt vái lạy, lo sợ nói: “Cô cô tiên giá, Nhược Thủy Thần Quân đã lên Thiên Đình cầu cứu rồi, lệnh cho tiểu tiên đứng đây chờ. Cơn tức giận của Kình Thương lần này cực kỳ khác lạ, phủ Thần Quân dưới sông Nhược Thủy cũng bị rung chuyển, miếu thổ địa của tiểu tiên cũng…”, y nói líu ra líu ríu, bỗng chuông Đông Hoàng dưới đất phát ra một luồng sáng cực lớn, trong ánh sáng trắng lờ mờ hiện ra một bóng người.
Ta thầm than hỏng rồi, đanh định lao xuống thì thân hình bị giữ chặt lại.
Dạ Hoa ở phía sau đã dùng dây trói, nhân lúc ta không để ý liền dùng định thân chú, giữa lúc sấm rền chớp giật còn dùng phép thuật trói hai chân hai tay ta. Ta không nhúc nhích được, trơ mắt nhìn Kình Thương sắp thoát khỏi chuông Đông Hoàng, vội hét lên: “Chàng thả thiếp ra”.
Chàng không đáp, mà đẩy ta sang cho thổ địa Nhược Thủy, khẽ nói: “Trông chừng nàng ấy cho cẩn thận, cho dù xảy ra chuyện gì cũng không được để nàng ấy ngã từ trên mây xuống”. Dứt lời lật bàn tay trái một cái, một thanh bảo kiếm sáng lóa lạnh ngắt hiện ra.
Ta trơ mắt nhìn chàng tay cầm bảo kiếm, đón gió xuống mây, lao thẳng vào luồn sáng bạc phát ra từ chuông Đông Hoàng, chỉ cảm thấy trời như sụp xuống, mấy lần há miệng nhưng nói không nên lời, cơn gió lạnh buốt quét qua khiến hai mắt ta đau buốt. Lúc Dạ Hoa lao vào luồng sáng bạc đó, ta nghe thấy mình gào lên một cách tuyệt vọng: “Thổ địa, ngươi thả ta ra, ngươi hãy nghĩ cách thả ta ra, Dạ Hoa chàng đâm đầu vào chỗ chết, trên người chàng đâu còn tu vi, chàng đâm đầu vào chỗ chết!”.
Thổ địa lầm rầm vâng dạ gì đó, có lẽ nói pháp thuật này quá huyền diệu, y không giải được, định thân chú này cũng rất kỳ quái, y cũng không giải được.
Cầu người không được đành phải cầu mình, ta ngưng khí định thả nguyên thần ra khỏi cơ thể, nhưng chẳng ngờ pháp thuật không chỉ khóa thân xác mà còn khóa luôn nguyên thần, ta giãy giụa cũng vô dụng mà thôi. Trong làn nước mắt mờ mịt, luồng ánh sáng bạc quanh chuông Đông Hoàng cũng dần dần tản đi, sấm rền chớp giật khi Dạ Hoa và Kình Thương đấu phép thuật dội thẳng lên trời. Thổ địa tạo một tiên chướng nho nhỏ bên cạnh chúng ta, để phòng ta bị chướng khí làm bị thương.
Pháp khí mà Dạ Hoa dùng để trói ta rất ghê gớm, ta mồ hôi đầm đìa mới giải được định thân chú, nhưng không làm sao thoát ra khỏi pháp khí này.
Giữa trời đất tối sầm, thổ địa nói với ta: “Cô cô, nơi này vẫn hơi nguy hiểm, tiên chướng của tiểu tiên không biết cầm cự được bao lâu, hay là chuyển chỗ đi”.
Ta nghe thấy giọng mình trở nên xa xăm: “Ngươi đi đi, ta ở đây cùng Dạ Hoa”.
Lúc này tuy ta bị trói, chỉ là đồ bỏ đi, chẳng giúp được Dạ Hoa, cho dù như thế, ta cũng muốn bên chàng, nhìn thấy chàng.
Ta chưa bao giờ nhìn thấy Dạ Hoa cầm kiếm, không ngờ chàng cầm kiếm lại có dáng vẻ này.
Nghe nói kiếm thuật của Dạ Hoa rất khá, cây kiếm trong tay chàng tên là Thanh Minh, đám tiểu tiên hâm mộ chàng tán tụng là “Thanh Minh vừa rút, chín châu hãi hùng”. Mới đầu nghe thấy, cảm thấy đó chỉ là lời khen ngợi sáo rỗng của đám tiểu bối, hôm nay chứng kiến hoa kiếm bay lượn do kiếm Thanh Minh tỏa ra, chín châu hãi hùng thực ra cũng hơi khoa trương, nhưng bóng kiếm quả khiến người ta hoa mắt, từng nhát từng nhát đều phát ra sấm sét, khiến mắt ta cay xè.
Hai người họ đánh rất kịch liệt, ta đứng quá cao, không thể nhìn rõ là ai đang giành phần thắng. Nhưng ta biết Dạ Hoa sẽ không cầm cự được lâu, ta chỉ mong chàng cầm cự được đến lúc Chiết Nhan tới, hay là đến lúc đám thiên binh thiên tướng vô dụng do ông nội chàng cử tới cũng được.
Bến Nhược Thủy cát bụi mịt mù, đất đá tung tóe. Bỗng nghe thấy Kình Thương cười dài ba tiếng, sau đó lại ho một trận, chậm rãi nói: “Hôm nay bại dưới tay ngươi, ta không phục. Nếu không phải vết thương năm trăm năm trước chưa khỏi, hôm nay ra khỏi chuông đã rất mất sức, thì tuyệt đối ta không thể thua một thằng nhãi như ngươi”.
Đám khói bụi vần vũ đã tan đi, Dạ Hoa chống kiếm xuống đất, một đầu gối nửa quỳ xuống mặt đất, nói: “Rốt cuộc ngươi vẫn bại”.
Trái tim treo lơ lửng của ta đã lắng xuống, ta run run nói với thổ địa: “Phía dưới ổn rồi, ngươi mau đưa ta xuống dưới…”.
Lúc thổ địa cuống quýt giải tiên chướng, chuông Đông Hoàng bỗng phát ra một luồng sáng màu đỏ như máu. Ta sửng sốt, Kình Thương chưa bại sao? Hắn đã thua rồi, vậy cớ sao chuông Đông Hoàng còn có thể mở ra?
Dạ Hoa cũng ngẩng phắt đầu, trầm giọng nói: “Ngươi đã làm gì trên chuông?”.
Kình Thương nằm trên mặt đất, yếu ớt đáp: “Ngươi muốn biết ư, tại sao ta chẳng chạm tới chuông Đông Hoàng, mà nó vẫn có thể mở ra ư, ha ha, chẳng qua ta dùng thời gian bảy vạn năm, phí bao tâm sức, đã hợp nhất tính mạng của ta với nó. Nếu ta chết đi, chuông Đông Hoàng sẽ tự mở. Xem ra ta cũng sắp chết rồi, không biết chôn cùng ta, là tên nhãi ranh nhà ngươi, hay là chúng tiên của tám cõi…”.
Hắn còn chưa dứt lời, mắt ta đã nhìn thấy Dạ Hoa lao vào đám lửa đỏ đó.
Là tiếng kêu xé gan xé phổi của ai: “Không!”.
Không, không thể? Hay là không cần, không được? Chuông Đông Hoàng mở ra thì sao, chúng thần của tám cõi bị tận diệt thì sao, chung quy hai chúng ta vẫn ở một chỗ, thiêu thành tro thì cũng chung một nắm tro, sao chàng, sao chàng có thể bỏ lại ta một mình chứ?
Khi Dạ Hoa lao vào đám lửa hừng hực như đóa sen đỏ của chuông Đông Hoàng, pháp khí khóa chân tay ta bỗng tan biến. Đúng rồi, nếu chủ nhân của pháp khí tu vi tiêu tan, thì pháp khí này sẽ tự nhiên không trói được người ta nữa.
Đám lửa như đóa sen đỏ đó đã cháy đỏ cả một nửa trời, bến Nhược Thủy quỷ khí âm u, ta dốc tu vi toàn thân trút vào quạt Côn Luân bắn về phía chuông Đông Hoàng. Chiếc chuông lắc một cái, trong ánh sáng màu đỏ đó, ta không tìm thấy bóng dáng Dạ Hoa.
Dường như những tiếng của ác hồn quỷ phách truyền đến, âm thanh đó dần dần tụ lại, giống như thiên binh vạn mã rầm rập lao tới, ầm – tiếng kêu bi thảm của chuông Đông Hoàng.
Ánh sáng đỏ lóe lên, rồi tắt ngấm. Một bóng người màu đen từ đỉnh chuông Đông Hoàng ngã xuống.
Ta lật đật chạy qua đón lấy chàng, bước được hai bước lại ngã nháo nhào xuống đất. Khuôn mặt chàng trắng bệch, khóe miệng còn rỉ máu, dựa vào vai ta, ánh mắt tối sầm. Chiếc áo bào màu đen đã nhuộm máu tươi, nhưng vì là màu đen, nên không nhận ra chàng toàn thân đẫm máu.
Chiết Nhan nói: “Ta luôn cảm thấy Dạ Hoa lúc nào cũng mặc đồ đen rất kỳ lạ, lần đó uống rượu với hắn, ta mới hỏi, ta cứ tưởng hắn thích nhất màu này, nhưng hắn nâng chén rượu hồi lâu, lại chỉ nói đùa với ta rằng, màu này không đẹp, nhưng rất thực dụng, ví dụ một hôm nào đó ngươi bị chém một nhát, máu thấm ra áo, cũng không biết là vệt máu, chỉ cho rằng ngươi bị va vào thau nước, bị nước hắt lên người, chứ không nhận ra ngươi bị thương, người lo lắng cho ngươi sẽ không đau lòng, kẻ thù của ngươi cũng không thể vì chém được ngươi mà thấy sung sướng”. Lúc Chiết Nhan kể cho ta, ta còn vui mừng vì cuối cùng Dạ Hoa đã biết bông đùa. Nhưng đến hôm nay, ta mới biết, những gì chàng nói là những điều chàng đã trải qua.
Ba trăm năm trước, khi ta hóa thành Tố Tố ngây ngô vô tri, tự cho rằng mình yêu chàng như máu thịt; đến khi mất đi hồi ức, chỉ là Bạch Thiển của Thanh Khâu, khi chàng nói yêu ta, dần dần khiến ta rung động trước chàng, cũng ngỡ rằng đó là yêu rất chân thành. Ta không thể tha thứ cho chàng năm đó đã không rõ trắng đen mà móc đôi mắt của ta, ép ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài; không thể tha thứ bây giờ chàng luôn nói yêu ta, nhưng chẳng qua chỉ là món nợ năm xưa chàng nợ ta, nên cảm thấy hổ thẹn; không thể tha thứ cho chàng từ đầu chí cuối, chưa bao giờ hiểu ta. Nói cho cùng, Bạch Thiển ta sống ngần này tuổi, trong tình yêu lại ích kỷ đến mức vô lý, chấp nhặt dù chỉ là điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng kiếp trước kiếp này, ta liên tiếp hai lần gặp đúng chàng, hai lần đều yêu chàng sâu đậm, bây giờ nhớ lại, ta cũng chưa từng hiểu chàng.
Ví dụ như tại sao chàng luôn vận đồ đen. Hóa ra không phải vì thích màu đen, mà vì không muốn người lo lắng cho chàng phải lo lắng, không muốn lộ vẻ yếu đuối trước mặt kẻ thù. Ta đã quên rằng, chàng luôn là người cắn răng chịu đựng và nuốt máu vào trong. Bảy vạn năm trước, khi Mặc Uyên dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, máu trong miệng nôn ra nhiều gấp trăm lần so với vệt máu rỉ ra từ khóe miệng chàng. Tu vi của chàng thua xa Mặc Uyên khi ấy, vậy số máu đáng nhẽ nhiều gấp trăm lần ấy đã đi đâu?
Ta cúi đầu cắn mạnh vào bờ môi chàng, hoàn toàn không chú ý đến cơ thể chàng khẽ run lên, chỉ cố dùng đầu lưỡi tách răng chàng ra, cố gắng tiến vào trong khoang miệng chàng, có thể cảm thấy thứ gì đó vừa nóng vừa tanh đang men theo khe hở do hai miệng áp vào nhau của ta và chàng ào ạt chảy ra, đôi mắt chàng càng lúc càng tối đen.
Ta cùng Dạ Hoa, trong kiếp này ta là Bạch Thiển, một tháng yêu nhau trên Cửu Trùng Thiên, lúc thân mật nhất chẳng qua cũng chỉ vài đêm.
Dạ Hoa đẩy ta ra, ho rũ rượi, ho ra từng ngụm từng ngụm máu lớn, máu đập vào mắt ta khiến mắt ta hoa lên. Cánh tay đẩy ta đã dùng hết sức tàn, chàng ngã dúi dụi trên đất, lồng ngực không ngừng phập phồng, nhưng không nhúc nhích nổi.
Ta bò qua ôm lấy chàng: “Chàng lại định nuốt máu vào ruột ư? Bây giờ chàng bao nhiêu tuổi, chàng yếu đuối thế nào, thiếp cũng không thất vọng gì cả”.
Khó khăn lắm chàng mới thôi ho, muốn giơ tay lên, nhưng không giơ nổi, rõ ràng đến nói cũng khó khăn, lại còn tỏ vẻ không sao, bình thản nói: “Ta không sao, vết thương này không sao đâu. Nàng, nàng đừng khóc”.
Ta ôm chàng bằng cả hai tay, không thể đưa tay sờ lên mặt chàng, chỉ có thể nhìn vào mắt chàng: “Dùng nguyên thần để tế chuông Đông Hoàng, ngoài Mặc Uyên ra, thiếp chưa từng thấy ai thoát khỏi số mệnh phải tan thành tro bụi, cho dù là Mặc Uyên, cũng phải ngủ bảy vạn năm. Dạ Hoa, chàng không lừa được thiếp đâu, chàng sắp chết, đúng không?”.
Cơ thể chàng cứng lại, nhắm nghiền mắt, nói: “Ta nghe nói Mặc Uyên tỉnh lại rồi, nàng hãy ở bên Mặc Uyên, người sẽ chăm sóc nàng thật tốt, còn tốt hơn ta nhiều lần, ta rất an tâm. Nàng hãy quên ta đi”.
Ta lặng người nhìn chàng.
Khoảnh khắc ấy dài như triệu năm, chàng trợn mắt, thở dốc nói: “Ta chết cũng không thể nói những lời này, cả đời ta chỉ yêu mình nàng, Thiển Thiển, nàng mãi mãi không thể quên ta, nếu nàng dám quên ta, nếu nàng dám…”. Giọng nói dần dần trầm xuống, rồi lại khẽ vang lên, “Ta biết làm thế nào?”.
Ta ghé sát tai chàng nói: “Chàng không được chết, chàng cố cầm cự một lát, thiếp đưa chàng đến tìm Mặc Uyên, người tất có cách”. Cơ thể chàng từ từ chùng xuống.
Ta ghé sát tai chàng gào lên: “Nếu chàng dám chết, thiếp lập tức đến tìm Chiết Nhan xin thuốc, thiếp sẽ quên hẳn chàng, một chút cũng không nhớ. Thiếp sẽ cùng Mặc Uyên, Chiết Nhan còn cả tứ ca sống vui vẻ, mãi mãi không thèm nhớ đến chàng”.
Cơ thể chàng run lên một cái, mỉm cười, nói: “Thế cũng tốt”.
Kiếp này, câu nói cuối cùng chàng nói với ta là, “Thế cũng tốt”.
Khi ta tìm đến, chàng vận thường phục bằng lụa màu đen, đang đứng nâng chén ngắm hoa đào cùng một người con gái vận đồ trắng. Ở chỗ chàng ngồi, phía trên là một cây hoa đào đang thắm sắc.
Người con gái vận đồ trắng ngồi đối diện chàng dường như nói câu gì đó, chàng nâng chén rượu trên bàn, cười rạng rỡ với người con gái ấy, người con gái đó lập tức thẹn thùng cúi đầu.
Nụ cười này của chàng vừa rạng rỡ vừa thân thiết, nhưng trong mắt ta lại cực kỳ gai mắt. Sáu ngày không gặp, chàng coi vật đính ước của ta là đồ bỏ, chẳng phải rước cho ta một món nợ tình tạp nham sao? Nỗi ghen tức xộc lên, ta đang định đi vào để xem xem ngọn nguồn thế nào, thì sau lưng vang lên một giọng nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, Tố Cẩm xin được thỉnh an thượng thần ở đây”.
Ta sững sờ, quay người lại.
Phép ẩn thân chỉ là phép thuật che mắt, có thể che mắt người phàm chứ không thể che mắt thần tiên. Nhìn Tố Cẩm xiêm y giản dị trước mặt ta thấy không quen cho lắm, bèn hỏi: “Sao ngươi lại ở đây?”.
Nàng ta nhìn ta, đáp: “Quân thượng một mình lịch kiếp dưới trần gian, Tố Cẩm sợ quân thượng cô đơn, nên cố ý làm một người quân thượng nhung nhớ, sắp đặt ở bên cạnh chàng. Hôm nay Tây Vương Mẫu mở hội trà, Tố Cẩm cũng được thiếp mời, tiện đường qua đây, nên xuống thăm người Tố Cẩm làm cho quân thượng, xem nàng ta có hầu hạ quân thượng chu đáo hay không?”.
Ta quay lại nhìn người con gái áo trắng đang đứng bên Dạ Hoa. Vừa nãy không để ý, bây giờ nhìn lại, quả nhiên người con gái đó chỉ là một con rối đội da người. Ta lấy chiếc quạt ra, lạnh lùng buông một câu: “Chu đáo quá”.
Nàng ta nhìn ta ân cần, nói: “Thượng thần có biết Tố Cẩm làm con rối theo mẫu của ai không?”.
Ta nghiêng đầu nhìn dò xét, nhưng không cảm thấy gương mặt của người con gái áo trắng kia có điểm gì đặc biệt.
Ánh mắt nàng ta trở nên xa xăm: “Thượng thần có bao giờ nghe tới cái tên Tố Tố không?”.
Lòng ta run rẩy. Tiểu thần tiên Tố Cẩm gần đây quả có tiến bộ, vừa mới gặp đã có thể xéo đúng lên nỗi đau của ta. Sao ta lại không biết mẫu thân đã nhảy xuống Tru Tiên đài của cục bột, phu nhân trước mà Dạ Hoa hết lòng yêu thương tên là gì chứ. Nhưng từ sau khi ta khám phá ra tình cảm của mình dành cho Dạ Hoa, thì đã gói ghém tất cả tin đồn về mẫu thân của cục bột nhỏ, vứt vào trong hòm, khóa ba tầng khóa, thề rằng sẽ không bao giờ mở hòm ra, để bản thân khỏi phải tự tìm đau khổ. Ta không phải là người đầu tiên Dạ Hoa yêu, mỗi lần nhớ ra lại càng nuối tiếc, đau đớn. Nhưng số phận đã như vậy, ta cũng không hề oán trách, chỉ có thể thở dài than rằng số không may, đường tình trắc trở mà thôi.
Tố Cẩm liếc nhìn thần sắc của ta, nói: “Thượng thần không cần phải lo lắng đâu, bây giờ quân thượng chỉ là một người phàm trần, mới không nhận ra người trước mặt chàng chỉ là một con rối, có thể tác thành, khiến giấc mộng mà lòng chàng khao khát trở thành hiện thực. Đợi quân thượng quay về chính thân, cho dù con rối đó có mang gương mặt của Tố Tố, thì theo tính cách của quân thượng, sao có thể quan tâm đến một con rối chứ?”.
Có phải nàng ta đang muốn nói cho ta hay, bây giờ Dạ Hoa đã rất quan tâm tới con rối này không?
Ta cười ha ha, nói: “Ngươi không sợ sau khi Dạ Hoa trở về chính thân, nhớ ra chuyện ngươi đã lừa chàng, sẽ trách tội ngươi sao?”.
Nét mặt nàng ta cứng đờ, gượng cười đáp: “Tố Cẩm chẳng qua chỉ làm một con rối, đặt ở trên đường trước cửa phủ của quân thượng, nếu quân thượng không có ý với nó, thì hai người cũng chỉ là vô duyên thôi. Nhưng quân thượng vừa nhìn đã yêu mến, đưa nó về phủ. Nếu đến lúc đó quân thượng trách tội Tố Cẩm, Tố Cẩm cũng đành chịu”.
Lồng ngực ta căng tức, chỉ mân mê chiếc quạt không nói gì.
Nàng ta lại nở nụ cười dịu dàng, nói: “Có thể thấy, nếu đúng là yêu một người đến khắc cốt ghi tâm, thì dù uống nước Vong Xuyên của U Minh Ti Minh Chủ, cũng vẫn có ấn tượng, đầu thai rồi vẫn yêu người đó. Đúng rồi”, nàng ta ngưng lại giây lát, thong thả nói tiếp, “Thượng thần có biết, ba trăm năm nay, quân thượng luôn chong đèn Kết Phách để tập hợp khí trạch của Tố Tố không?”.
Trong đầu ta bỗng ầm một tiếng, khiến ta không phân biệt nổi phương hướng, lồng ngực căng tức, cồn cào.
Chàng, Dạ Hoa trước đây định tái tạo một Tố Tố sao?
Cái đêm của sáu hôm trước, khi ta ngồi bên cạnh giường Dạ Hoa, chàng còn không nhận ra ta, chàng nói không nhận ra. Sáu năm sau, chàng lại dẫn một người con gái không quen biết về nhà. Quả đúng là chàng yêu ta chẳng sâu sắc bằng chàng yêu Tố Tố khi xưa, nên mới không nhận ra ta. Hoặc giả, hoặc giả, chiếc hòm có ba lần khóa kia đã mở ra, hoặc là chỉ vì khi ta băng mắt có vài phần giống với phu nhân trước, nên Dạ Hoa mới dần dần yêu ta? Đầu óc rối loạn, ngực đau căng tức, tim ta nhói buốt.
Nhưng dù đầu óc hỗn loạn, ta vẫn khâm phục bản thân, ra vẻ thượng thần rất đạt, ta ung dung nói: “Ngươi quả am hiểu chuyện ái tình, đúng là am hiểu như thế mới có thể chịu đựng được sự coi thường của Dạ Hoa, còn có thể làm thứ phi của chàng suốt hơn hai trăm năm. Trong đám tiểu bối bây giờ, ngươi có thể coi là một kẻ có tầm nhìn, con rối ngươi làm rất tinh xảo, để nó bên Dạ Hoa cũng tốt, đỡ cho bản thượng thần phải nhọc công. Sau này nếu Dạ Hoa có trách ngươi gạt chàng, bản thượng thần sẽ nói đỡ cho ngươi”.
Nụ cười của nàng ta đông cứng trên gương mặt, mãi sau mới khóe môi, nói: “Đa tạ thượng thần”.
Ta giơ tay xua xua, nói: “Để lỡ hội trà của Tây Vương Mẫu thì không hay đâu”.
Nàng ta cúi đầu quỳ gối: “Vậy Tố Cẩm xin lui trước”.
Tố Cẩm đi rồi, ta quay đầu lại nhìn, con rối đó đang cùng Dạ Hoa uống rượu. Mấy cánh hoa đào nương theo gió rụng xuống, bay lả tả, vương trên tóc Dạ Hoa. Con rối đó giơ bàn tay trắng như ngọc như ngà, phẩy nhẹ một cái, mấy cánh hoa đào rớt xuống đấy. Nó ngẩng đầu lên nhìn Dạ Hoa cười thẹn thùng, Dạ Hoa không nói gì, uống cạn chén rượu. Đầu ta đột nhiên đau buốt.
Tứ ca hay nói, ta chẳng chịu suy nghĩ, luôn tùy ý hành động, may mà cha mẹ ta giỏi giang, ta mới không phải thiệt thòi, nhưng ta cũng không ít lần làm mất thể diện tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ nhà ta. Cố nhiên ta cảm thấy huynh ấy còn làm nhiều chuyện mất thể diện hơn ta, nhưng niệm tình huynh ấy lớn hơn ta, nên ta cũng nhường huynh ấy.
Giờ đây, ta mới thấy huynh ấy nói có lý. Ta hành động hết sức tùy ý, không hề suy nghĩ. Ví dụ như lúc ban đầu Dạ Hoa bày tỏ với ta, chàng nói chàng thích ta, chàng nói còn ta nghe, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trong toàn thể nữ thần của bốn bể tám cõi, sao chàng chỉ yêu mình ta, cho dù sau này ta cũng yêu chàng, hai bên tình nồng ý đượm, cũng không hề hỏi chàng chuyện quan trọng này. Nếu như chàng thực sự vì mẫu thân của cục bột nhỏ mới thích ta, thì người thế thân Bạch Thiển ta với con rối đang uống rượu với chàng kia, đâu có gì khác nhau. Tuy cũng biết rằng so đo với người đã mất là hẹp hòi, nhưng tình yêu lại thực sự không thể tính tới thể diện hay độ lượng được.
Ngọn lửa ghen tuông ngùn ngụt, ta day day góc trán, cảm thấy lúc này nên ngẫm nghĩ kỹ một số chuyện về Dạ Hoa, bèn bắt quyết gọi một đám mây, rồi lú lú lẫn lẫn bay về Thanh Khâu.
Tối nay, ta đem đèn Kết Phách ra ngắm nghía dưới ánh sáng của viên dạ minh châu. Chiếc đèn này luôn đặt ở chỗ Tây Hải đại hoàng tử để giúp y dưỡng thần, sau khi Mặc Uyên tỉnh lại đã được Chiết Nhan lấy về và đặt ở Thanh Khâu. Lúc trên Cửu Trùng Thiên, Dạ Hoa không hỏi tới, còn ta cũng quên đem trả.
Dưới ánh sáng trắng của viên dạ minh châu, cây đèn Kết Phách ấy khêu lên một ngọn lửa nho nhỏ bằng hạt đậu, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Đâu có ai ngờ, trong cây đèn không có gì đặc biệt này lại chứa khí trạch ba trăm năm của một người phàm.
Ta càng nghĩ lòng càng chùng xuống, lời của Tố Cẩm tuy không thể tin hoàn toàn, nhưng còn lời của tiểu tiên nữ Nại Nại trên Thiên Đình làm chứng, bây giờ ta đã rảnh rỗi để chắp ghép từng chuyện lại, ba trăm nay quả nhiên Dạ Hoa tình sâu như biển với mẫu thân của cục bột nhỏ. Một người nặng tình như chàng, một mối tình sâu như biển ấy, sao chỉ mới ba trăm năm mà đã có thể tan thành mây khói được, sao có thể vừa nhìn thấy bản thượng thần là lập tức thay đổi tình cảm được đây?
Ta càng nghĩ càng cảm thấy ngọn lửa ghen tuông trong lòng bốc lên ngùn ngụt, lan đến tim phổi, cháy bùng lên. Ta yêu Dạ Hoa vì chính con người chàng, nếu như chàng có tướng mạo giống với sư phụ Mặc Uyên, ta cũng chưa bao giờ coi chàng là Mặc Uyên, dù chỉ là một khắc. Nếu như ta coi chàng là thế thân của Mặc Uyên, thì e rằng mỗi lần nhìn thấy chàng ta đều cung kính thưa hỏi, không dám khinh nhờn một chút nào.
Ta đã yêu chàng như vậy, nên cũng mong chàng đối xử lại với ta như thế. Nếu như vì ta giống mẫu thân của cục bột nhỏ, mà chàng lại không nguôi thương nhớ mẫu thân của cục bột nhỏ nên mới chuyển sang ta, thì Bạch Thiển ta không thể nhận sự yêu mến này của chàng.
Mê Cốc đứng bên ngoài khẽ giọng gọi: “Cô Cô, có cần ta dâng ít rượu lên không?”.
Ta im lặng đồng ý.
Rượu mà Mê Cốc dâng lên đều là rượu mới nấu, hơi cay nồng còn chưa được êm lắng, đi vào trong miệng, họng lập tức cay xè, đầu óc ta càng trở nên choáng váng hơn. Có lẽ hôm nay Mê Cốc thấy ta có tâm sự, nên mới cố ý chọn ra loại rượu mạnh này, hễ được lệnh là đem vào trong phòng ta.
Ta uống tới mức một cây đèn Kết Phách trước mắt biến thành mười cây, cảm thấy uống khá say, mới đứng dậy loạng choạng đi ngủ. Mơ mơ màng màng nhưng không ngủ được, luôn cảm thấy trên bàn có thứ gì đang tỏa sáng, rất chói mắt, chẳng trách ngủ không được. Ta ngồi bên mép giường, nheo mắt nhìn, hóa ra là một ngọn đèn. A, có lẽ là cái đèn Kết, kết gì đó…
Ta nghĩ mãi mà không nghĩ ra.
Ngọn đèn đó chiếu sáng khiến trái tim người ta rối bời, toàn thân ta mềm nhũn không bò nổi dậy, cứ ngồi cách bảy, tám bước mà thổi ngọn đèn trên bàn, thổi mãi mà không tắt, muốn dùng pháp thuật để tắt đèn nhưng nhất thời chẳng nhớ nổi một phép thuật nào để thổi tắt đèn cả. Ta rên rỉ một tiếng “đen đủi”, dứt khoát bắt quyết chĩa về phía chiếc đèn Kết gì đó, “choang” một tiếng, ngọn đèn đó hình như vỡ tan. Cũng tốt, ngọn lửa trong đèn đã tắt rồi.
Sau cơn giày vò ấy, trời đất quay mòng mòng, ta lập tức ngã xuống giường ngủ say như chết.
Ta ngủ li bì hai ngày liền, khi ngủ cũng nhớ ra rất nhiều chuyện cũ.
Hóa ra năm trăm năm trước, Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, sau khi ta cố gắng nhốt hắn vào trong, chẳng hề giống như cha mẹ ta vẫn nói là ngủ liền hai trăm mười hai năm trong động Hồ Ly, mà bị Kình Thương gieo một phong ấn trong người, rơi xuống núi Tuấn Tật ở Đông Hoang.
Cái gì mà Tố Tố, cái gì mà mẫu thân của cục bột nhỏ, cái gì mà người phàm nhảy xuống Tru Tiên đài, đó căn bản đều là bản thượng thần ta – khi ấy vẫn còn vô năng, vô tri.
Ta còn thắc mắc là lúc thăng lên làm thượng thần, mình đã lịch kiếp như thế nào, chẳng qua đánh với Kình Thương một trận, ngủ vỏn vẹn có hai trăm mười hai năm, rồi trong giấc mộng say lại được thăng làm thượng thần. Ba trăm năm trước trong động Hồ Ly, khi tỉnh dậy, ta mắt chữ O miệng chữ A nhìn nguyên thần của mình từ ánh sáng bạc chuyển thành ánh sáng vàng lấp lánh, còn tưởng rằng ông trời ưu ái ta, cảm kích đến mức cảm thấy ông trời quá nhân từ.
Ta đâu biết, trận đánh với Kình Thương kia chỉ là một ngòi nổ, mà kiếp nạn ta phải trải qua để được thăng làm thượng thần, lại chính là tình kiếp. Ta phải hy sinh trái tim không nói, mà còn phải hy sinh cả đôi mắt. Nếu không phải Kình Thương phong ấn tiên nguyên của ta, thì nhảy xuống Tru Tiên đài ta còn phải hy sinh toàn bộ tu vi. Ông trời hành sự chẳng hồ đồ chút nào, nhân từ, nhân từ, ông ta nhân từ cái cóc khô ấy.
Ta đã hiểu vì sao khi ở Thanh Khâu, Dạ Hoa ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi; hiểu được cái đêm ở quán trọ dưới trần gian, cái câu “Ta mong nàng nhớ ra, lại mong nàng vĩnh viễn không nhớ” ta nghe được trong lúc mơ màng hoàn toàn không phải là ta ngủ mơ; tất cả đều có trước có sau, là năm đó Dạ Hoa đã để ta chịu oan, chàng cảm thấy có lỗi với ta. E là chàng mãi mãi không bao giờ hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho cục bột là A Ly, mãi mãi không hiểu được tại sao ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài.
Chuyện cũ lần lượt ào về như thác đổ, nỗi đau kéo dài suốt ba năm đó của ba trăm năm về trước mới như ngày hôm qua, cái gì là đại nghĩa, cái gì là đạo lý, cái gì là bảo vệ sự an toàn cho một người phàm như ta mà không thể không làm với không thể làm, đêm đêm một mình vò võ trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, từng tia hy vọng nhỏ nhoi bị bóp nghẹt. Tình cảm ấy ào ạt chảy về, ta cảm thấy cõi lòng bi thương vô tận. Ba năm đó, bản thượng thân sống vô dụng biết bao, đau đớn biết bao.
Ta cảm thấy với tâm trạng của mình giờ đây, nếu thành thân với Dạ Hoa vào tháng mười, e rằng hơi khó. Ta biết rằng mình vẫn còn yêu chàng. Ba trăm năm trước ta bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc choáng váng; ba trăm năm sau lại bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc mụ mẫm; đây là oan nghiệt. Ta không thể ngăn được mình yêu chàng, nhưng nghĩ đến chuyện ba trăm năm trước, trái tim yêu chàng như trồi lên một cái nhọt, cái nhọt này lại chẳng thể tiêu tan. Thế nên, ta cũng chẳng thể tha thứ cho chàng.
Mê Cốc bưng nước vào trong phòng cho ta rửa mặt, nhìn ta một lúc, lão nói: “Cô cô, có cần ta đi lấy thêm chút rượu nữa không?”.
Ta giơ tay sờ lên mặt, mới phát hiện nước mắt đẫm tay mình.
Mê Cốc dâng rượu lên thật. Bữa trước ta uống bảy, tám vò, cứ tưởng đã uống hết sạch rượu tứ ca cất giữ, Mê Cốc vẫn còn có thể dâng thêm năm, sáu vò, chứng tỏ trong gian nhà tranh của lão cất giữ không ít rượu.
Mỗi khi ta uống say thì sẽ ngủ, tỉnh lại uống, lại say rồi lại ngủ, cứ lặp lại một cách đơn điệu như vậy ba, bốn ngày. Đến chạng vạng tối ngày thứ năm thì tỉnh, Mê Cốc đang ngồi trong phòng ta, nói: “Cô cô lo lắng đến bản thân một chút đi, trong động không còn rượu để mang lên nữa rồi”.
Mê Cốc quá lo, bản thân ta đâu cần lo lắng gì, chỉ là mệt mỏi quá thôi, không vô dụng như Phượng Cửu, thất tình uống tí rượu vào là say đến nỗi ói mật xanh mật vàng. Qua lần tôi luyện này, tửu lượng của ta còn tăng tiến không ít.
Không có men rượu mạnh, đầu ta lại tỉnh táo trở lại. Đầu óc tỉnh táo khiến ta nhớ một chuyện quan trọng mà dù thế nào cũng không thể quên. Đôi mắt của ta đang sống trong hốc mắt của Tố Cẩm, nên đòi nó trở về rồi.
Khi đó ta trải qua tình kiếp, bị Tố Cẩm nhân cướp mất đôi mắt. Bây giờ ta đã lịch kiếp xong, đôi mắt ta vẫn để trong hốc mắt nàng ta là không được, nàng ta nuôi đôi mắt của ta hẳn cũng thấy không tự nhiên.
Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, ta gọi quạt Côn Luân đến, soi gương chỉnh sửa lại dung nhan. Haizz, sắc mặt ta nhìn không tốt lắm, để không mất thể diện của Thanh Khâu, ta đành lấy hộp phấn ra, thoa ít phấn lên.
Mặt mày rạng rỡ, ta lên Cửu Trùng Thiên, ta bắt quyết, dễ dàng lách qua đám thiên binh thiên tướng canh Nam Thiên Môn, đi thẳng một mạch đến điện Sướng Hòa của Tố Cẩm nằm trong khuôn viên Tẩy Ngô cung.
Nàng “mẫu mực” quả rất biết hưởng phúc, nàng ta đang nằm trên giường quý phi an nhàn nhắm mắt dưỡng thần.
Ta hiện thân, một tiên nga thị tỳ vừa bước vào điện trông thấy đã kêu “á” một tiếng. “Mẫu mực” liền mở choàng mắt, nhìn thấy ta thì sững người, miệng vẫn giả lả: “Thượng thần giá đáo, Tố Cẩm vô cùng sợ hãi”. Động tác trở mình xuống giường lại cực kỳ chậm rãi, bình thản thong dong, quả là “vô cùng sợ hãi”.
Ta ngồi một bên. Nàng ta ra vẻ tươi cười, cởi mở, nói; “Tố Cẩm đoán thánh ý của thượng thần, có lẽ là đến để hỏi thăm tình hình gần đây của quân thượng. Nếu nói đến quân thượng”, ngừng lại một lát, lại cười vẻ vô cùng cởi mở, “Tố Tố ở trần gian kia, vẫn sống cùng quân thượng rất vui vẻ, chăm sóc quân thượng rất chu đáo”.
Nụ cười làm nền cho đôi mắt sáng lấp lánh trên gương mặt, ta sờ lên mặt chiếc quạt, ra vẻ ung dung, nói: “Nếu như thế này, tự nhiên là tốt nhất. Dạ Hoa đã có ngươi chăm sóc, ta cũng an tâm, còn hôm nay, ta lại muốn quan tâm tới ngươi một chút”.
Nàng ta nghi hoặc nhìn ta.
Ta cười đoan trang: “Tố Cẩm, ngươi dùng đôi mắt của bản thượng thần đã ba trăm năm, dùng có tốt không?”.
Nàng ta ngẩng phắt đầu, máu trên khuôn mặt từ đỏ chuyển sang hồng nhạt, từ hồng nhạt chuyển sang trắng bệch, trong nháy mắt đổi ba màu, cực kỳ thú vị. Nàng ta nói với giọng run rẩy: “Vừa nãy ngươi, ngươi nói gì?”.
Ta xòe quạt, cười đáp: “Ba trăm năm trước bản thượng thần trải qua tình kiếp, đã đánh mất đôi mắt vào tay ngươi, hôm nay nhớ ra chuyện này, nên cố ý tới đây đòi. Theo ngươi, tự ngươi động thủ hay là bản thượng thần đích thân động thủ?”.
Nàng ta lùi về sau hai bước, va ngay vào thành giường quý phi đằng sau, nhưng dường như không hề hay biết, miệng lắp bắp: “Ngươi là, ngươi là Tố Tố?”.
Ta không bình tĩnh được nữa, xòe quạt: “Rốt cuộc là ngươi đích thân móc trả hay là bản thượng thần móc giúp ngươi?”.
Đôi mắt nàng ta thất thần, tay vặn xoắn tà áo, há miệng mấy lần, nhưng không nói được một câu hoàn chỉnh nào, như cười như khóc, nói: “Người đó, người đó rõ ràng chỉ là một người phàm, sao lại là ngươi, ả rõ ràng là một người phàm”.
Ta bước tới, rót một chén trà đặc còn bốc khói nghi ngút trên bàn, ngạc nhiên nói: “Một người phàm thì sao, một thượng thần thì sao nào? Chỉ vì ba trăm năm trước ta hóa thành một người phàm, yếu ớt vô dụng, một tiểu thần tiên như ngươi có thể đoạt đôi mắt của ta, lừa ta nhảy xuống Tru Tiên đài được sao?”.
Chân nàng ta mềm nhũn, loạng choạng ngã xuống, cứ lắp bắp “ta, ta” hồi lâu mà không nói được câu gì biện hộ.
Ta bước tới, đưa tay sờ lên hốc mắt của nàng ta, dịu dàng nói: “Gần đây bản thượng thần có chuyện vui, uống mấy vò rượu, tay hơi run, động thủ có lẽ sẽ đau hơn ngươi tự làm, ngươi thông cảm nhé!”.
Tay ta còn chưa hạ xuống, nàng ta đã kêu thét thất thanh. Ta vung tay phóng ra một đạo tiên chướng trùm lên trước điện Sướng Hòa, đảm bảo cho dù đám tiểu tiên đồng, tiểu cung nga có nghe thấy tiếng kêu của nàng ta cũng không vào trong được.
Ánh mắt nàng ta đã rối loạn, hai tay giữ chặt lấy tay ta, nói: “Ngươi không thể, ngươi không thể…”.
Ta buồn cười, vỗ nhẹ lên mặt nàng ta: “Ba trăm năm trước ngươi thích giả vờ yếu đuối, lúc nào ta gặp ngươi, ngươi cũng giả vờ yếu đuối, không thể để bản thượng thần mở mắt, nhìn xem lúc ngươi không yếu đuối trông thế nào? Lúc Dạ Hoa móc đôi mắt của ta nói nợ người ta cuối cùng vẫn phải trả, khi đó đôi mắt của ngươi sao lại không có, hai chúng ta đều hiểu rõ. Đôi mắt của ta sao lại lọt vào hốc mắt ngươi, hai chúng ta cũng đều hiểu rõ. Ngươi nói xem, tại sao ta không thể lấy lại đôi mắt của mình, lẽ nào đôi mắt của ta nằm trong hốc mắt của ngươi ba trăm năm, thì sẽ biến thành của ngươi sao?”.
Dứt lời ta ra tay dứt khoát, nàng ta kêu lên thảm thiết. Ta ghé tai nàng ta thì thầm: “Chuyện ba trăm năm trước, Thiên Quân âm thầm làm, chuyện hôm nay, ta cũng âm thầm làm. Khi xưa ngươi nợ ta hai món nợ, một là đôi mắt, hai là Tru Tiên đài. Món nợ hôm nay coi như ta đã bắt ngươi trả. Món nợ Tru Tiên đài, hoặc là ngươi đường hoàng nhảy xuống một lần, hoặc là ngươi nói với Thiên Quân, dùng tiên lực bé mọn của ngươi đến nhà lao ở bến Nhược Thủy canh chừng chuông Đông Hoàng nhốt Kình Thương, vĩnh viễn không lên trời nữa”.
Toàn thân nàng ta co rúm, có lẽ rất đau đớn. Nỗi đau này ta cũng từng trải qua, nên cũng đoán ra. Nàng ta đau đến mức không thể thở nổi, nhưng vẫn bướng bỉnh nhả ra ba tiếng: “Ta… quyết… không…”.
Không sai, không giả vờ yếu đuối với ta, cố gắng cứng rắn một lần. Ta nâng cao khuôn mặt đẫm máu của nàng ta lên, cười nói: “Ô? Vậy là ngươi muốn bản thượng thần đích thân đi nói với Thiên Quân. Nhưng con người ta xưa nay lúc này nói một đằng, lúc khác lại nói một nẻo. Nếu để ta đến nói với Thiên Quân, không biết lúc đó ta có nói như bây giờ không nữa”.
Cơ thể nàng ta cứng đờ, rồi tiếp tục đau đớn cuộn tròn lại. Ta thầm niệm một câu kinh Phật, thiện ác quả báo, đạo trời luân hồi.
Tất Phương lại đi mất, tứ ca lại đi tìm hắn. Trong rừng đào mười dặm chỉ còn một mình Chiết Nhan.
Khi ta đưa đôi mắt còn đẫm máu trong tay cho Chiết Nhan, lão kinh ngạc tột độ, đem ra soi xét cẩn thận rất lâu dưới ánh mặt trời, nói: “Đôi mắt bị trộm ba trăm năm vẫn có thể tìm lại được, thật là chuyện lạ”, rồi lại nói, “Ngươi đã uống thuốc của ta, giờ lại nhớ ra quá khứ đau thương khi trước, cũng là chuyện lạ”.
Đôi mắt này được lấy ra từ một tiên thể chưa đến bảy bảy bốn mươi chín ngày, nếu không thì chỉ có nước bỏ đi. Chiết Nhan cảm thấy lạ lùng, có lẽ lão tưởng đôi mắt ta mất hẳn, chẳng ngờ lại được đặt trên khuôn mặt của người khác, đến hôm nay mang đôi mắt này về, còn có thể đặt lại vào hốc mắt ta.
Ta gượng cười một cái.
Lão liếc nhìn thần sắc trên mặt ta, hẳn cũng đoán rằng ta không muốn nhắc lại chuyện cũ, nên cũng rất hiểu ý ho hai tiếng, không hỏi nhiều nữa.
Chiết Nhan nói lão cần mấy ngày để loại trừ hết những tạp khí trên đôi mắt này, sau đó mới thay mắt cho ta. Ta vui vẻ nhận lời, rồi nhân thể vòng ra sau núi đào mấy bình rượu lên, cưỡi mây bay về Thanh Khâu.
Cứ thế lại uống say mèm mấy ngày. Ta dặn Mê Cốc giúp ta để ý động tĩnh thứ phi của thái tử trên Cửu Trùng Thiên, mấy ngày này đóng cửa Thanh Khâu, ta không gặp ai cả. Rượu Chiết Nhan cất, quả nhiên ngon hơn rượu do Mê Cốc tích trữ rất nhiều, hôm qua say còn nôn ra dịch mật, đầu đau đến mức muốn cầm kiếm xuyên qua huyệt Thái Dương từ bên trái sang bên phải. Nhưng như thế cũng tốt, hễ nhắm mắt là trời xoay mòng mòng, sẽ không còn thời gian mà đi nhớ đến chuyện khác nữa.
Mê Cốc khuyên ta nên uống chậm lại, tạm thời không say rượu trong một, hai ngày, mà nên giữ gìn sức khỏe.
Nhưng lần này hoàn toàn khác với nỗi đau lòng trong quá khứ, hễ không say là ta không thể chợp mắt.
Khi ta say túy lúy thì chẳng biết trời trăng gì, nhưng nếu không say mèm, thì vẫn láng máng nhớ Mê Cốc thường nói chuyện với ta. Lão nói rất nhiều, đại khái là những chuyện không quan trọng. Có hai chuyện mà ta vẫn nhớ rất rõ, một là thứ phi thái tử trên Cửu Trùng Thiên mà ta rất để ý không hiểu sao cuối cùng cũng ngộ ra, dâng thư lên Thiên Quân, cam tâm tình nguyện xin rút khỏi Tiên tộc, đến bến Nhược Thủy vừa tu hành vừa giữ chuông Đông Hoàng. Thiên Quân cảm động trước ý tốt của nàng ta, bèn phê chuẩn; một chuyện nữa là thái tử Dạ Hoa lịch kiếp dưới trần gian, vốn đã uống nước Vong Xuyên không còn nhớ chuyện cũ, nhưng lại tin quỷ thần, dốc cả đời đi tìm tiên cảnh Thanh Khâu, tuy làm quan đến chức tể tướng nhưng suốt đời không lấy vợ, năm hai mươi bảy tuổi u uất bệnh mà chết, trăn trối người nhà đem thi thể hỏa táng, hợp táng với chuỗi ngọc thường đeo bên mình.
Ta không biết lúc Mê Cốc nói chuyện đó ta có rơi lệ hay không. Nếu như ta thực sự rơi lệ, thì vì sao lại rơi lệ chứ? Ta uống rất nhiều, đầu óc trở nên chậm chạp, nghĩ mãi mà không ra.
Qua mấy ngày, Mê Cốc hớt hơ hớt hải chạy vào động Hồ Ly, báo tin cho ta. Nghe nói thái tử điện hạ Dạ Hoa Quân trên Cửu Trùng Thiên, đã đợi bên ngoài cửa cốc Thanh Khâu bảy ngày, chàng muốn gặp ta.
Mê Cốc nói lão làm theo lệnh của cô cô, không dám cho bất cứ ai vào cốc, cho dù là Dạ Hoa cũng không dám cho vào. Nhưng bảy ngày trôi qua, Dạ Hoa vẫn chưa có ý muốn rời đi, lão không thể tự ý, nên đành đi vào thông báo với ta, xem ý ta ra sao.
Đầu óc ta cuối cùng cũng tỉnh táo lại.
A, Dạ Hoa ở trần gian hai mươi bảy tuổi đã tạ thế, hai nắm đất vàng chôn cất, đương nhiên sẽ trở chính thân.
Không hiểu tại sao, trong lòng đột nhiên nhói đau. Ta ôm tim, trượt theo chân bàn quỵ xuống, Mê Cốc định đỡ dậy, ta cản lão lại.
Dựa vào chân bàn, ta ngước nhìn xà nhà. Ta muốn gặp Dạ Hoa.
Ta muốn hỏi chàng ba trăm năm trước, vì Tố Cẩm phản bội chàng lấy Thiên Quân, nên chàng đau lòng, mới cắn răng lấy một người phàm trần không?
Chàng có thật lòng yêu ta không? Chàng để ta vò võ ba năm trong Thiên Cung lạnh lẽo, là vì muốn tốt cho ta sao? Khi chàng yêu ta, có phải vẫn yêu Tố Cẩm không? Nếu như yêu, vậy thì yêu sâu đậm bao nhiêu? Nếu như không phải ta bị lừa nhảy xuống Tru Tiên đài, có phải chàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy Tố Cẩm không? Bây giờ chàng tỏ ra tình sâu nghĩa nặng với ta, có phải vì hối hận chuyện ba trăm năm trước không?
Càng nghĩ lại càng không muốn tiếp tục nghĩ nữa. Ta đưa tay che mắt, nước mắt trào qua kẽ tay. Nếu như chàng nói là “đúng” thì sao? Nếu như chàng nói toàn bộ là “đúng” thì sao?
Ta không biết mình có nên tự tay giết chàng không.
Mê Cốc đứng bên lo lắng nói: “Cô cô, gặp hay không gặp đây?”.
Ta thở dài, nói: “Không gặp. Nói với chàng rằng, chàng không cần đến Thanh Khâu nữa. Ngày mai ta sẽ tìm Thiên Quân từ hôn”.
Lúc lâu sau, Mê Cốc quay về, im lặng một lát mới nói: “Thái tử điện hạ, thần sắc của người rất xấu. Người đứng ở cửa cốc đã bảy ngày, một bước cũng không rời”.
Ta liếc lão một cái, tợp một ngụm rượu, không đáp lại.
Lão ngần ngừ rồi thưa: “Thái tử điện hạ nhờ ta chuyển lời tới cô cô. Người muốn hỏi cô cô, ban đầu cô cô nói, nếu khi ở trần gian người có vướng phải hoa đào, thì cô cô sẽ trói người mang về nhốt ở Thanh Khâu. Khi ở trần gian, ngoài mang một thị nữ có dáng vẻ giống cô cô lúc là người phàm, để hầu hạ mẫu thân bị bệnh ra, thì nửa đóa hoa đào ngài cũng chưa vướng bận, lúc đầu cô cô đã hứa với ngài, sao giờ lại không tính?”.
Ta hất bình rượu, quát to: “Không tính, cái gì cũng không tính, cút, ngươi bảo hắn cút đi, ta không muốn nhìn mặt hắn”.
Lòng đau như cắt, ta biết rằng không phải mình không muốn gặp chàng, chỉ là trong lòng có nút thắt, không biết phải gặp chàng ra sao.
Ngày thứ hai, ta vẫn chưa lên Cửu Trùng Thiên từ hôn, chỉ cảm thấy tạm gác lại đã, đợi khi nào tâm trạng thoải mái thì sẽ đi. Nhưng trong một thời gian ngắn, sợ rằng tâm trạng khó mà thoải mái được.
Ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm, Mê Cốc nói Dạ Hoa vẫn đứng ở cửa cốc, không rời nửa bước. Ta nói với lão, nếu còn nhắc đến cái tên Dạ Hoa, thì sẽ đánh cho lão hiện nguyên hình là cây Mê Cốc một vạn tám nghìn năm trước, cuối cùng lão cũng ngậm miệng lại.
Ta không sao uống rượu được nữa. Vì từ khi biết Dạ Hoa đang đứng bên ngoài Thanh Khâu, mỗi lần uống, càng uống ta lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau lòng, càng đau lòng lại càng khó ngủ.
Mưa tí tách cả đêm, vì tinh thần ta rệu rã, nên trời vừa hửng sáng đã tỉnh dậy, cảm thấy mấy thành tiên lực dùng để phong ấn Kình Thương trên chuông Đông Hoàng năm trăm năm trước bị chấn động mạnh.
Tim ta nhói đau. Quả là mùa thu đa sự, gần đây hết việc này đến việc kia kéo đến, đúng không uổng danh hiệu “phiền não nhất là tiết sang thu”. Có lẽ, Quỷ Quân đời trước Kình Thương công đức đã viên mãn, sắp phá chuông Đông Hoàng mà ra rồi.
Ta vội vàng rửa mặt, sai Mê Cốc gấp rút đi rừng đào mười dặm chuyển lời đến Chiết Nhan, nhờ lão đến giúp ta một tay.
Năm trăm năm trước, khi lần đầu tiên Kình Thường phá vỡ chuông Đông Hoàng, ta cố gắng lắm mới có thể chặn hắn lại và nhốt hắn trở lại trong chuông. Nhưng đánh một trận cũng khiến chuông Đông Hoàng bị sứt mẻ, ta lại không thể chỉ dùng có năm thành tu vi mà vá lành nó được. Với ngần này tu vi còn lại trên người, vừa nhẩm tính thì liều tấn công cũng hỏng, mà lý trí phòng thủ cũng hỏng, nếu còn vài phần sáng suốt, cũng đủ biết là không thể đấu lại với hắn.
Nhưng Kình Thương không phải là kẻ lương thiện, bị nhốt ngần ấy năm, không chừng sau khi phá chuông Đông Hoàng chui ra, bạo tính lại bộc phát, lại đứng đầu tập họp thần thú của tám cõi tiêu diệt chư thiên, đốt cháy bốn bể tám cõi và ba nghìn thế giới thành tro bụi.
Nghĩ đến đây, những chuyện phiền não trăng gió canh cánh cả trong giấc mộng vừa nãy đã bay biến đâu cả. Ta lấy quạt Côn Luân, nhún mình vút lên một đám mây, tức tốc nhằm thẳng hướng Nhược Thủy mà đi, định bụng trước khi Chiết Nhan tới, phải cố gắng chống chọi, tuyệt đối không được để Kình Thương phá chuông Đông Hoàng thoát ra.
Ta biết rằng mình sẽ gặp Dạ Hoa ở cửa cốc. Chàng vẫn đứng chờ ở cửa cốc, nếu như ta ra khỏi Thanh Khâu, tất sẽ phải gặp chàng. Ta nhắm mát, giả vờ vô tình đi lướt qua chàng, thì một tay chàng níu tay áo ta lại. Khuôn mặt chàng trắng bệch khiến người ta phát hoảng, dáng vẻ tiều tụy, mệt mỏi thấy rõ.
Chuyện gấp gáp như thế này sao có thể ở đây lằng nhằng với chàng, ta quay đầu dùng quạt chém một nhát cắt đứt một nửa ống tay áo bị chàng giữ, roạt một tiếng, chàng sững người, nghẹn ngào thốt hai tiếng: “Thiển… Thiển”.
Ta không đáp, quay người tiếp tục bay đến Nhược Thủy. Ta liếc nhìn, chàng cũng cưỡi mây bám theo sau.
Nhiều năm về sau, ta luôn nghĩ, khi đó, khi đó cho dù ta chỉ nói với chàng một câu thôi, cho dù chỉ một câu thôi? Nhưng ta lại lạnh lùng nhìn chàng. Một câu cũng không nói. Nhìn xuống Nhược Thủy mờ mịt, sóng bạc dâng cao ngang trời, phía trên mây đen vần vũ, chuông Đông Hoàng như một tòa tháp cao đứng sừng sững bên bến Nhược Thủy, trong nháy mắt một tiếng nổ ầm rung chuyển một phương. Tố Cẩm đáng nhẽ phải trấn thủ chuông Đông Hoàng mất tăm mất tích, có lẽ nhìn thấy cảnh tượng này đã sợ hãi, tìm chỗ trốn rồi.
Trong tầng mây lơ lửng trên không trung đã nhìn thấy ló ra nửa cái đầu của thổ thần Nhược Thủy. Năm trăm năm trước ta đã có duyên gặp mặt với thổ địa này, y ló đầu từ trong mây ra, lo lắng nhìn chuông Đông Hoàng đang rùng lắc, thấy ta và Dạ Hoa, thì cuống quýt vái lạy, lo sợ nói: “Cô cô tiên giá, Nhược Thủy Thần Quân đã lên Thiên Đình cầu cứu rồi, lệnh cho tiểu tiên đứng đây chờ. Cơn tức giận của Kình Thương lần này cực kỳ khác lạ, phủ Thần Quân dưới sông Nhược Thủy cũng bị rung chuyển, miếu thổ địa của tiểu tiên cũng…”, y nói líu ra líu ríu, bỗng chuông Đông Hoàng dưới đất phát ra một luồng sáng cực lớn, trong ánh sáng trắng lờ mờ hiện ra một bóng người.
Ta thầm than hỏng rồi, đanh định lao xuống thì thân hình bị giữ chặt lại.
Dạ Hoa ở phía sau đã dùng dây trói, nhân lúc ta không để ý liền dùng định thân chú, giữa lúc sấm rền chớp giật còn dùng phép thuật trói hai chân hai tay ta. Ta không nhúc nhích được, trơ mắt nhìn Kình Thương sắp thoát khỏi chuông Đông Hoàng, vội hét lên: “Chàng thả thiếp ra”.
Chàng không đáp, mà đẩy ta sang cho thổ địa Nhược Thủy, khẽ nói: “Trông chừng nàng ấy cho cẩn thận, cho dù xảy ra chuyện gì cũng không được để nàng ấy ngã từ trên mây xuống”. Dứt lời lật bàn tay trái một cái, một thanh bảo kiếm sáng lóa lạnh ngắt hiện ra.
Ta trơ mắt nhìn chàng tay cầm bảo kiếm, đón gió xuống mây, lao thẳng vào luồn sáng bạc phát ra từ chuông Đông Hoàng, chỉ cảm thấy trời như sụp xuống, mấy lần há miệng nhưng nói không nên lời, cơn gió lạnh buốt quét qua khiến hai mắt ta đau buốt. Lúc Dạ Hoa lao vào luồng sáng bạc đó, ta nghe thấy mình gào lên một cách tuyệt vọng: “Thổ địa, ngươi thả ta ra, ngươi hãy nghĩ cách thả ta ra, Dạ Hoa chàng đâm đầu vào chỗ chết, trên người chàng đâu còn tu vi, chàng đâm đầu vào chỗ chết!”.
Thổ địa lầm rầm vâng dạ gì đó, có lẽ nói pháp thuật này quá huyền diệu, y không giải được, định thân chú này cũng rất kỳ quái, y cũng không giải được.
Cầu người không được đành phải cầu mình, ta ngưng khí định thả nguyên thần ra khỏi cơ thể, nhưng chẳng ngờ pháp thuật không chỉ khóa thân xác mà còn khóa luôn nguyên thần, ta giãy giụa cũng vô dụng mà thôi. Trong làn nước mắt mờ mịt, luồng ánh sáng bạc quanh chuông Đông Hoàng cũng dần dần tản đi, sấm rền chớp giật khi Dạ Hoa và Kình Thương đấu phép thuật dội thẳng lên trời. Thổ địa tạo một tiên chướng nho nhỏ bên cạnh chúng ta, để phòng ta bị chướng khí làm bị thương.
Pháp khí mà Dạ Hoa dùng để trói ta rất ghê gớm, ta mồ hôi đầm đìa mới giải được định thân chú, nhưng không làm sao thoát ra khỏi pháp khí này.
Giữa trời đất tối sầm, thổ địa nói với ta: “Cô cô, nơi này vẫn hơi nguy hiểm, tiên chướng của tiểu tiên không biết cầm cự được bao lâu, hay là chuyển chỗ đi”.
Ta nghe thấy giọng mình trở nên xa xăm: “Ngươi đi đi, ta ở đây cùng Dạ Hoa”.
Lúc này tuy ta bị trói, chỉ là đồ bỏ đi, chẳng giúp được Dạ Hoa, cho dù như thế, ta cũng muốn bên chàng, nhìn thấy chàng.
Ta chưa bao giờ nhìn thấy Dạ Hoa cầm kiếm, không ngờ chàng cầm kiếm lại có dáng vẻ này.
Nghe nói kiếm thuật của Dạ Hoa rất khá, cây kiếm trong tay chàng tên là Thanh Minh, đám tiểu tiên hâm mộ chàng tán tụng là “Thanh Minh vừa rút, chín châu hãi hùng”. Mới đầu nghe thấy, cảm thấy đó chỉ là lời khen ngợi sáo rỗng của đám tiểu bối, hôm nay chứng kiến hoa kiếm bay lượn do kiếm Thanh Minh tỏa ra, chín châu hãi hùng thực ra cũng hơi khoa trương, nhưng bóng kiếm quả khiến người ta hoa mắt, từng nhát từng nhát đều phát ra sấm sét, khiến mắt ta cay xè.
Hai người họ đánh rất kịch liệt, ta đứng quá cao, không thể nhìn rõ là ai đang giành phần thắng. Nhưng ta biết Dạ Hoa sẽ không cầm cự được lâu, ta chỉ mong chàng cầm cự được đến lúc Chiết Nhan tới, hay là đến lúc đám thiên binh thiên tướng vô dụng do ông nội chàng cử tới cũng được.
Bến Nhược Thủy cát bụi mịt mù, đất đá tung tóe. Bỗng nghe thấy Kình Thương cười dài ba tiếng, sau đó lại ho một trận, chậm rãi nói: “Hôm nay bại dưới tay ngươi, ta không phục. Nếu không phải vết thương năm trăm năm trước chưa khỏi, hôm nay ra khỏi chuông đã rất mất sức, thì tuyệt đối ta không thể thua một thằng nhãi như ngươi”.
Đám khói bụi vần vũ đã tan đi, Dạ Hoa chống kiếm xuống đất, một đầu gối nửa quỳ xuống mặt đất, nói: “Rốt cuộc ngươi vẫn bại”.
Trái tim treo lơ lửng của ta đã lắng xuống, ta run run nói với thổ địa: “Phía dưới ổn rồi, ngươi mau đưa ta xuống dưới…”.
Lúc thổ địa cuống quýt giải tiên chướng, chuông Đông Hoàng bỗng phát ra một luồng sáng màu đỏ như máu. Ta sửng sốt, Kình Thương chưa bại sao? Hắn đã thua rồi, vậy cớ sao chuông Đông Hoàng còn có thể mở ra?
Dạ Hoa cũng ngẩng phắt đầu, trầm giọng nói: “Ngươi đã làm gì trên chuông?”.
Kình Thương nằm trên mặt đất, yếu ớt đáp: “Ngươi muốn biết ư, tại sao ta chẳng chạm tới chuông Đông Hoàng, mà nó vẫn có thể mở ra ư, ha ha, chẳng qua ta dùng thời gian bảy vạn năm, phí bao tâm sức, đã hợp nhất tính mạng của ta với nó. Nếu ta chết đi, chuông Đông Hoàng sẽ tự mở. Xem ra ta cũng sắp chết rồi, không biết chôn cùng ta, là tên nhãi ranh nhà ngươi, hay là chúng tiên của tám cõi…”.
Hắn còn chưa dứt lời, mắt ta đã nhìn thấy Dạ Hoa lao vào đám lửa đỏ đó.
Là tiếng kêu xé gan xé phổi của ai: “Không!”.
Không, không thể? Hay là không cần, không được? Chuông Đông Hoàng mở ra thì sao, chúng thần của tám cõi bị tận diệt thì sao, chung quy hai chúng ta vẫn ở một chỗ, thiêu thành tro thì cũng chung một nắm tro, sao chàng, sao chàng có thể bỏ lại ta một mình chứ?
Khi Dạ Hoa lao vào đám lửa hừng hực như đóa sen đỏ của chuông Đông Hoàng, pháp khí khóa chân tay ta bỗng tan biến. Đúng rồi, nếu chủ nhân của pháp khí tu vi tiêu tan, thì pháp khí này sẽ tự nhiên không trói được người ta nữa.
Đám lửa như đóa sen đỏ đó đã cháy đỏ cả một nửa trời, bến Nhược Thủy quỷ khí âm u, ta dốc tu vi toàn thân trút vào quạt Côn Luân bắn về phía chuông Đông Hoàng. Chiếc chuông lắc một cái, trong ánh sáng màu đỏ đó, ta không tìm thấy bóng dáng Dạ Hoa.
Dường như những tiếng của ác hồn quỷ phách truyền đến, âm thanh đó dần dần tụ lại, giống như thiên binh vạn mã rầm rập lao tới, ầm – tiếng kêu bi thảm của chuông Đông Hoàng.
Ánh sáng đỏ lóe lên, rồi tắt ngấm. Một bóng người màu đen từ đỉnh chuông Đông Hoàng ngã xuống.
Ta lật đật chạy qua đón lấy chàng, bước được hai bước lại ngã nháo nhào xuống đất. Khuôn mặt chàng trắng bệch, khóe miệng còn rỉ máu, dựa vào vai ta, ánh mắt tối sầm. Chiếc áo bào màu đen đã nhuộm máu tươi, nhưng vì là màu đen, nên không nhận ra chàng toàn thân đẫm máu.
Chiết Nhan nói: “Ta luôn cảm thấy Dạ Hoa lúc nào cũng mặc đồ đen rất kỳ lạ, lần đó uống rượu với hắn, ta mới hỏi, ta cứ tưởng hắn thích nhất màu này, nhưng hắn nâng chén rượu hồi lâu, lại chỉ nói đùa với ta rằng, màu này không đẹp, nhưng rất thực dụng, ví dụ một hôm nào đó ngươi bị chém một nhát, máu thấm ra áo, cũng không biết là vệt máu, chỉ cho rằng ngươi bị va vào thau nước, bị nước hắt lên người, chứ không nhận ra ngươi bị thương, người lo lắng cho ngươi sẽ không đau lòng, kẻ thù của ngươi cũng không thể vì chém được ngươi mà thấy sung sướng”. Lúc Chiết Nhan kể cho ta, ta còn vui mừng vì cuối cùng Dạ Hoa đã biết bông đùa. Nhưng đến hôm nay, ta mới biết, những gì chàng nói là những điều chàng đã trải qua.
Ba trăm năm trước, khi ta hóa thành Tố Tố ngây ngô vô tri, tự cho rằng mình yêu chàng như máu thịt; đến khi mất đi hồi ức, chỉ là Bạch Thiển của Thanh Khâu, khi chàng nói yêu ta, dần dần khiến ta rung động trước chàng, cũng ngỡ rằng đó là yêu rất chân thành. Ta không thể tha thứ cho chàng năm đó đã không rõ trắng đen mà móc đôi mắt của ta, ép ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài; không thể tha thứ bây giờ chàng luôn nói yêu ta, nhưng chẳng qua chỉ là món nợ năm xưa chàng nợ ta, nên cảm thấy hổ thẹn; không thể tha thứ cho chàng từ đầu chí cuối, chưa bao giờ hiểu ta. Nói cho cùng, Bạch Thiển ta sống ngần này tuổi, trong tình yêu lại ích kỷ đến mức vô lý, chấp nhặt dù chỉ là điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng kiếp trước kiếp này, ta liên tiếp hai lần gặp đúng chàng, hai lần đều yêu chàng sâu đậm, bây giờ nhớ lại, ta cũng chưa từng hiểu chàng.
Ví dụ như tại sao chàng luôn vận đồ đen. Hóa ra không phải vì thích màu đen, mà vì không muốn người lo lắng cho chàng phải lo lắng, không muốn lộ vẻ yếu đuối trước mặt kẻ thù. Ta đã quên rằng, chàng luôn là người cắn răng chịu đựng và nuốt máu vào trong. Bảy vạn năm trước, khi Mặc Uyên dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, máu trong miệng nôn ra nhiều gấp trăm lần so với vệt máu rỉ ra từ khóe miệng chàng. Tu vi của chàng thua xa Mặc Uyên khi ấy, vậy số máu đáng nhẽ nhiều gấp trăm lần ấy đã đi đâu?
Ta cúi đầu cắn mạnh vào bờ môi chàng, hoàn toàn không chú ý đến cơ thể chàng khẽ run lên, chỉ cố dùng đầu lưỡi tách răng chàng ra, cố gắng tiến vào trong khoang miệng chàng, có thể cảm thấy thứ gì đó vừa nóng vừa tanh đang men theo khe hở do hai miệng áp vào nhau của ta và chàng ào ạt chảy ra, đôi mắt chàng càng lúc càng tối đen.
Ta cùng Dạ Hoa, trong kiếp này ta là Bạch Thiển, một tháng yêu nhau trên Cửu Trùng Thiên, lúc thân mật nhất chẳng qua cũng chỉ vài đêm.
Dạ Hoa đẩy ta ra, ho rũ rượi, ho ra từng ngụm từng ngụm máu lớn, máu đập vào mắt ta khiến mắt ta hoa lên. Cánh tay đẩy ta đã dùng hết sức tàn, chàng ngã dúi dụi trên đất, lồng ngực không ngừng phập phồng, nhưng không nhúc nhích nổi.
Ta bò qua ôm lấy chàng: “Chàng lại định nuốt máu vào ruột ư? Bây giờ chàng bao nhiêu tuổi, chàng yếu đuối thế nào, thiếp cũng không thất vọng gì cả”.
Khó khăn lắm chàng mới thôi ho, muốn giơ tay lên, nhưng không giơ nổi, rõ ràng đến nói cũng khó khăn, lại còn tỏ vẻ không sao, bình thản nói: “Ta không sao, vết thương này không sao đâu. Nàng, nàng đừng khóc”.
Ta ôm chàng bằng cả hai tay, không thể đưa tay sờ lên mặt chàng, chỉ có thể nhìn vào mắt chàng: “Dùng nguyên thần để tế chuông Đông Hoàng, ngoài Mặc Uyên ra, thiếp chưa từng thấy ai thoát khỏi số mệnh phải tan thành tro bụi, cho dù là Mặc Uyên, cũng phải ngủ bảy vạn năm. Dạ Hoa, chàng không lừa được thiếp đâu, chàng sắp chết, đúng không?”.
Cơ thể chàng cứng lại, nhắm nghiền mắt, nói: “Ta nghe nói Mặc Uyên tỉnh lại rồi, nàng hãy ở bên Mặc Uyên, người sẽ chăm sóc nàng thật tốt, còn tốt hơn ta nhiều lần, ta rất an tâm. Nàng hãy quên ta đi”.
Ta lặng người nhìn chàng.
Khoảnh khắc ấy dài như triệu năm, chàng trợn mắt, thở dốc nói: “Ta chết cũng không thể nói những lời này, cả đời ta chỉ yêu mình nàng, Thiển Thiển, nàng mãi mãi không thể quên ta, nếu nàng dám quên ta, nếu nàng dám…”. Giọng nói dần dần trầm xuống, rồi lại khẽ vang lên, “Ta biết làm thế nào?”.
Ta ghé sát tai chàng nói: “Chàng không được chết, chàng cố cầm cự một lát, thiếp đưa chàng đến tìm Mặc Uyên, người tất có cách”. Cơ thể chàng từ từ chùng xuống.
Ta ghé sát tai chàng gào lên: “Nếu chàng dám chết, thiếp lập tức đến tìm Chiết Nhan xin thuốc, thiếp sẽ quên hẳn chàng, một chút cũng không nhớ. Thiếp sẽ cùng Mặc Uyên, Chiết Nhan còn cả tứ ca sống vui vẻ, mãi mãi không thèm nhớ đến chàng”.
Cơ thể chàng run lên một cái, mỉm cười, nói: “Thế cũng tốt”.
Kiếp này, câu nói cuối cùng chàng nói với ta là, “Thế cũng tốt”.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook