Tâm Ma
-
Chương 14: Dấu tay
******** Ngoại truyện
Chim Lạc bay khắp cõi nước Nam
Huynh Đệ anh em cả bốn phương trời.
Từ lâu, nước ta vốn là nước nông nghiệp, phần lớn người dân gắn liền với đồng ruộng, vườn tược. Chính vì vậy, những khi xảy ra dịch bệnh, mất mùa, người nông dân luôn chịu thiệt thòi nhất. Hơn nữa, do là một nước nhỏ, giặc giã liên miên, hết bị người Trung Hoa ở phía bắc xâm chiếm, rồi đến giặc Chà Và (Gia – va), Côn Lôn (Mã Lai) cướp phá, những nhà nước non trẻ mới hình thành từ thời Tiền Lý (nước Vạn Xuân – năm 544 – 602) đến triều Ngô vẫn binh biến liên miên, không đủ sức bảo vệ và mang lại cuộc sống yên bình cho người dân, thế nên người nông dân phải tự liên kết nhau lại, bảo vệ tương trợ lẫn nhau. Ban đầu, những nhóm người được hình thành từ các thôn, làng với phương châm “tối lửa tắt đèn có nhau”, giúp đỡ nhau những khi khó khăn mất mùa, sau này, lại có nạn giặc cướp, họ lại phải tự tập luyện võ nghệ, tự trang bị gậy gộc, gươm giáo mà chống lại.
Nhà Ngô suy tàn, thiên hạ đại loạn, Mười hai sứ quân đấu đá liên miên, gây nên cảnh nồi da nấu thịt, cũng lúc này, có một vị thông minh xuất chúng, người Huyện Đô Lung nằm ở thượng lưu sông Mã (nay là khu vực từ huyện Cẩm Thủy ngược lên phía tây bắc) vừa có sức khỏe lại vừa có tài thao lược, đã sáng lập ra một môn võ riêng, rồi đem chuyền lại cho mọi người, người dân vừa tôn trọng, vừa kính phục ông mà tôn ông làm thủ lĩnh, gọi ông là Lão Cả tự là Minh Kiếm, đó cũng là lúc Huynh đệ hội chính thức hình thành. Do là người lao động nặng nhọc, sức khỏe đã sẵn có, nên võ công của Minh Kiếm chủ yếu tập trung vào Chiêu và Khí. Do cuộc sống gắn liền với đồng ruộng, Minh Kiếm luận giải hình ảnh cây lúa mà sáng tạo nên bộ Kim Hòa Kiếm, gồm 3 quyển Sinh Độ, Trổ Đòng và Đoạn Trường. Chiêu kiếm phỏng theo bông lúa chín, lúa trổ bông chín vàng, uốn cong, phất phơ trong gió, có lúc dẻo dai uyển chuyển, có lúc cứng cáp, vì vậy chiêu kiếm cũng mềm mại, lúc biến chiêu, mũi kiếm thường vẽ thằng 1 đường cong như lúa trĩu bông. Kiếm dựa vào cuộc sống, bao gồm cả triết lý nhân sinh, lẽ sinh tồn diệt vong. Lúa dựa vào tự nhiên mà sống, nương theo gió theo mưa. Khí dựa vào kiếm chiêu mà thành, điểm đặc biệt của Kim Hòa Kiếm là khi sử chiêu, chân ít di chuyển, còn người thì nghiêng, ngửa dựa theo kiếm, chân đứng yên mà toàn thân hết sức linh hoạt, uyển chuyển. Bằng Kim Hòa Kiếm, Minh Kiếm uy chấn giang hồ, chỉ với bộ 3 chiêu thức là Phong Vũ Nghịch, Vĩ Hối và Lạc Phiêu mà biến chiên đã biến ảo vô cùng. Về sau, Huynh Đệ hội ngày càng phát triển, xuất hiện không ít các bậc tuấn kiệt, võ công không ngừng phát triển nhưng Kim Hòa Kiếm vẫn luôn là bảo vật chấn nhiếp.
Thiên hạ rộng lớn, ở đâu có bóng người nông dân là ở đó có người của Huynh đệ hội, sau này cả những người khốn khó như ăn mày, thợ thuyền cũng được Huynh Đệ hội che trở. Tôn chỉ duy nhất của Huynh Đệ hội là giúp đỡ kẻ khốn khó, coi trọng tình cảm mà không có hội quy lề lối cụ thể, người đứng đầu là Lão Cả cùng các Lão Hai, Lão Ba phân xử công việc, gần như mọi người đều coi nhau là anh em, không phân biệt trên dưới cấp bậc. Dân chúng Huynh Đệ hội tuy đông đảo, nhưng có cả người già, trẻ nhỏ, trẻ em, cả người có lẫn không có võ nghệ, phần lớn thời gian dành cho việc đồng áng, làm lụng, vì vậy Hội chỉ mong duy trì cuộc sống bình yên cho hội chúng mà không tranh phong với các bang phái khác.
Trải qua 3 đời Lão Cả, đến Lão Cả Mãnh Kiếm là thời kỳ bình yên nhất, triều đình nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lý Thánh Tông phát triển thịnh vượng, đất nước hòa bình, muôn dân đều ấm no, Huynh Đệ hội vì vậy mà cũng lui về sau, hội chúng vài tháng tụ hội một lần, chủ yếu là gặp mặt ăn uống hội hè, thỉnh thoảng chỉ chủ trì việc bảo vệ Hội chúng trước bọn lục lâm thảo khấu, bọn quan lại địa chủ cường hào ác bá, hay phân xử tranh chấp vướng mắc, ngòai ra cũng không có gì đáng kể. Cũng chính vì thế, thời kỳ này, việc chuyền dạy và tập luyện võ công của Huynh Đệ hội có phần không được chú trọng, dù mấy bậc Lão thì vẫn thuộc hàng đứng đầu thiên hạ nhưng hội chúng thì lơ là.
Chim Lạc bay khắp cõi nước Nam
Huynh Đệ anh em cả bốn phương trời.
Từ lâu, nước ta vốn là nước nông nghiệp, phần lớn người dân gắn liền với đồng ruộng, vườn tược. Chính vì vậy, những khi xảy ra dịch bệnh, mất mùa, người nông dân luôn chịu thiệt thòi nhất. Hơn nữa, do là một nước nhỏ, giặc giã liên miên, hết bị người Trung Hoa ở phía bắc xâm chiếm, rồi đến giặc Chà Và (Gia – va), Côn Lôn (Mã Lai) cướp phá, những nhà nước non trẻ mới hình thành từ thời Tiền Lý (nước Vạn Xuân – năm 544 – 602) đến triều Ngô vẫn binh biến liên miên, không đủ sức bảo vệ và mang lại cuộc sống yên bình cho người dân, thế nên người nông dân phải tự liên kết nhau lại, bảo vệ tương trợ lẫn nhau. Ban đầu, những nhóm người được hình thành từ các thôn, làng với phương châm “tối lửa tắt đèn có nhau”, giúp đỡ nhau những khi khó khăn mất mùa, sau này, lại có nạn giặc cướp, họ lại phải tự tập luyện võ nghệ, tự trang bị gậy gộc, gươm giáo mà chống lại.
Nhà Ngô suy tàn, thiên hạ đại loạn, Mười hai sứ quân đấu đá liên miên, gây nên cảnh nồi da nấu thịt, cũng lúc này, có một vị thông minh xuất chúng, người Huyện Đô Lung nằm ở thượng lưu sông Mã (nay là khu vực từ huyện Cẩm Thủy ngược lên phía tây bắc) vừa có sức khỏe lại vừa có tài thao lược, đã sáng lập ra một môn võ riêng, rồi đem chuyền lại cho mọi người, người dân vừa tôn trọng, vừa kính phục ông mà tôn ông làm thủ lĩnh, gọi ông là Lão Cả tự là Minh Kiếm, đó cũng là lúc Huynh đệ hội chính thức hình thành. Do là người lao động nặng nhọc, sức khỏe đã sẵn có, nên võ công của Minh Kiếm chủ yếu tập trung vào Chiêu và Khí. Do cuộc sống gắn liền với đồng ruộng, Minh Kiếm luận giải hình ảnh cây lúa mà sáng tạo nên bộ Kim Hòa Kiếm, gồm 3 quyển Sinh Độ, Trổ Đòng và Đoạn Trường. Chiêu kiếm phỏng theo bông lúa chín, lúa trổ bông chín vàng, uốn cong, phất phơ trong gió, có lúc dẻo dai uyển chuyển, có lúc cứng cáp, vì vậy chiêu kiếm cũng mềm mại, lúc biến chiêu, mũi kiếm thường vẽ thằng 1 đường cong như lúa trĩu bông. Kiếm dựa vào cuộc sống, bao gồm cả triết lý nhân sinh, lẽ sinh tồn diệt vong. Lúa dựa vào tự nhiên mà sống, nương theo gió theo mưa. Khí dựa vào kiếm chiêu mà thành, điểm đặc biệt của Kim Hòa Kiếm là khi sử chiêu, chân ít di chuyển, còn người thì nghiêng, ngửa dựa theo kiếm, chân đứng yên mà toàn thân hết sức linh hoạt, uyển chuyển. Bằng Kim Hòa Kiếm, Minh Kiếm uy chấn giang hồ, chỉ với bộ 3 chiêu thức là Phong Vũ Nghịch, Vĩ Hối và Lạc Phiêu mà biến chiên đã biến ảo vô cùng. Về sau, Huynh Đệ hội ngày càng phát triển, xuất hiện không ít các bậc tuấn kiệt, võ công không ngừng phát triển nhưng Kim Hòa Kiếm vẫn luôn là bảo vật chấn nhiếp.
Thiên hạ rộng lớn, ở đâu có bóng người nông dân là ở đó có người của Huynh đệ hội, sau này cả những người khốn khó như ăn mày, thợ thuyền cũng được Huynh Đệ hội che trở. Tôn chỉ duy nhất của Huynh Đệ hội là giúp đỡ kẻ khốn khó, coi trọng tình cảm mà không có hội quy lề lối cụ thể, người đứng đầu là Lão Cả cùng các Lão Hai, Lão Ba phân xử công việc, gần như mọi người đều coi nhau là anh em, không phân biệt trên dưới cấp bậc. Dân chúng Huynh Đệ hội tuy đông đảo, nhưng có cả người già, trẻ nhỏ, trẻ em, cả người có lẫn không có võ nghệ, phần lớn thời gian dành cho việc đồng áng, làm lụng, vì vậy Hội chỉ mong duy trì cuộc sống bình yên cho hội chúng mà không tranh phong với các bang phái khác.
Trải qua 3 đời Lão Cả, đến Lão Cả Mãnh Kiếm là thời kỳ bình yên nhất, triều đình nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lý Thánh Tông phát triển thịnh vượng, đất nước hòa bình, muôn dân đều ấm no, Huynh Đệ hội vì vậy mà cũng lui về sau, hội chúng vài tháng tụ hội một lần, chủ yếu là gặp mặt ăn uống hội hè, thỉnh thoảng chỉ chủ trì việc bảo vệ Hội chúng trước bọn lục lâm thảo khấu, bọn quan lại địa chủ cường hào ác bá, hay phân xử tranh chấp vướng mắc, ngòai ra cũng không có gì đáng kể. Cũng chính vì thế, thời kỳ này, việc chuyền dạy và tập luyện võ công của Huynh Đệ hội có phần không được chú trọng, dù mấy bậc Lão thì vẫn thuộc hàng đứng đầu thiên hạ nhưng hội chúng thì lơ là.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook