Ngày 7 tháng 4, ngày Quất Nặc bị hành hình đã đến.
Phượng Cửu nhớ mang máng, cô cô Bạch Thiển của nàng từng đọc cho nàng một câu thơ của người phàm trần, ý muốn bồi dưỡng khí phách cho nàng. Câu thơ này thể hiện khí phách rất lớn: “Mạc sắc thương mang khán kính tùng, loạn vân phi độ nhưng tòng dung”*. *Ý nghĩa: cây tùng dù đứng trong không gian bao la vẫn thể hiện dáng vẻ mạnh mẽ, mây trên trời dù bay loạn vẫn thấy rất thong dong.
Phượng Cửu cảm thấy thật đáng tiếc vì lần này, việc hành hình Quất Nặc diễn ra trên Linh Sơ đài không thể để cho cô cô của nàng thấy được khí phách ung dung hiên ngang của mình. Mặc dù khí phách ấy nàng có được cũng là bởi bị ép buộc. Người ta đồn rằng thánh đao kia rất kén chọn, từ trước tới nay ngoại trừ máu tươi ra thì cái gì cũng không chịu uống.
Thế nên cái kế sách lấy sẵn một túi đựng máu trước đó của nàng không thể không từ bỏ. Chuyện đã đến nước này rồi, nàng đành phải kiên cường chống đỡ thôi. Nàng xác định bằng bất cứ giá nào cũng phải dùng sức mạnh đấu với Mãnh Hổ, dùng mưu trí đấu với Thượng quân.
Tuy là chỉ cần nghĩ đến mình sẽ dùng tay nắm lấy lưỡi đao, mồ hôi lạnh trên trán nàng vẫn túa ra như đi dưới mưa, nhưng nàng nhất định không thể giữa đường bỏ dở mọi việc được, trong cảnh gió mưa vũ bão như vậy, có thể cứu được một đôi uyên ương trên đài cũng coi như để được danh tiếng về sau.
Điều duy nhất mà nàng cảm thấy đáng tiếc là lúc ở Thủy Nguyệt đầm cùng Tức Trạch đã quên không hỏi qua ý kiến của hắn. May mắn sao, nàng phỏng đoán là mấy ngày gần đây Thượng quân cũng sẽ không tới tìm hắn. Nhớ lại ngày hôm ấy khi nàng cùng Tức Trạch chia tay ở Thủy Nguyệt đầm, Tức Trạch nói hắn có chút việc phải đi xa, khoảng mười ngày sau sẽ trở về Kỳ Nam Thần cung, nhưng nếu có việc gì xảy ra thì cũng có thể đến Thần cung tìm hắn.
Nàng cân nhắc một lát, cảm thấy trước tiên nên lưu lại một phong thư, đợi khi Tức Trạch quay lại Thần cung sẽ cho Trà Trà mang tới, giúp việc nói dối lần này trở nên trọn vẹn, chuyện này mới chính thức kết thúc được. Vả lại, ngoài Tức Trạch ra, còn phải viết thư cho Trầm Diệp.
Mà không phải một phong thư, là rất nhiều rất nhiều thư. Nàng nhìn cánh tay phải của mình bị bao thành cái bao thịt, thập phần đau đầu thở dài một cái. Phượng Cửu có thể hiểu được, việc A Lan Nhược liều chết cứu giúp Trầm Diệp trên Linh Sơ đài tuyệt nhiên không chỉ là vì muốn chọc giận phụ thân của nàng.
Theo lời Mạch Thiếu nói, tính tình của A Lan Nhược rất hay thay đổi, lúc thì trầm tĩnh không nói lời nào, lại có lúc phấn khởi ồn ào, cũng có khi nghịch ngợm hiếu động, nhưng tìm hiểu sâu một chút sẽ phát hiện ra được nàng là một người yêu ghét hết sức rõ ràng. Thí dụ như Thượng quân, quân hậu từ thuở nhỏ không thích nàng, nàng cũng không thích bọn họ.
Mạch Thiếu thuở nhỏ đối tốt với nàng, nàng liền ghi nhớ ân tình này. Nhưng vì sao Trầm Diệp xưa nay không thích nàng, nàng lại giúp cho hắn trên Linh Sơ đài? Việc này thật khó giải thích. Có thể nói là trên đời này mỗi loại tình yêu đều có nguyên nhân của nó, nhưng riêng tình cảm nam nữ lại phát sinh không theo bất kỳ đạo lý nào, lúc nó phát tác thì mạnh mẽ tới mức có thể lấy đi cả tính mạng con người.
Trước kia, sau khi Quất Nặc được cứu trên Linh Sơ đài, mọi chuyện tiếp theo diễn ra như thế nào? Theo như Tô Mạch Diệp nói, ngày hai mươi tám tháng tư, Trầm Diệp một mình đến phủ của A Lan Nhược, bị lão quản sự dàn xếp ở Thiên viện. A Lan Nhược buổi sáng tập viết, buổi chiều nghe đàn, đêm lại cùng Mạch Thiếu đánh mấy ván cờ, không hề tới gặp hắn.
Ngày tiếp đó, nàng tay ôm vài quyển sách, ở mái đình nhỏ bên cạnh hồ nước tiêu phí mất một ngày, vẫn không tới gặp hắn. Ngày sau nữa trời có mưa, thủy các không phải là nơi thích hợp để tới, nàng liền ở trong phòng tự nghiền ngẫm các thế cờ, cũng không tới xem hắn. Buổi tối lão quản sự trình báo, nói ngày đầu hắn đến, lão đã truyền đạt lời công chúa dặn dò, nói Trầm Diệp là Thần quan đại nhân, lần này đến phủ chính là khách quý, nếu không thích ở Thiên viện thì trong phủ ngoại trừ khuê phòng của công chúa, bất cứ chỗ nào cũng có thể đi ngắm cảnh.
Nhưng ba ngày này, Thần quan đại nhân lại chưa từng bước ra khỏi Thiên viện, thường xuyên nhíu mày, có thể nhìn thấy được tâm trạng của hắn thực sự không tốt. Vả lại, dù đã theo lời công chúa phân phó, trước đi Thần cung hỏi thăm khẩu vị của Thần quan đại nhân, nhưng sau khi làm thức ăn chiểu theo khẩu vị ấy, Thần quan cũng rất ít động đến.
Tình thế như vậy khiến hắn không biết nên xử trí thế nào, đành bẩm báo lại. Lão quản sự hai tay bắt chéo, dựng thẳng lỗ tai chờ đợi sự phân phó của nàng. A Lan Nhược trầm mặc một lát, tiện tay cầm tờ giấy trắng, lấy bút mực viết một phong thư. Đây là phong thư đầu tiên nàng viết cho Trầm Diệp.
A Lan Nhược cả đời tổng cộng viết cho Trầm Diệp hai mươi phong thư. Trầm Diệp trước sau dứt khoát, mỗi lần nàng gửi thư đều viết một bức đáp lại. Sau khi nàng chết, những bức thư đó được đưa tới cho Tô Mạch Diệp. Nhưng hai mươi phong thư bị hắn một phen đốt sạch trước linh cữu của A Lan Nhược.
Nửa đời tình nghĩa, chỉ như một làn khói nhẹ. Nhưng Mạch Thiếu cũng đã thuộc lòng không ít những câu trong thư mà A Lan Nhược đã viết, thí dụ như đoạn đầu trong bức thư đầu tiên: “Vừa nhận được tin ở Mạnh Xuân viện có khách mới chuyển tới, thiếp xin có lễ. Năm trước đã từng ở tại viện này một thời gian, sau khi rời đi lo lắng viện bị bỏ hoang không người đặt chân tới bởi viện nhỏ mà cảnh trí cũng không được đặc sắc, nay nghe tin Thần quan tới, trong lòng cảm thấy an ủi hơn rất nhiều”.
Trong bức thư đầu tiên, A Lan Nhược giả vờ mình chính là một nữ tiên sinh từng trú tại phủ công chúa, năm trước rời phủ vào Vương tộc học, khi nhàn rỗi thì thích pha trà thưởng rượu, khi còn ở Mạnh Xuân viện đã chôn rất nhiều rượu ngon ở đó. Hiện giờ nàng đã rời phủ nên không còn phúc thưởng thức rượu nữa, liền đem vò rượu tặng cho hắn, hy vọng hắn có thể nhờ rượu này mà tâm tình được an ủi phần nào.
Thư đến đây là hết, đều là những câu hết sức nhẹ nhàng, đơn giản, không có nói thêm gì nữa. Cuối thư, nàng lưu lại hai chữ Văn Điềm. Kỳ thực thì Văn Điềm đúng là một tài nữ trong tông học, năm xưa nghèo khó, lấy hai cuốn thi thư nổi danh hy vọng được làm môn hạ của A Lan Nhược, được vào tông học là vì nàng nói với Tức Trạch nhờ hắn tiến cử.
Nhưng Văn Điềm chưa từng ở Mạnh Xuân viện một lần nào. Tên viện là Mạnh Xuân bởi vì đầu mùa xuân là khi cảnh trí trong viện đẹp nhất. Đây cũng là nơi mà mỗi mùa xuân, A Lan Nhược đều tới ở một thời gian, pha trà rồi lại ủ vài hũ rượu mới. Thư viết xong, lão quản sự kính cẩn đón thư, A Lan Nhược lại dặn dò: “Nếu như Trầm Diệp có hỏi thư này từ đâu tới thì ngươi hãy nói là có một vị nữ tiên sinh trong tông học đưa cho ngươi, đừng nhắc tới ta”.
Lão quản sự cúi đầu vâng mệnh, trong lòng có chút nghi hoặc nhưng trên mặt không biểu hiện gì. A Lan Nhược từ từ rót một chén trà, lại nói tiếp: “Nếu như hắn biết đây là thư của ta, nhất định là nửa chữ cũng không đọc. Bị giam ở chỗ này, đúng là phiền lòng, có người trò chuyện cùng hắn cũng coi như an ủi hắn một chút.
Người có thể nói chuyện cùng với hắn không nhiều, có lẽ chỉ có mấy vị nữ tiên sinh trong tông học mới có thể khiến hắn kính trọng một chút”. Sau khi bức thư được gửi đi, tình hình quả nhiên có chút khả quan hơn. Ba ngày sau đó, lão quản sự bẩm báo lại, trong hai ngày qua, Thần quan đại nhân có ăn được nhiều hơn mấy ngày trước.
Hôm qua sau khi dùng xong bữa tối, Thần quan đại nhân còn tới Ba Tâm đình nghỉ chân, đám đầy tớ không dám đến quá gần, nhưng hắn cũng không lưu lại đó quá lâu, khi trở lại viết một phong thư hồi âm cho Văn Điềm. A Lan Nhược mở thư, thấy trên tờ giấy trắng hiện lên những nét chữ cứng cáp của Trầm Diệp, nhìn rất đẹp mắt, nội dung lại đơn giản, chủ yếu thể hiện lòng biết ơn.
Như bình thường thì những bức thư đơn giản như vậy chủ yếu là để đáp lại cho có lễ. Nhưng theo tính tình của Trầm Diệp, nếu như chỉ muốn đáp lại cho có lễ, hắn sẽ không đáp lại, đó mới là phong cách làm việc của hắn. Khóe môi A Lan Nhược mấp máy, trên khuôn mặt lộ ra một nụ cười.
Lão quản sự thấy vậy thì biết điều, vội vàng lấy bút mực, thúc giục chủ tử viết thư hồi âm. Ở bức thư thứ hai, nàng cố ý nhắc tới thư phòng ở Mạnh Xuân viện, chủ ý là muốn giúp hắn tiêu chút thời gian. Sách trong gian thư phòng kia của nàng so với gian hiện tại nàng đang sử dụng đích thực phong phú hơn.
Sách ở đây luôn luôn do nàng tự tay xử lý, buổi tối trước khi Trầm Diệp tới đã bổ sung thêm ít sách mới. Đó là mấy cuốn sách mà nàng yêu thích nhất, trong đó có du ký* và mấy văn tự miêu tả phong cảnh bao la hùng vĩ ở phàm giới. Có một số chỗ trong sách là do nàng không đồng tình với tác giả nên phê bình chú giải thêm vào.
Nàng đặt những cuốn đó ở phía dưới cùng của giá sách, nơi mà bình thường không ai chú ý tới. *Du ký: sách ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe khi đi du lịch Trong thư nàng cũng không đề cập đến những cuốn sách này, chỉ giới thiệu cho hắn mấy bộ sách cổ quý giá.
Tuy nhiên, hai tuần sau Trầm Diệp hồi âm lại cho nàng, lại đề cập đến mấy cuốn du ký, đồng thời khen ngợi mấy chú giải của nàng trong sách rất thú vị, lại tiến cử hai bộ du ký mà hắn yêu thích cho nàng. Sau lại có một ngày, Tô Mạch Diệp sắp xếp một thế cờ linh lung yêu cầu nàng giải, nàng khổ tâm suy nghĩ mà cũng không giải được.
Khi lão quản sự trình cho nàng phong thư hồi âm thứ sáu của Trầm Diệp, nàng tiện tay đem thế cờ thiên biến vạn hóa kia miêu tả trong thư gửi lại cho hắn. Ngay buổi chiều hôm đó nàng nhận được thư hồi âm thứ bảy của Trầm Diệp. Hai tờ giấy viết thư, trong đó một là cách giải thế cờ nàng miêu tả, một là hắn bày một thế cờ linh lung khác cho nàng giải.
Cuối xuân, câu chữ trong thư Trầm Diệp gửi cho nàng cũng nhiều dần lên, mặc dù vẫn duy trì ý tứ lạnh nhạt, nhưng so với sự xa cách ban đầu thì đã có khác biệt rất lớn. Theo lão quản sự trình báo lại, những ngày gần đây Thần quan đại nhân trên mặt mặc dù không biểu hiện điều gì nhưng so với trước đó đã có vẻ bớt trầm tư hơn nhiều.
Dù hắn vẫn chưa một lần nước chân ra khỏi Mạnh Xuân viện nhưng khi thì ngồi ngẫm các thế cờ hoặc vẽ sách dạy đánh cờ, lúc thì tay cầm sách ngồi ở Ba Tâm đình hóng mát hoặc đi quanh viện, một chút lại thôi. Chỉ có điều lão thắc mắc là không hiểu Thần quan đại nhân tại sao cứ đi một lát lại dừng lại để làm gì.
Lão không hiểu nhưng A Lan Nhược lại hiểu được Trầm Diệp làm cái gì. Trong phong thư chỉ có vài nét bút hắn gửi cho nàng có đề cập rằng hắn ở trong viện tìm được một vò rượu hoa quả nàng chôn trước đó. Hắn đem san ra bốn bình hồ lô bằng sứ trắng, giữa đêm vừa đánh cờ vừa thưởng rượu.
Đoán là nàng dùng nước hứng từ sương buổi sớm, đem ngâm với quả chín mọng, phong kín lại trong ba tháng, sau lại đem hạt cải thu hoạch từ cuối mua thu, rang lên và ủ cùng trong nửa tháng để lấy dược hương, cuối cùng phong kín lại chôn dưới đất trong hai năm, hỏi nàng có phải như vậy không? Hắn đoán không sai.
Lão quản sự lần này ngoài trình lên phong thư hồi âm, còn dâng lên một bình sứ trắng, nói là rượu Thần quan đại nhân phân phó đưa cho Văn Điềm tiên sinh. Đây là phong thư hồi âm thứ mười hai của Trầm Diệp. Trăng thanh gió mát, A Lan Nhược mang theo bình rượu đi bộ thẳng đến phía ngoài Mạnh Xuân viện, tung người nhảy vào bên trong, đi đến bên cạnh một gốc cây nhãn lớn.
Cây này nằm đối diện phòng của Trầm Diệp, trong phòng ánh đèn vẫn sáng, in bóng Trầm Diệp lên vách cửa dán giấy. A Lan Nhược nhảy lên tìm một chỗ vững chắc trên chạc cây mà nằm, nàng mở nắp bình rượu, vừa uống vừa nhìn chăm chăm vào cái bóng trên cửa sổ nhỏ. Uống rượu đến một nửa, lại vô tình gặp Tô Mạch Diệp đáp xuống chạc cây bên cạnh nàng, vừa ngồi xuống đã mở miệng giáo huấn nàng: “Vi sư dạy ngươi hơn mười năm, điều tốt đẹp ngươi không học được thì thôi không nói, nhưng đến hai chữ phong lưu kia ngươi cũng không thông, cái chiêu thư từ qua lại vẫn còn là trào lưu, nhưng giờ ngồi đây một mình uống rượu giải sầu, thật sự là rất hèn nhát”.
A Lan Nhược nằm im bất động, nói: “Sư phụ nói lời ấy sai rồi. Việc một mình uống rượu, thiên bất thời, địa bất lợi, nhân bất hòa, đều không có gì đáng ngại. Huống hồ đêm nay tại đây thiên thời địa lợi nhân hòa, trăng trên trời làm bạn, hoa nở hoa tàn rất có ý vị”, nàng cười rộ lên, lại đưa bình rượu lên miệng uống một ngụm, “Hèn nhát? Phong lưu? Hiển nhiên là phong lưu”.
Hai chữ phong lưu vừa rời miệng nàng, cửa sổ nhỏ ở phía đối diện chợt mở ra, một thân ảnh màu đen nhanh chóng lao ra. Mí mắt A Lan Nhược giật giật. Trầm Diệp đứng ở trên bức tường phía xa đối mặt với hai người, bình rượu trắng đã được nàng giấu trong tay áo một cách ổn thỏa.
Huyền y Thần quan tư thế nghiêm trang, còn hai người trước mặt không ra thể thống gì, một người nằm, một người ngồi. Trầm Diệp đảo mắt qua hai người, thản nhiên nói: “Nhị vị đêm khuya tới đây, có gì chỉ giáo?”. Tô Mạch diệp đứng ở trên đầu ngọn cây, “Chỉ giáo thì không dám, tối nay trăng thanh gió mát, mượn vùng đất trù phú nơi này mà ngồi đây đàm văn luận đạo thôi”.
Lại nói: “Nghe nói Thần quan đại nhân tinh thông đạo pháp thiên cơ, không biết có thể ngồi luận đạo cùng chăng?”. A Lan Nhược phì cười nói: “Sư phụ là muốn Thần quan đại nhân ngồi ở đầu tường luận đạo cùng người hay sao?”. Tô Mạch Diệp đứng đắn nói: “Việc luận đạo là do thành tâm, năm đó Phật tổ và Kim sí đại bàng là kẻ thù không đội trời chung, lại cùng nhau ngồi trên một thân cây mà ngộ ra thuyết nhân quả…”.
Ánh mắt Trầm Diệp nhìn thẳng về phía A Lan Nhược, hỏi một câu không liên quan gì cả: “Ngươi uống rượu gì vậy?”. Nàng khẽ run lên, nhưng trong nháy mắt đã khôi phục lại thần sắc bình thường, “Một vị bằng hữu tặng, có điều chỉ là một bình rượu nhỏ, mới vừa rồi đã uống cạn, đại nhân xuất hiện không đúng dịp rồi”.
Tô Mạch Diệp nhìn hai người, nhíu mày cười nói: “Vị bằng hữu tặng rượu này ngày mai đang muốn đến phủ của ta tụ họp, Thần quan đại nhân nếu có hứng thú với rượu này, ngày mai đích thân đến gặp vị bằng hữu kia một lần để hỏi rõ”. Trầm Diệp nhìn hắn: “Người tặng rượu là ai?”.
Không chờ Tô Mạch Diệp trả lời, thanh âm A Lan Nhược không to không nhỏ vang lên, “Một vị trong tông học, Văn Điềm tiên sinh”. Tên vừa nói ra, thần sắc lạnh lùng trang nghiêm của Trầm Diệp có chút khác so với ngày thường. Theo như Mạch Thiếu nói, ngày ấy A Lan Nhược mượn tên Văn Điềm để gửi thư qua lại cho Trầm Diệp là hắn vô tình phát hiện ra.
Đêm đó hiểu được A Lan Nhược hết sức che giấu chuyện này trước mặt Trầm Diệp, nhưng hắn lại mượn chuyện đưa rượu để nhắc tới, đó là hắn cố ý. Khi đó, hắn còn chưa hiểu được mình đối với A Lan Nhược là như thế nào, chỉ cảm thấy nếu nàng muốn lấy được Trầm Diệp, hắn đã giúp nàng một cơ hội.
Với chuyện này, A Lan Nhược đã suy nghĩ quá nghiêm trọng, một lòng hướng tới Trầm Diệp nhưng bên ngoài lại không biểu hiện gì, phức tạp khiến cho hắn không hiểu ra. Lúc đó hắn nói ra như vậy cũng chỉ muốn sớm tạo ra một thời cơ cho Văn Điềm tới gặp Trầm Diệp, như vậy mới có thể khiến cho A Lan Nhược nhanh chóng đưa ra quyết định của riêng mình.
Hoặc là nàng ở trước mặt Trầm Diệp nhận mình chính là Văn Điềm trong thư, hết thảy sự thật đều tiết lộ, đoạn tình này sẽ đi về đâu thì còn phải xem tạo hóa của nó, nhưng chung quy vẫn có một cơ hội. Hoặc là nàng biến mình trở thành người làm mối cho Văn Điềm và Trầm Diệp, đem nhân duyên này tặng cho Văn Điềm, hoàn toàn chặt đứt ý niệm đối với Trầm Diệp trong đầu mình.
Nhưng vô luận là nàng chọn như thế nào cũng tốt hơn sự cố chấp hiện tại của nàng một chút. Mạch Thiếu cảm thấy, chuyện mượn thân phận của người khác để tự chuốc khổ, tự vùi lấp mình trong một đoạn tình như vậy không phải là việc mà đồ đệ của hắn nên làm. Phượng Cửu suy nghĩ, nếu là nàng, nàng sẽ chọn cách thứ nhất.
Nguyên do cũng chỉ vì nàng đã từng nghe một tin đồn rằng, làm mối hai lần sẽ khó gả ra ngoài, nàng bấm tay tính toán mình đã từng giúp Đông Hoa và Cơ Hoành một lần rồi, nếu còn giúp lần nữa thì đời này coi như xong. Nhưng A Lan Nhược, có lẽ lúc đó đã được gả ra ngoài, đã tránh được lo âu về sau, hơn nữa còn chưa bao giờ làm mối, nên muốn nếm thử tư vị đó một chút.
Tóm lại, sau một đêm thức trắng, nàng chọn cách thứ hai. Vừa lúc trời tờ mờ sáng đã truyền gọi Văn Điềm vào phủ, trước sự kinh ngạc thú vị của Văn Điềm, giao cho nàng hai mươi bức thư Trầm Diệp đã gửi tới. A Lan Nhược mang tất cả những gì liên quan đến chuyện này ra nói hết cho Văn Điềm nghe, duy chỉ có che giấu tâm tư của nàng đối với Trầm Diệp mà thôi, giọng nói không mặn không nhạt vang lên trong vô thức: “Lúc Quất Nặc bị đem ra khỏi vương đô có van xin ta chăm sóc Thần quan đại nhân, ngươi cũng biết ta có thiện tâm, đương nhiên sẽ nhận lời chăm sóc hắn.
Nhưng ta và hắn thì luôn luôn không vừa mắt nhau, nếu ta quan tâm tới hắn một chút chắc chắn hắn sẽ bị chọc giận, cho nên đành mượn tên của tiên sinh. Nhưng dạo gần đây trong phủ bận rộn, ta cũng có chút lực bất tòng tâm, đành mời tiên sinh qua phủ một chuyến, không biết tiên sinh có thể nhận lấy trách nhiệm nặng nề này, thay ta chiếu cố tới Thần quan đại nhân được hay không? Cũng không có gì đặc biệt cả, chỉ là cuộc sống nhàn rỗi mà thôi”.
Văn Điềm trước kia từng nhận rất nhiều ân huệ của nàng, thêm nữa lại là một người hiểu lễ nghĩa, đương nhiên đáp ứng giúp đỡ nàng lúc bận rộn, đôi với lời nói của nàng cũng không hề nghi ngờ gì cả. Nàng nhìn Văn Điềm lật mở từng phong thư Trầm Diệp gửi tới, thi thoảng lại khen vài tiếng: “Trước kia cũng chưa từng để ý, thì ra Thần quan đại nhân cũng là một người thú vị, những thế cờ trong này cũng rất thú vị”.
A Lan Nhược nhẹ cười một tiếng, nói: “Tiên sinh kỳ nghệ tinh thông, trước kia còn ở trong phủ rất hiếm có lần ta thắng được tiên sinh, lần này tiên sinh có thể bàn luận cùng Thần quan đại nhân nhiều hơn”, dừng một chút lại nói: “Có điều, lúc hồi âm lại tiên sinh cần mô phỏng lại bút tích của ta một chút, ngày ấy ta không có nghĩ nhiều, thư kia mặc dù lưu tên của tiên sinh, nhưng chữ viết vẫn là của ta”.
Văn Điềm mấp máy môi nói: “Đây cũng không phải là chuyện khó”. Ngày tụ họp hôm sau, quả nhiên Trầm Diệp xuất hiện. A Lan Nhược không hề chú ý gì, nhưng Mạch Thiếu lại vốn là người hay để ý, cho nên buổi tụ họp được tổ chức trong một cái đình nhỏ trên mặt hồ.
Nơi đây là một thiết kế mà Mạch Thiếu rất tâm đắc. Một con đường nhỏ dẫn tới bên hồ sen, đình được dựng ở giữa hồ, xung quanh bốn phía đều được bao quanh bởi hoa sen, đứng từ xa nhìn lại giống như là giữa tầng tầng lớp lớp lá sen xanh nở ra một nụ hoa. Sáu mái đình cong lên như chiếc tù, mỗi đầu mái đều có treo một chiếc chuông gió, mỗi khi có gió thổi qua, tiếng chuông lại vang lên như tiếng nhạc, phù hợp làm một nơi để tịnh tâm.
Có thể nói đây là nơi tụ hội những nét phong nhã trong thế gian, không có chỗ nào không qua nghiên cứu cả. Tên đình là A Lan Nhược đặt, đắn đo một hồi liền nghĩ ra ba chữ rất trọng tâm: Hồ Trung Đình. Mạch Thiếu suy nghĩ một hồi, cảm thấy cái tên này coi như cũng có nét thú vị, đành chấp nhận.
A Lan Nhược lấy ra một tấm gỗ lim nhỏ, một cây bút lông sói và loại mực cho dù có gặp nước cũng không dễ dàng phai đi, viết lên tấm gỗ ba chữ Hồ Trung Đình, treo lên trên đình làm bảng hiệu. Khóe miệng Mạch Thiếu hơi nhếch, cảm thấy cái bảng hiệu này coi như cũng là đồ lấy từ thiên nhiên mộc mạc, đành chấp nhận.
Trầm Diệp bước vào trong đình, ánh mắt dừng lại ở ban chữ như rồng bay phượng múa trên tấm bảng nhỏ treo trên đình. Thiếu nữ mặc áo tơ trắng ngồi trong đình nhìn A Lan Nhược một cái, lập tức hiểu ý, hướng ra ngoài đình nói: “Ba chữ kia Văn Điềm viết cũng không được đẹp mắt cho lắm, nhờ ý tốt của công chúa mà đến nay vẫn được treo trong đình, hôm nay khiến đại nhân chê cười rồi!”.
Ánh mắt Trầm Diệp đưa tới phía nàng. Dung mạo Văn Điềm chỉ có thể nói là thanh tú, nhưng một thân tố sam đứng ở trong đình, kết hợp với thủy sắc lúc ẩn lúc hiện phía sau, lại hiện lên một vẻ đạm bạc hòa nhã. Ánh mắt Trầm Diệp có chút dịu dàng hơn, thấp giọng nói: “Văn Điềm?”.
Thiếu nữ khẽ cười đứng lên: “Chính là Văn Điềm”. Sau này Tô Mạch Diệp từng hỏi A Lan Nhược, chứng kiến cảnh tượng như vậy, trong đầu nàng suy nghĩ như thế nào. Nhưng cái sau này ấy cũng không sau lúc đó bao lâu. Trầm Diệp vừa trò chuyện được một lát đã bị Văn Điềm mời tới bên hồ đánh một ván cờ.
Trong đình chỉ còn có hắn và A Lan Nhược, một người mải mê pha trà, một người bóc vỏ quýt đáp câu được câu chăng, ánh mắt trống rỗng không nhìn ra là đang suy nghĩ gì. Thực ra việc làm này của Mạch Thiếu có chút cay nghiệt, cay nghiệt tới mức đâm thẳng vào nơi sâu thẳm trong đáy lòng.
Huyền y thiếu niên và bạch y thiếu nữ bên hồ giống như một đôi tình nhân. A Lan Nhược bóc vỏ một quả quýt đưa cho Tô Mạch Diệp, trên mặt vẫn hiện lên nụ cười, nhưng nụ cười lại có chút bất đắc dĩ, “Văn Điềm là một nữ tử tốt, vốn hiểu biết cũng xứng đôi với hắn, gia thế mặc dù không được cao quý cho lắm, có điều hiện tại hắn cũng đã nghèo túng, Văn Điềm mà kết duyên với hắn lúc này, có thể thấy được nàng không cầu vinh hoa không màng danh lợi, hôm nay con làm như thế, nếu như hai người họ nên duyên, vậy coi như con đã làm được một việc thiện đi”.
Tô Mạch Diệp cau mày: “Những lời nói của con với Quất Nặc trên Linh Sơ đài ngày hôm đó không giống với những việc mà con làm hôm nay”. A Lan Nhược nhướng mi: “Những lời đó sao, cũng chỉ nói để trêu chọc Quất Nặc thôi mà”, ánh mắt nàng hướng ra xa, nơi hai thân ảnh một đen một trắng ngồi trước bàn cờ bên bờ hồ, thấp giọng nói: “Trầm Diệp hắn là một người lãnh đạm kiêu ngạo, nhưng lại có ngoại hình tốt, linh lực tốt, kiếm pháp tốt, nét chữ tốt, chơi cờ tốt, sở thích hay hiểu biết cũng rất tốt, mặc dù để lộ ra vẻ lãnh đạm kiêu ngạo, nhưng ngược lại lại rất hấp dẫn người khác”.
Lại cười nói: “Sư phụ không biết đã từng nghĩ tới chưa, hắn căm ghét con thực ra cũng không phải là lỗi của hắn. Mẫu phi sau khi thành thân lần thứ hai sinh hạ con và Thường Lệ, đây là bất trinh, cho nên huyết thống của con và Thường Lệ đều không sạch sẽ. Cái này thì, bất quá cũng chỉ là một cách nhìn thôi.
Đối với vạn vật trên thế gian, mỗi người đều có thể có cách nhìn của riêng mình, không thể nói ai đúng ai sai cả. Chẳng qua là nếu hắn có cách nhìn như vậy, giữa con và hắn sẽ không có khả năng. Văn Điềm kia, thực ra thì có chút khiến con phải hâm mộ”. Một lúc lâu sau lại nói: “Nhưng con cũng hy vọng hắn được tốt”.
Tô Mạch Diệp đưa cho nàng một chén trà, “Loại chuyện tình như vậy, kéo dài quả thực không có lợi, may mà con có thể tỉnh ngộ mà nhận ra sự tình, đã đến nước này, con cũng nên kiềm chế tâm tình đi”. A Lan Nhược nhận lấy chén trà, cảm ơn hắn đôi câu. Chuyện này giống như được bỏ qua ngay lúc đó, không còn được nhắc tới nữa, hai con người nhàn nhã đàm thoại một chút việc nhà, đợi đôi tình nhân bên bờ hồ quay về.
Sau buổi gặp mặt ở bên hồ, nghe lão quản sự nói, Trầm Diệp và Văn Điềm có gửi bốn bức thư qua lại. Kèm theo thư của Văn tiên sinh còn có hai món lễ vật nhỏ, một con chim tước lông trắng bằng mây tre, một cái quạt rủ thêu hoa văn cát tường, Trầm Diệp hồi đáp lại bằng hai cuốn sách.
Sách là Trầm Diệp chọn, sai hắn đi chợ mua, hai bản Thương Lãng Tử du ký. A Lan Nhược lúc đó đang cầm một chén trà ngồi bên bờ hồ cho cá ăn, không để ý tới nước trà đã làm bỏng đầu lưỡi, chậm rãi đi tới, nói với lão quản sự sau này hai người họ có thế nào cũng không cần phải trình báo lại, chung quy, Trầm Diệp tới quý phủ của nàng cũng không phải là để ăn không ngồi rồi.
Lại nói, Trầm Diệp tặng cho Văn Điềm hai cuốn sách, vậy mua hai cuốn đó về cho nàng đọc. Thật lòng mà nói, Phượng Cửu cảm thấy bội phục A Lan Nhược. Hiện tại nghĩ tới những tổn thương năm xưa của nàng, thỉnh thoảng còn muốn uống rượu giải sầu hay muốn khóc, vậy mà A Lan Nhược lại đưa trắng ý trung nhân của mình đến tay người khác, chưa nói đến A Lan Nhược không khóc hay đòi uống rượu, ngay cả một tiếng thở dài cũng không có, mỗi ngày việc cần làm vẫn cứ làm.
Phượng Cửu cảm thấy nếu như so sánh với A Lan Nhược, bản thân nàng có chút kém hơn, bỗng thấy xấu hổ. Nhưng thiên ý, không phải một người nghĩ nó thế nào nó liền như thế, mong như thế nào là được như thế. Trong cảnh sóng yên biển lặng mà xuất hiện việc ngoài ý muốn, đây mới là thiên ý.
Ba bốn ngày sau, có một đêm Trầm Diệp tới Ba Tâm đình, trong lúc vô tình chợt nhìn thấy ở bên cạnh có một gốc cây đậu đỏ, trên đó đề hai hàng chữ. Một dòng chữ cứng cáp, khắc sâu vào gốc cây, ắt hẳn là khắc bằng móc bạc, lập luận sắc sảo, chữ viết rất giống với nét chữ trong những bức thư mà hắn nhận được.
Mười sáu chữ xếp thành hai dòng: “Nguyệt chiếu Ngân Hà, phong qua mậu lâm, thoải mái chè chén, trần ưu đốn thích*”. *Ý nghĩa: Trăng chiếu xuống sông Ngân Hà, gió thổi qua rừng cây rậm rạp xanh tốt, thoải mái ăn uống no say, quên đi ưu sầu thế gian. Hơi chếch xuống phía dưới hai dòng chữ ấy có đề một dòng tên.
Hắn mượn ánh trăng phân biệt rõ từng chữ, sắc mặt chợt tái nhợt. Dòng chữ cứng cáp đề tên dưới câu nói kia là Tướng Lý A Lan Nhược. Phượng Cửu vểnh tai, nóng lòng muốn nghe câu chuyện phía sau, nhưng Tô Mạch Diệp lại gõ gõ mấy cái lỗ trên chiếc ngọc tiêu, “Lúc này chân tướng đã rõ ràng, nhưng nếu ngươi là Trầm Diệp, biết được người vẫn viết thư gửi cho ngươi không phải là Văn Điềm mà là A Lan Nhược, ngươi sẽ như thế nào?”.
Phượng Cửu chỉ nghĩ trong chốc lát, thử dò xét hỏi: “Rất đơn giản, thật vui vẻ chứ sao?”. Mạch Thiếu cười nói: “Là ta ta cũng sẽ cảm thấy rất vui vẻ, có một cô nương chịu đối tốt với ta như vậy, còn là một mỹ nhân tuyệt sắc, cho dù có nghĩ như thế nào thì đây cũng là một vụ buôn bán có lời”.
Phượng Cửu như gặp được tri âm, lập tức ngồi gần lại một chút: “Còn không phải sao!”. Tô Mạch Diệp dừng lại trong chốc lát, lại nói: “Đáng tiếc người mà A Lan Nhược gặp phải lại là Trầm Diệp, mà Trầm Diệp hắn không phải là ta, cũng không phải là ngươi”. A Lan Nhược ngồi trong thư phòng, nghênh đón cơn thịnh nộ của Trầm Diệp.
Lúc đó nàng đang dựa lưng vào ghế vừa bóc vỏ hạt dưa đọc bộ du ký Thương Lãng Tử, đột nhiên thấy một đoạn vỏ cây có khắc chữ bay thẳng tới, mạnh mẽ rơi xuống trước mặt mình. Nhìn theo hướng đoạn vỏ cây bay tới thì thấy một chiếc áo choàng màu đen, ngước lên là nét mặt bình tĩnh ẩn giấu sự giận dữ của Trầm Diệp.
Hắn từ trên cao nhìn xuống, trong ánh mắt có sự băng lạnh như sao hỏa: “Thư là ngươi viết, rượu là ngươi ủ, cờ cũng là ngươi bày. Biến ta thành một thứ đồ chơi, tùy ý trêu chọc đùa cợt, có phải là rất thú vị hay không?”. Hắn tiến lại gần một bước, sự băng lạnh trong ánh mắt càng tăng lên: “Không nghĩ tới ta cũng có một ngày bị ngươi lừa gạt mà lại thật lòng thật tâm hồi âm từng phong thư cho ngươi, trong lòng ngươi không phải là đang rất đắc ý hay sao?”.
A Lan Nhược nhìn những dòng chữ trên đoạn vỏ cây một hồi lâu, đột nhiên nói: “Sư phụ nói với ta, hoặc là ta hãy tranh giành một lần, hoặc là chặt đứt ý niệm trong đầu. Vốn là ta đã chặt đứt ý niệm trong đầu rồi, ngươi không nên tới đây”. Nàng nghĩ thêm một lát, “Cho dù có một số việc ngươi đã biết rồi, nhưng thật ra thì ngươi cũng nên làm bộ là ngươi không biết gì, hai người chúng ta, không phải nên là hai người lạ như trước kia sao?”.
Trầm Diệp nhìn nàng, giọng nói băng lạnh: “Từ trước tới giờ chúng ta chỉ là người lạ thôi sao? Chẳng lẽ không phải là căm ghét nhau sao?”. Ngón tay đặt trên trang sách của A Lan Nhược khẽ run lên, nhẹ giọng nói: “Có lẽ là, ngươi chưa từng nghĩ qua, ta không có giống ngươi, ngươi ghét ta, nhưng ta không ghét ngươi, có lẽ ta còn thật sự thích ngươi, làm những việc này thực ra là muốn cho ngươi được vui vẻ”.
Nàng ngẩng đầu lên, “Ngươi xem xem, trước khi ngươi biết những bức thư này là do ta viết, không phải là ngươi đã thực sự cảm thấy vui vẻ sao?”. Hắn lui về phía sau một bước: “Ngươi đang nói đùa”. Nàng như thể có chút lo lắng: “Nếu như không phải là trò đùa thì sao?”.
Thần sắc hắn cứng nhắc nói: “Giữa chúng ta, khả năng nào cũng có thể có, người lạ, địch nhân, kẻ thù không đội trời chung, hoặc là những khả năng khác, duy chỉ có khả năng này là không thể”. A Lan Nhược nhìn hắn một hồi lâu, cười nói: “Ta có thể là nói thật, có thể là giả dối, có lẽ là ta thật lòng thích ngươi, nhưng có lẽ là ta thật lòng muốn trêu chọc ngươi”.
Nghe nói sau đó, Trầm Diệp và Văn Điềm không còn gửi thư cho nhau nữa. Có một lần Văn Điềm gửi thư đến hỏi A Lan Nhược, nàng chỉ nói một câu đơn giản là Trầm Diệp đã biết được sự thật rồi, chuyện lúc trước dây dưa tới nàng thật có lỗi. Văn Điềm không nói gì, chỉ hồi âm an ủi nàng đôi câu.
Tô Mạch Diệp kể lại chuyện xưa tới lúc này, nhìn sắc trời đã muộn, tạm trở về nghỉ ngơi. Phượng Cửu từng nghĩ tới chuyện của A Lan Nhược và Trầm Diệp rất nhiều lần, nhưng lại không ngờ rằng câu chuyện có một mở đầu thương tâm như vậy, làm lòng nàng có chút nặng nề, lại thêm xúc động.
Phượng Cửu nhớ mang máng, cô cô Bạch Thiển của nàng từng đọc cho nàng một câu thơ của người phàm trần, ý muốn bồi dưỡng khí phách cho nàng. Câu thơ này thể hiện khí phách rất lớn: “Mạc sắc thương mang khán kính tùng, loạn vân phi độ nhưng tòng dung”*. *Ý nghĩa: cây tùng dù đứng trong không gian bao la vẫn thể hiện dáng vẻ mạnh mẽ, mây trên trời dù bay loạn vẫn thấy rất thong dong.
Phượng Cửu cảm thấy thật đáng tiếc vì lần này, việc hành hình Quất Nặc diễn ra trên Linh Sơ đài không thể để cho cô cô của nàng thấy được khí phách ung dung hiên ngang của mình. Mặc dù khí phách ấy nàng có được cũng là bởi bị ép buộc. Người ta đồn rằng thánh đao kia rất kén chọn, từ trước tới nay ngoại trừ máu tươi ra thì cái gì cũng không chịu uống.
Thế nên cái kế sách lấy sẵn một túi đựng máu trước đó của nàng không thể không từ bỏ. Chuyện đã đến nước này rồi, nàng đành phải kiên cường chống đỡ thôi. Nàng xác định bằng bất cứ giá nào cũng phải dùng sức mạnh đấu với Mãnh Hổ, dùng mưu trí đấu với Thượng quân.
Tuy là chỉ cần nghĩ đến mình sẽ dùng tay nắm lấy lưỡi đao, mồ hôi lạnh trên trán nàng vẫn túa ra như đi dưới mưa, nhưng nàng nhất định không thể giữa đường bỏ dở mọi việc được, trong cảnh gió mưa vũ bão như vậy, có thể cứu được một đôi uyên ương trên đài cũng coi như để được danh tiếng về sau.
Điều duy nhất mà nàng cảm thấy đáng tiếc là lúc ở Thủy Nguyệt đầm cùng Tức Trạch đã quên không hỏi qua ý kiến của hắn. May mắn sao, nàng phỏng đoán là mấy ngày gần đây Thượng quân cũng sẽ không tới tìm hắn. Nhớ lại ngày hôm ấy khi nàng cùng Tức Trạch chia tay ở Thủy Nguyệt đầm, Tức Trạch nói hắn có chút việc phải đi xa, khoảng mười ngày sau sẽ trở về Kỳ Nam Thần cung, nhưng nếu có việc gì xảy ra thì cũng có thể đến Thần cung tìm hắn.
Nàng cân nhắc một lát, cảm thấy trước tiên nên lưu lại một phong thư, đợi khi Tức Trạch quay lại Thần cung sẽ cho Trà Trà mang tới, giúp việc nói dối lần này trở nên trọn vẹn, chuyện này mới chính thức kết thúc được. Vả lại, ngoài Tức Trạch ra, còn phải viết thư cho Trầm Diệp.
Mà không phải một phong thư, là rất nhiều rất nhiều thư. Nàng nhìn cánh tay phải của mình bị bao thành cái bao thịt, thập phần đau đầu thở dài một cái. Phượng Cửu có thể hiểu được, việc A Lan Nhược liều chết cứu giúp Trầm Diệp trên Linh Sơ đài tuyệt nhiên không chỉ là vì muốn chọc giận phụ thân của nàng.
Theo lời Mạch Thiếu nói, tính tình của A Lan Nhược rất hay thay đổi, lúc thì trầm tĩnh không nói lời nào, lại có lúc phấn khởi ồn ào, cũng có khi nghịch ngợm hiếu động, nhưng tìm hiểu sâu một chút sẽ phát hiện ra được nàng là một người yêu ghét hết sức rõ ràng. Thí dụ như Thượng quân, quân hậu từ thuở nhỏ không thích nàng, nàng cũng không thích bọn họ.
Mạch Thiếu thuở nhỏ đối tốt với nàng, nàng liền ghi nhớ ân tình này. Nhưng vì sao Trầm Diệp xưa nay không thích nàng, nàng lại giúp cho hắn trên Linh Sơ đài? Việc này thật khó giải thích. Có thể nói là trên đời này mỗi loại tình yêu đều có nguyên nhân của nó, nhưng riêng tình cảm nam nữ lại phát sinh không theo bất kỳ đạo lý nào, lúc nó phát tác thì mạnh mẽ tới mức có thể lấy đi cả tính mạng con người.
Trước kia, sau khi Quất Nặc được cứu trên Linh Sơ đài, mọi chuyện tiếp theo diễn ra như thế nào? Theo như Tô Mạch Diệp nói, ngày hai mươi tám tháng tư, Trầm Diệp một mình đến phủ của A Lan Nhược, bị lão quản sự dàn xếp ở Thiên viện. A Lan Nhược buổi sáng tập viết, buổi chiều nghe đàn, đêm lại cùng Mạch Thiếu đánh mấy ván cờ, không hề tới gặp hắn.
Ngày tiếp đó, nàng tay ôm vài quyển sách, ở mái đình nhỏ bên cạnh hồ nước tiêu phí mất một ngày, vẫn không tới gặp hắn. Ngày sau nữa trời có mưa, thủy các không phải là nơi thích hợp để tới, nàng liền ở trong phòng tự nghiền ngẫm các thế cờ, cũng không tới xem hắn. Buổi tối lão quản sự trình báo, nói ngày đầu hắn đến, lão đã truyền đạt lời công chúa dặn dò, nói Trầm Diệp là Thần quan đại nhân, lần này đến phủ chính là khách quý, nếu không thích ở Thiên viện thì trong phủ ngoại trừ khuê phòng của công chúa, bất cứ chỗ nào cũng có thể đi ngắm cảnh.
Nhưng ba ngày này, Thần quan đại nhân lại chưa từng bước ra khỏi Thiên viện, thường xuyên nhíu mày, có thể nhìn thấy được tâm trạng của hắn thực sự không tốt. Vả lại, dù đã theo lời công chúa phân phó, trước đi Thần cung hỏi thăm khẩu vị của Thần quan đại nhân, nhưng sau khi làm thức ăn chiểu theo khẩu vị ấy, Thần quan cũng rất ít động đến.
Tình thế như vậy khiến hắn không biết nên xử trí thế nào, đành bẩm báo lại. Lão quản sự hai tay bắt chéo, dựng thẳng lỗ tai chờ đợi sự phân phó của nàng. A Lan Nhược trầm mặc một lát, tiện tay cầm tờ giấy trắng, lấy bút mực viết một phong thư. Đây là phong thư đầu tiên nàng viết cho Trầm Diệp.
A Lan Nhược cả đời tổng cộng viết cho Trầm Diệp hai mươi phong thư. Trầm Diệp trước sau dứt khoát, mỗi lần nàng gửi thư đều viết một bức đáp lại. Sau khi nàng chết, những bức thư đó được đưa tới cho Tô Mạch Diệp. Nhưng hai mươi phong thư bị hắn một phen đốt sạch trước linh cữu của A Lan Nhược.
Nửa đời tình nghĩa, chỉ như một làn khói nhẹ. Nhưng Mạch Thiếu cũng đã thuộc lòng không ít những câu trong thư mà A Lan Nhược đã viết, thí dụ như đoạn đầu trong bức thư đầu tiên: “Vừa nhận được tin ở Mạnh Xuân viện có khách mới chuyển tới, thiếp xin có lễ. Năm trước đã từng ở tại viện này một thời gian, sau khi rời đi lo lắng viện bị bỏ hoang không người đặt chân tới bởi viện nhỏ mà cảnh trí cũng không được đặc sắc, nay nghe tin Thần quan tới, trong lòng cảm thấy an ủi hơn rất nhiều”.
Trong bức thư đầu tiên, A Lan Nhược giả vờ mình chính là một nữ tiên sinh từng trú tại phủ công chúa, năm trước rời phủ vào Vương tộc học, khi nhàn rỗi thì thích pha trà thưởng rượu, khi còn ở Mạnh Xuân viện đã chôn rất nhiều rượu ngon ở đó. Hiện giờ nàng đã rời phủ nên không còn phúc thưởng thức rượu nữa, liền đem vò rượu tặng cho hắn, hy vọng hắn có thể nhờ rượu này mà tâm tình được an ủi phần nào.
Thư đến đây là hết, đều là những câu hết sức nhẹ nhàng, đơn giản, không có nói thêm gì nữa. Cuối thư, nàng lưu lại hai chữ Văn Điềm. Kỳ thực thì Văn Điềm đúng là một tài nữ trong tông học, năm xưa nghèo khó, lấy hai cuốn thi thư nổi danh hy vọng được làm môn hạ của A Lan Nhược, được vào tông học là vì nàng nói với Tức Trạch nhờ hắn tiến cử.
Nhưng Văn Điềm chưa từng ở Mạnh Xuân viện một lần nào. Tên viện là Mạnh Xuân bởi vì đầu mùa xuân là khi cảnh trí trong viện đẹp nhất. Đây cũng là nơi mà mỗi mùa xuân, A Lan Nhược đều tới ở một thời gian, pha trà rồi lại ủ vài hũ rượu mới. Thư viết xong, lão quản sự kính cẩn đón thư, A Lan Nhược lại dặn dò: “Nếu như Trầm Diệp có hỏi thư này từ đâu tới thì ngươi hãy nói là có một vị nữ tiên sinh trong tông học đưa cho ngươi, đừng nhắc tới ta”.
Lão quản sự cúi đầu vâng mệnh, trong lòng có chút nghi hoặc nhưng trên mặt không biểu hiện gì. A Lan Nhược từ từ rót một chén trà, lại nói tiếp: “Nếu như hắn biết đây là thư của ta, nhất định là nửa chữ cũng không đọc. Bị giam ở chỗ này, đúng là phiền lòng, có người trò chuyện cùng hắn cũng coi như an ủi hắn một chút.
Người có thể nói chuyện cùng với hắn không nhiều, có lẽ chỉ có mấy vị nữ tiên sinh trong tông học mới có thể khiến hắn kính trọng một chút”. Sau khi bức thư được gửi đi, tình hình quả nhiên có chút khả quan hơn. Ba ngày sau đó, lão quản sự bẩm báo lại, trong hai ngày qua, Thần quan đại nhân có ăn được nhiều hơn mấy ngày trước.
Hôm qua sau khi dùng xong bữa tối, Thần quan đại nhân còn tới Ba Tâm đình nghỉ chân, đám đầy tớ không dám đến quá gần, nhưng hắn cũng không lưu lại đó quá lâu, khi trở lại viết một phong thư hồi âm cho Văn Điềm. A Lan Nhược mở thư, thấy trên tờ giấy trắng hiện lên những nét chữ cứng cáp của Trầm Diệp, nhìn rất đẹp mắt, nội dung lại đơn giản, chủ yếu thể hiện lòng biết ơn.
Như bình thường thì những bức thư đơn giản như vậy chủ yếu là để đáp lại cho có lễ. Nhưng theo tính tình của Trầm Diệp, nếu như chỉ muốn đáp lại cho có lễ, hắn sẽ không đáp lại, đó mới là phong cách làm việc của hắn. Khóe môi A Lan Nhược mấp máy, trên khuôn mặt lộ ra một nụ cười.
Lão quản sự thấy vậy thì biết điều, vội vàng lấy bút mực, thúc giục chủ tử viết thư hồi âm. Ở bức thư thứ hai, nàng cố ý nhắc tới thư phòng ở Mạnh Xuân viện, chủ ý là muốn giúp hắn tiêu chút thời gian. Sách trong gian thư phòng kia của nàng so với gian hiện tại nàng đang sử dụng đích thực phong phú hơn.
Sách ở đây luôn luôn do nàng tự tay xử lý, buổi tối trước khi Trầm Diệp tới đã bổ sung thêm ít sách mới. Đó là mấy cuốn sách mà nàng yêu thích nhất, trong đó có du ký* và mấy văn tự miêu tả phong cảnh bao la hùng vĩ ở phàm giới. Có một số chỗ trong sách là do nàng không đồng tình với tác giả nên phê bình chú giải thêm vào.
Nàng đặt những cuốn đó ở phía dưới cùng của giá sách, nơi mà bình thường không ai chú ý tới. *Du ký: sách ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe khi đi du lịch Trong thư nàng cũng không đề cập đến những cuốn sách này, chỉ giới thiệu cho hắn mấy bộ sách cổ quý giá.
Tuy nhiên, hai tuần sau Trầm Diệp hồi âm lại cho nàng, lại đề cập đến mấy cuốn du ký, đồng thời khen ngợi mấy chú giải của nàng trong sách rất thú vị, lại tiến cử hai bộ du ký mà hắn yêu thích cho nàng. Sau lại có một ngày, Tô Mạch Diệp sắp xếp một thế cờ linh lung yêu cầu nàng giải, nàng khổ tâm suy nghĩ mà cũng không giải được.
Khi lão quản sự trình cho nàng phong thư hồi âm thứ sáu của Trầm Diệp, nàng tiện tay đem thế cờ thiên biến vạn hóa kia miêu tả trong thư gửi lại cho hắn. Ngay buổi chiều hôm đó nàng nhận được thư hồi âm thứ bảy của Trầm Diệp. Hai tờ giấy viết thư, trong đó một là cách giải thế cờ nàng miêu tả, một là hắn bày một thế cờ linh lung khác cho nàng giải.
Cuối xuân, câu chữ trong thư Trầm Diệp gửi cho nàng cũng nhiều dần lên, mặc dù vẫn duy trì ý tứ lạnh nhạt, nhưng so với sự xa cách ban đầu thì đã có khác biệt rất lớn. Theo lão quản sự trình báo lại, những ngày gần đây Thần quan đại nhân trên mặt mặc dù không biểu hiện điều gì nhưng so với trước đó đã có vẻ bớt trầm tư hơn nhiều.
Dù hắn vẫn chưa một lần nước chân ra khỏi Mạnh Xuân viện nhưng khi thì ngồi ngẫm các thế cờ hoặc vẽ sách dạy đánh cờ, lúc thì tay cầm sách ngồi ở Ba Tâm đình hóng mát hoặc đi quanh viện, một chút lại thôi. Chỉ có điều lão thắc mắc là không hiểu Thần quan đại nhân tại sao cứ đi một lát lại dừng lại để làm gì.
Lão không hiểu nhưng A Lan Nhược lại hiểu được Trầm Diệp làm cái gì. Trong phong thư chỉ có vài nét bút hắn gửi cho nàng có đề cập rằng hắn ở trong viện tìm được một vò rượu hoa quả nàng chôn trước đó. Hắn đem san ra bốn bình hồ lô bằng sứ trắng, giữa đêm vừa đánh cờ vừa thưởng rượu.
Đoán là nàng dùng nước hứng từ sương buổi sớm, đem ngâm với quả chín mọng, phong kín lại trong ba tháng, sau lại đem hạt cải thu hoạch từ cuối mua thu, rang lên và ủ cùng trong nửa tháng để lấy dược hương, cuối cùng phong kín lại chôn dưới đất trong hai năm, hỏi nàng có phải như vậy không? Hắn đoán không sai.
Lão quản sự lần này ngoài trình lên phong thư hồi âm, còn dâng lên một bình sứ trắng, nói là rượu Thần quan đại nhân phân phó đưa cho Văn Điềm tiên sinh. Đây là phong thư hồi âm thứ mười hai của Trầm Diệp. Trăng thanh gió mát, A Lan Nhược mang theo bình rượu đi bộ thẳng đến phía ngoài Mạnh Xuân viện, tung người nhảy vào bên trong, đi đến bên cạnh một gốc cây nhãn lớn.
Cây này nằm đối diện phòng của Trầm Diệp, trong phòng ánh đèn vẫn sáng, in bóng Trầm Diệp lên vách cửa dán giấy. A Lan Nhược nhảy lên tìm một chỗ vững chắc trên chạc cây mà nằm, nàng mở nắp bình rượu, vừa uống vừa nhìn chăm chăm vào cái bóng trên cửa sổ nhỏ. Uống rượu đến một nửa, lại vô tình gặp Tô Mạch Diệp đáp xuống chạc cây bên cạnh nàng, vừa ngồi xuống đã mở miệng giáo huấn nàng: “Vi sư dạy ngươi hơn mười năm, điều tốt đẹp ngươi không học được thì thôi không nói, nhưng đến hai chữ phong lưu kia ngươi cũng không thông, cái chiêu thư từ qua lại vẫn còn là trào lưu, nhưng giờ ngồi đây một mình uống rượu giải sầu, thật sự là rất hèn nhát”.
A Lan Nhược nằm im bất động, nói: “Sư phụ nói lời ấy sai rồi. Việc một mình uống rượu, thiên bất thời, địa bất lợi, nhân bất hòa, đều không có gì đáng ngại. Huống hồ đêm nay tại đây thiên thời địa lợi nhân hòa, trăng trên trời làm bạn, hoa nở hoa tàn rất có ý vị”, nàng cười rộ lên, lại đưa bình rượu lên miệng uống một ngụm, “Hèn nhát? Phong lưu? Hiển nhiên là phong lưu”.
Hai chữ phong lưu vừa rời miệng nàng, cửa sổ nhỏ ở phía đối diện chợt mở ra, một thân ảnh màu đen nhanh chóng lao ra. Mí mắt A Lan Nhược giật giật. Trầm Diệp đứng ở trên bức tường phía xa đối mặt với hai người, bình rượu trắng đã được nàng giấu trong tay áo một cách ổn thỏa.
Huyền y Thần quan tư thế nghiêm trang, còn hai người trước mặt không ra thể thống gì, một người nằm, một người ngồi. Trầm Diệp đảo mắt qua hai người, thản nhiên nói: “Nhị vị đêm khuya tới đây, có gì chỉ giáo?”. Tô Mạch diệp đứng ở trên đầu ngọn cây, “Chỉ giáo thì không dám, tối nay trăng thanh gió mát, mượn vùng đất trù phú nơi này mà ngồi đây đàm văn luận đạo thôi”.
Lại nói: “Nghe nói Thần quan đại nhân tinh thông đạo pháp thiên cơ, không biết có thể ngồi luận đạo cùng chăng?”. A Lan Nhược phì cười nói: “Sư phụ là muốn Thần quan đại nhân ngồi ở đầu tường luận đạo cùng người hay sao?”. Tô Mạch Diệp đứng đắn nói: “Việc luận đạo là do thành tâm, năm đó Phật tổ và Kim sí đại bàng là kẻ thù không đội trời chung, lại cùng nhau ngồi trên một thân cây mà ngộ ra thuyết nhân quả…”.
Ánh mắt Trầm Diệp nhìn thẳng về phía A Lan Nhược, hỏi một câu không liên quan gì cả: “Ngươi uống rượu gì vậy?”. Nàng khẽ run lên, nhưng trong nháy mắt đã khôi phục lại thần sắc bình thường, “Một vị bằng hữu tặng, có điều chỉ là một bình rượu nhỏ, mới vừa rồi đã uống cạn, đại nhân xuất hiện không đúng dịp rồi”.
Tô Mạch Diệp nhìn hai người, nhíu mày cười nói: “Vị bằng hữu tặng rượu này ngày mai đang muốn đến phủ của ta tụ họp, Thần quan đại nhân nếu có hứng thú với rượu này, ngày mai đích thân đến gặp vị bằng hữu kia một lần để hỏi rõ”. Trầm Diệp nhìn hắn: “Người tặng rượu là ai?”.
Không chờ Tô Mạch Diệp trả lời, thanh âm A Lan Nhược không to không nhỏ vang lên, “Một vị trong tông học, Văn Điềm tiên sinh”. Tên vừa nói ra, thần sắc lạnh lùng trang nghiêm của Trầm Diệp có chút khác so với ngày thường. Theo như Mạch Thiếu nói, ngày ấy A Lan Nhược mượn tên Văn Điềm để gửi thư qua lại cho Trầm Diệp là hắn vô tình phát hiện ra.
Đêm đó hiểu được A Lan Nhược hết sức che giấu chuyện này trước mặt Trầm Diệp, nhưng hắn lại mượn chuyện đưa rượu để nhắc tới, đó là hắn cố ý. Khi đó, hắn còn chưa hiểu được mình đối với A Lan Nhược là như thế nào, chỉ cảm thấy nếu nàng muốn lấy được Trầm Diệp, hắn đã giúp nàng một cơ hội.
Với chuyện này, A Lan Nhược đã suy nghĩ quá nghiêm trọng, một lòng hướng tới Trầm Diệp nhưng bên ngoài lại không biểu hiện gì, phức tạp khiến cho hắn không hiểu ra. Lúc đó hắn nói ra như vậy cũng chỉ muốn sớm tạo ra một thời cơ cho Văn Điềm tới gặp Trầm Diệp, như vậy mới có thể khiến cho A Lan Nhược nhanh chóng đưa ra quyết định của riêng mình.
Hoặc là nàng ở trước mặt Trầm Diệp nhận mình chính là Văn Điềm trong thư, hết thảy sự thật đều tiết lộ, đoạn tình này sẽ đi về đâu thì còn phải xem tạo hóa của nó, nhưng chung quy vẫn có một cơ hội. Hoặc là nàng biến mình trở thành người làm mối cho Văn Điềm và Trầm Diệp, đem nhân duyên này tặng cho Văn Điềm, hoàn toàn chặt đứt ý niệm đối với Trầm Diệp trong đầu mình.
Nhưng vô luận là nàng chọn như thế nào cũng tốt hơn sự cố chấp hiện tại của nàng một chút. Mạch Thiếu cảm thấy, chuyện mượn thân phận của người khác để tự chuốc khổ, tự vùi lấp mình trong một đoạn tình như vậy không phải là việc mà đồ đệ của hắn nên làm. Phượng Cửu suy nghĩ, nếu là nàng, nàng sẽ chọn cách thứ nhất.
Nguyên do cũng chỉ vì nàng đã từng nghe một tin đồn rằng, làm mối hai lần sẽ khó gả ra ngoài, nàng bấm tay tính toán mình đã từng giúp Đông Hoa và Cơ Hoành một lần rồi, nếu còn giúp lần nữa thì đời này coi như xong. Nhưng A Lan Nhược, có lẽ lúc đó đã được gả ra ngoài, đã tránh được lo âu về sau, hơn nữa còn chưa bao giờ làm mối, nên muốn nếm thử tư vị đó một chút.
Tóm lại, sau một đêm thức trắng, nàng chọn cách thứ hai. Vừa lúc trời tờ mờ sáng đã truyền gọi Văn Điềm vào phủ, trước sự kinh ngạc thú vị của Văn Điềm, giao cho nàng hai mươi bức thư Trầm Diệp đã gửi tới. A Lan Nhược mang tất cả những gì liên quan đến chuyện này ra nói hết cho Văn Điềm nghe, duy chỉ có che giấu tâm tư của nàng đối với Trầm Diệp mà thôi, giọng nói không mặn không nhạt vang lên trong vô thức: “Lúc Quất Nặc bị đem ra khỏi vương đô có van xin ta chăm sóc Thần quan đại nhân, ngươi cũng biết ta có thiện tâm, đương nhiên sẽ nhận lời chăm sóc hắn.
Nhưng ta và hắn thì luôn luôn không vừa mắt nhau, nếu ta quan tâm tới hắn một chút chắc chắn hắn sẽ bị chọc giận, cho nên đành mượn tên của tiên sinh. Nhưng dạo gần đây trong phủ bận rộn, ta cũng có chút lực bất tòng tâm, đành mời tiên sinh qua phủ một chuyến, không biết tiên sinh có thể nhận lấy trách nhiệm nặng nề này, thay ta chiếu cố tới Thần quan đại nhân được hay không? Cũng không có gì đặc biệt cả, chỉ là cuộc sống nhàn rỗi mà thôi”.
Văn Điềm trước kia từng nhận rất nhiều ân huệ của nàng, thêm nữa lại là một người hiểu lễ nghĩa, đương nhiên đáp ứng giúp đỡ nàng lúc bận rộn, đôi với lời nói của nàng cũng không hề nghi ngờ gì cả. Nàng nhìn Văn Điềm lật mở từng phong thư Trầm Diệp gửi tới, thi thoảng lại khen vài tiếng: “Trước kia cũng chưa từng để ý, thì ra Thần quan đại nhân cũng là một người thú vị, những thế cờ trong này cũng rất thú vị”.
A Lan Nhược nhẹ cười một tiếng, nói: “Tiên sinh kỳ nghệ tinh thông, trước kia còn ở trong phủ rất hiếm có lần ta thắng được tiên sinh, lần này tiên sinh có thể bàn luận cùng Thần quan đại nhân nhiều hơn”, dừng một chút lại nói: “Có điều, lúc hồi âm lại tiên sinh cần mô phỏng lại bút tích của ta một chút, ngày ấy ta không có nghĩ nhiều, thư kia mặc dù lưu tên của tiên sinh, nhưng chữ viết vẫn là của ta”.
Văn Điềm mấp máy môi nói: “Đây cũng không phải là chuyện khó”. Ngày tụ họp hôm sau, quả nhiên Trầm Diệp xuất hiện. A Lan Nhược không hề chú ý gì, nhưng Mạch Thiếu lại vốn là người hay để ý, cho nên buổi tụ họp được tổ chức trong một cái đình nhỏ trên mặt hồ.
Nơi đây là một thiết kế mà Mạch Thiếu rất tâm đắc. Một con đường nhỏ dẫn tới bên hồ sen, đình được dựng ở giữa hồ, xung quanh bốn phía đều được bao quanh bởi hoa sen, đứng từ xa nhìn lại giống như là giữa tầng tầng lớp lớp lá sen xanh nở ra một nụ hoa. Sáu mái đình cong lên như chiếc tù, mỗi đầu mái đều có treo một chiếc chuông gió, mỗi khi có gió thổi qua, tiếng chuông lại vang lên như tiếng nhạc, phù hợp làm một nơi để tịnh tâm.
Có thể nói đây là nơi tụ hội những nét phong nhã trong thế gian, không có chỗ nào không qua nghiên cứu cả. Tên đình là A Lan Nhược đặt, đắn đo một hồi liền nghĩ ra ba chữ rất trọng tâm: Hồ Trung Đình. Mạch Thiếu suy nghĩ một hồi, cảm thấy cái tên này coi như cũng có nét thú vị, đành chấp nhận.
A Lan Nhược lấy ra một tấm gỗ lim nhỏ, một cây bút lông sói và loại mực cho dù có gặp nước cũng không dễ dàng phai đi, viết lên tấm gỗ ba chữ Hồ Trung Đình, treo lên trên đình làm bảng hiệu. Khóe miệng Mạch Thiếu hơi nhếch, cảm thấy cái bảng hiệu này coi như cũng là đồ lấy từ thiên nhiên mộc mạc, đành chấp nhận.
Trầm Diệp bước vào trong đình, ánh mắt dừng lại ở ban chữ như rồng bay phượng múa trên tấm bảng nhỏ treo trên đình. Thiếu nữ mặc áo tơ trắng ngồi trong đình nhìn A Lan Nhược một cái, lập tức hiểu ý, hướng ra ngoài đình nói: “Ba chữ kia Văn Điềm viết cũng không được đẹp mắt cho lắm, nhờ ý tốt của công chúa mà đến nay vẫn được treo trong đình, hôm nay khiến đại nhân chê cười rồi!”.
Ánh mắt Trầm Diệp đưa tới phía nàng. Dung mạo Văn Điềm chỉ có thể nói là thanh tú, nhưng một thân tố sam đứng ở trong đình, kết hợp với thủy sắc lúc ẩn lúc hiện phía sau, lại hiện lên một vẻ đạm bạc hòa nhã. Ánh mắt Trầm Diệp có chút dịu dàng hơn, thấp giọng nói: “Văn Điềm?”.
Thiếu nữ khẽ cười đứng lên: “Chính là Văn Điềm”. Sau này Tô Mạch Diệp từng hỏi A Lan Nhược, chứng kiến cảnh tượng như vậy, trong đầu nàng suy nghĩ như thế nào. Nhưng cái sau này ấy cũng không sau lúc đó bao lâu. Trầm Diệp vừa trò chuyện được một lát đã bị Văn Điềm mời tới bên hồ đánh một ván cờ.
Trong đình chỉ còn có hắn và A Lan Nhược, một người mải mê pha trà, một người bóc vỏ quýt đáp câu được câu chăng, ánh mắt trống rỗng không nhìn ra là đang suy nghĩ gì. Thực ra việc làm này của Mạch Thiếu có chút cay nghiệt, cay nghiệt tới mức đâm thẳng vào nơi sâu thẳm trong đáy lòng.
Huyền y thiếu niên và bạch y thiếu nữ bên hồ giống như một đôi tình nhân. A Lan Nhược bóc vỏ một quả quýt đưa cho Tô Mạch Diệp, trên mặt vẫn hiện lên nụ cười, nhưng nụ cười lại có chút bất đắc dĩ, “Văn Điềm là một nữ tử tốt, vốn hiểu biết cũng xứng đôi với hắn, gia thế mặc dù không được cao quý cho lắm, có điều hiện tại hắn cũng đã nghèo túng, Văn Điềm mà kết duyên với hắn lúc này, có thể thấy được nàng không cầu vinh hoa không màng danh lợi, hôm nay con làm như thế, nếu như hai người họ nên duyên, vậy coi như con đã làm được một việc thiện đi”.
Tô Mạch Diệp cau mày: “Những lời nói của con với Quất Nặc trên Linh Sơ đài ngày hôm đó không giống với những việc mà con làm hôm nay”. A Lan Nhược nhướng mi: “Những lời đó sao, cũng chỉ nói để trêu chọc Quất Nặc thôi mà”, ánh mắt nàng hướng ra xa, nơi hai thân ảnh một đen một trắng ngồi trước bàn cờ bên bờ hồ, thấp giọng nói: “Trầm Diệp hắn là một người lãnh đạm kiêu ngạo, nhưng lại có ngoại hình tốt, linh lực tốt, kiếm pháp tốt, nét chữ tốt, chơi cờ tốt, sở thích hay hiểu biết cũng rất tốt, mặc dù để lộ ra vẻ lãnh đạm kiêu ngạo, nhưng ngược lại lại rất hấp dẫn người khác”.
Lại cười nói: “Sư phụ không biết đã từng nghĩ tới chưa, hắn căm ghét con thực ra cũng không phải là lỗi của hắn. Mẫu phi sau khi thành thân lần thứ hai sinh hạ con và Thường Lệ, đây là bất trinh, cho nên huyết thống của con và Thường Lệ đều không sạch sẽ. Cái này thì, bất quá cũng chỉ là một cách nhìn thôi.
Đối với vạn vật trên thế gian, mỗi người đều có thể có cách nhìn của riêng mình, không thể nói ai đúng ai sai cả. Chẳng qua là nếu hắn có cách nhìn như vậy, giữa con và hắn sẽ không có khả năng. Văn Điềm kia, thực ra thì có chút khiến con phải hâm mộ”. Một lúc lâu sau lại nói: “Nhưng con cũng hy vọng hắn được tốt”.
Tô Mạch Diệp đưa cho nàng một chén trà, “Loại chuyện tình như vậy, kéo dài quả thực không có lợi, may mà con có thể tỉnh ngộ mà nhận ra sự tình, đã đến nước này, con cũng nên kiềm chế tâm tình đi”. A Lan Nhược nhận lấy chén trà, cảm ơn hắn đôi câu. Chuyện này giống như được bỏ qua ngay lúc đó, không còn được nhắc tới nữa, hai con người nhàn nhã đàm thoại một chút việc nhà, đợi đôi tình nhân bên bờ hồ quay về.
Sau buổi gặp mặt ở bên hồ, nghe lão quản sự nói, Trầm Diệp và Văn Điềm có gửi bốn bức thư qua lại. Kèm theo thư của Văn tiên sinh còn có hai món lễ vật nhỏ, một con chim tước lông trắng bằng mây tre, một cái quạt rủ thêu hoa văn cát tường, Trầm Diệp hồi đáp lại bằng hai cuốn sách.
Sách là Trầm Diệp chọn, sai hắn đi chợ mua, hai bản Thương Lãng Tử du ký. A Lan Nhược lúc đó đang cầm một chén trà ngồi bên bờ hồ cho cá ăn, không để ý tới nước trà đã làm bỏng đầu lưỡi, chậm rãi đi tới, nói với lão quản sự sau này hai người họ có thế nào cũng không cần phải trình báo lại, chung quy, Trầm Diệp tới quý phủ của nàng cũng không phải là để ăn không ngồi rồi.
Lại nói, Trầm Diệp tặng cho Văn Điềm hai cuốn sách, vậy mua hai cuốn đó về cho nàng đọc. Thật lòng mà nói, Phượng Cửu cảm thấy bội phục A Lan Nhược. Hiện tại nghĩ tới những tổn thương năm xưa của nàng, thỉnh thoảng còn muốn uống rượu giải sầu hay muốn khóc, vậy mà A Lan Nhược lại đưa trắng ý trung nhân của mình đến tay người khác, chưa nói đến A Lan Nhược không khóc hay đòi uống rượu, ngay cả một tiếng thở dài cũng không có, mỗi ngày việc cần làm vẫn cứ làm.
Phượng Cửu cảm thấy nếu như so sánh với A Lan Nhược, bản thân nàng có chút kém hơn, bỗng thấy xấu hổ. Nhưng thiên ý, không phải một người nghĩ nó thế nào nó liền như thế, mong như thế nào là được như thế. Trong cảnh sóng yên biển lặng mà xuất hiện việc ngoài ý muốn, đây mới là thiên ý.
Ba bốn ngày sau, có một đêm Trầm Diệp tới Ba Tâm đình, trong lúc vô tình chợt nhìn thấy ở bên cạnh có một gốc cây đậu đỏ, trên đó đề hai hàng chữ. Một dòng chữ cứng cáp, khắc sâu vào gốc cây, ắt hẳn là khắc bằng móc bạc, lập luận sắc sảo, chữ viết rất giống với nét chữ trong những bức thư mà hắn nhận được.
Mười sáu chữ xếp thành hai dòng: “Nguyệt chiếu Ngân Hà, phong qua mậu lâm, thoải mái chè chén, trần ưu đốn thích*”. *Ý nghĩa: Trăng chiếu xuống sông Ngân Hà, gió thổi qua rừng cây rậm rạp xanh tốt, thoải mái ăn uống no say, quên đi ưu sầu thế gian. Hơi chếch xuống phía dưới hai dòng chữ ấy có đề một dòng tên.
Hắn mượn ánh trăng phân biệt rõ từng chữ, sắc mặt chợt tái nhợt. Dòng chữ cứng cáp đề tên dưới câu nói kia là Tướng Lý A Lan Nhược. Phượng Cửu vểnh tai, nóng lòng muốn nghe câu chuyện phía sau, nhưng Tô Mạch Diệp lại gõ gõ mấy cái lỗ trên chiếc ngọc tiêu, “Lúc này chân tướng đã rõ ràng, nhưng nếu ngươi là Trầm Diệp, biết được người vẫn viết thư gửi cho ngươi không phải là Văn Điềm mà là A Lan Nhược, ngươi sẽ như thế nào?”.
Phượng Cửu chỉ nghĩ trong chốc lát, thử dò xét hỏi: “Rất đơn giản, thật vui vẻ chứ sao?”. Mạch Thiếu cười nói: “Là ta ta cũng sẽ cảm thấy rất vui vẻ, có một cô nương chịu đối tốt với ta như vậy, còn là một mỹ nhân tuyệt sắc, cho dù có nghĩ như thế nào thì đây cũng là một vụ buôn bán có lời”.
Phượng Cửu như gặp được tri âm, lập tức ngồi gần lại một chút: “Còn không phải sao!”. Tô Mạch Diệp dừng lại trong chốc lát, lại nói: “Đáng tiếc người mà A Lan Nhược gặp phải lại là Trầm Diệp, mà Trầm Diệp hắn không phải là ta, cũng không phải là ngươi”. A Lan Nhược ngồi trong thư phòng, nghênh đón cơn thịnh nộ của Trầm Diệp.
Lúc đó nàng đang dựa lưng vào ghế vừa bóc vỏ hạt dưa đọc bộ du ký Thương Lãng Tử, đột nhiên thấy một đoạn vỏ cây có khắc chữ bay thẳng tới, mạnh mẽ rơi xuống trước mặt mình. Nhìn theo hướng đoạn vỏ cây bay tới thì thấy một chiếc áo choàng màu đen, ngước lên là nét mặt bình tĩnh ẩn giấu sự giận dữ của Trầm Diệp.
Hắn từ trên cao nhìn xuống, trong ánh mắt có sự băng lạnh như sao hỏa: “Thư là ngươi viết, rượu là ngươi ủ, cờ cũng là ngươi bày. Biến ta thành một thứ đồ chơi, tùy ý trêu chọc đùa cợt, có phải là rất thú vị hay không?”. Hắn tiến lại gần một bước, sự băng lạnh trong ánh mắt càng tăng lên: “Không nghĩ tới ta cũng có một ngày bị ngươi lừa gạt mà lại thật lòng thật tâm hồi âm từng phong thư cho ngươi, trong lòng ngươi không phải là đang rất đắc ý hay sao?”.
A Lan Nhược nhìn những dòng chữ trên đoạn vỏ cây một hồi lâu, đột nhiên nói: “Sư phụ nói với ta, hoặc là ta hãy tranh giành một lần, hoặc là chặt đứt ý niệm trong đầu. Vốn là ta đã chặt đứt ý niệm trong đầu rồi, ngươi không nên tới đây”. Nàng nghĩ thêm một lát, “Cho dù có một số việc ngươi đã biết rồi, nhưng thật ra thì ngươi cũng nên làm bộ là ngươi không biết gì, hai người chúng ta, không phải nên là hai người lạ như trước kia sao?”.
Trầm Diệp nhìn nàng, giọng nói băng lạnh: “Từ trước tới giờ chúng ta chỉ là người lạ thôi sao? Chẳng lẽ không phải là căm ghét nhau sao?”. Ngón tay đặt trên trang sách của A Lan Nhược khẽ run lên, nhẹ giọng nói: “Có lẽ là, ngươi chưa từng nghĩ qua, ta không có giống ngươi, ngươi ghét ta, nhưng ta không ghét ngươi, có lẽ ta còn thật sự thích ngươi, làm những việc này thực ra là muốn cho ngươi được vui vẻ”.
Nàng ngẩng đầu lên, “Ngươi xem xem, trước khi ngươi biết những bức thư này là do ta viết, không phải là ngươi đã thực sự cảm thấy vui vẻ sao?”. Hắn lui về phía sau một bước: “Ngươi đang nói đùa”. Nàng như thể có chút lo lắng: “Nếu như không phải là trò đùa thì sao?”.
Thần sắc hắn cứng nhắc nói: “Giữa chúng ta, khả năng nào cũng có thể có, người lạ, địch nhân, kẻ thù không đội trời chung, hoặc là những khả năng khác, duy chỉ có khả năng này là không thể”. A Lan Nhược nhìn hắn một hồi lâu, cười nói: “Ta có thể là nói thật, có thể là giả dối, có lẽ là ta thật lòng thích ngươi, nhưng có lẽ là ta thật lòng muốn trêu chọc ngươi”.
Nghe nói sau đó, Trầm Diệp và Văn Điềm không còn gửi thư cho nhau nữa. Có một lần Văn Điềm gửi thư đến hỏi A Lan Nhược, nàng chỉ nói một câu đơn giản là Trầm Diệp đã biết được sự thật rồi, chuyện lúc trước dây dưa tới nàng thật có lỗi. Văn Điềm không nói gì, chỉ hồi âm an ủi nàng đôi câu.
Tô Mạch Diệp kể lại chuyện xưa tới lúc này, nhìn sắc trời đã muộn, tạm trở về nghỉ ngơi. Phượng Cửu từng nghĩ tới chuyện của A Lan Nhược và Trầm Diệp rất nhiều lần, nhưng lại không ngờ rằng câu chuyện có một mở đầu thương tâm như vậy, làm lòng nàng có chút nặng nề, lại thêm xúc động.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook