Sát Phá Lang - Priest
-
Quyển 4 - Chương 115: Lật bàn
“Ta cảm thấy khuôn mặt này hơi quen.” Cố Quân cầm một cây gậy gỗ, ngắm nghía “nữ nhân” dưới đất một hồi, đưa ra kết luận.
Lều Lang vương của Gia Lai Huỳnh Hoặc bị người của Huyền Thiết doanh lục tung lên, phát hiện bên trong không có châu báu quý hiếm, cũng chẳng có thiết võng san hô, trông thì khí phái nhưng thực tế nghèo kiết, hiển nhiên trước khi vét sạch của cải các quý tộc, ngay chính bản thân hắn cũng không buông tha, thật là một kẻ điên chí công vô tư.
Khiến Cố Quân vô cùng thất vọng là, họ rốt cuộc cũng không thể tìm được bí thuật vu độc của thần nữ trong truyền thuyết.
Nghĩ lại cũng phải, chỉ có người Đại Lương mới thích viết mọi chuyện lên giấy, đóng thành sách, trong mười tám bộ lạc bảo tồn rất nhiều tập tục nguyên thủy, một số việc cần ghi chép có thể khắc trên đá, trên mai rùa, trên da… hoặc truyền miệng luôn, bí thuật vu độc họ một lòng muốn tìm chưa biết chừng chỉ giấu trong đầu Gia Lai, bị đốt thành tro bụi rồi.
Cuối cùng, chỉ có một bức tượng quỷ dị như vậy do sự kiên trì của Trần Khinh Nhứ mà được mang về chỗ trú quân Bắc cương.
“Ban nãy Trần cô nương nói thứ này khả năng là cái gì?” Cố Quân thuận miệng hỏi thân binh bên cạnh, “Ngẫu gì?” (Ngẫu: tượng)
“Hồn ngẫu.” Thân binh trả lời, thấy Cố Quân chẳng kiêng kỵ gì dùng cây gỗ chọc tới chọc lui, lại không nhịn được nói, “Đại soái, tôi thấy thứ này rất âm độc, chưa biết chừng có cái gì không sạch sẽ, ngài nên tránh xa ra thì hơn.”
“Hồn ngẫu” kích cỡ bằng người thật, nặng chẳng qua hai ba mươi cân, sau khi rửa sạch, da thịt diện mạo trông chẳng khác gì người thật, giống như mở mắt ra là có thể nói chuyện vậy.
Nghe nói đây kỳ thực không hề là một tấm da người hoàn chỉnh, mà là lấy da tốt nhất của rất nhiều thiếu nam hoặc thiếu nữ ghép lại, sau đó dùng thủ đoạn vu độc xử lý, kết thành một mảnh, bọc lên gỗ, khúc gỗ trước đó gọt thành hình người hoàn chỉnh, như vậy dán da người khít vào gỗ là có thể phỏng chế ra một người giả sống động như thật.
Mười tám bộ lạc tin loại hồn ngẫu này có thể gọi hồn phách người chết tha hương trở về.
Mới đầu pho hồn ngẫu này bám một lớp bụi, sau khi rửa sạch thì hoàn toàn như một người thật trần truồng, Thẩm Dịch chê vật này không ra thể thống gì, đặc biệt sai người tìm quần áo “mặc” cho nó.
Cố Quân nhìn mi mắt nhắm chặt của hồn ngẫu kia, cảm thấy hơi giống Trường Canh lúc nhỏ, y dùng ngón tay cọ cằm, cố gắng lục tìm trong trí nhớ, hỏi: “Ngươi nói nó chiêu là hồn vị man phi năm đó sao?”
Thân binh tin tà, không dám nhìn lắm, kinh hồn táng đảm nói: “Đại soái, nên mau mau dẹp đi, thứ này thần thần quỷ quỷ thấy ghê quá…”
“Không sao,” Cố Quân nhìn mặt hồn ngẫu một cái, thuận miệng nói, “Ta cảm thấy nàng ta còn rất đẹp.”
Thân binh: “…”
Dạo này Cố soái phải kiêm cố chiến trường nam bắc, chỉ sợ là mệt đến phát điên rồi.
Đúng lúc này, Trần Khinh Nhứ vốn không yên tâm đi thăm Thẩm Dịch thình lình xông vào: “Ta nhớ ra rồi!”
Cố Quân: “Hở?”
Chỉ thấy Trần Khinh Nhứ chẳng biết rút từ đâu ra một cây đao, nửa quỳ xuống đất, trong ánh nhìn chăm chú của Cố Quân và thân binh cực kỳ mê tín kia, phanh ngực hồn ngẫu ra.
Cố Quân: “…”
Thân binh kia sợ run bần bật, quay mặt đi niệm “A di đà Phật”, Cố Quân nhìn hắn, lại ngó Trần cô nương như đầu bếp thái thịt trâu, đưa cây gậy cho thân binh câm như ve sầu mùa đông, thương hại nói: “Cầm trừ tà phòng thân đi.”
Trần Khinh Nhứ không để ý xung quanh, tập trung tinh thần vào mũi đao, tấm da người nọ trông bên ngoài nhẵn nhụi, thậm chí rất mềm, rạch ra bên trong không có máu thịt, sạch sẽ tách ra hai bên, như da trâu đã thuộc vậy, Trần Khinh Nhứ nắm giữ lực đạo cực tốt, rạch da người ra nhưng không đụng gì đến gỗ bên dưới.
Cố Quân mới đầu vô công rồi nghề đứng xem, bỗng nhiên, y híp mắt lại, xắn tay áo ngồi xổm xuống, không e dè dùng tay nhẹ nhàng vén miếng da kia lên, cẩn thận chạm vào mặt ngoài khúc gỗ.
Thân binh mặt mày tái mét, hoảng hốt cáo tội, rồi xách cây gậy trừ tà Đại soái cho chạy ra ngoài trông cửa.
Cố Quân sờ một lúc lâu, nghi hoặc nói: “Sao vậy, trên khúc gỗ này còn có chữ à?”
Trần Khinh Nhứ đã rạch tấm da từ đầu đến chân, nàng như lột vỏ trứng sống, thay một con dao nhỏ hơn, cẩn thận tách dần từng chút, cho đến khi lộ ra cả khúc gỗ hình người, nàng mới khẽ thở phào, tranh thủ đáp Cố Quân: “Có, nhưng khắc vừa nhỏ vừa cạn, cần phải là người xúc cảm cực nhạy bén mới sờ thấy, người bình thường muốn xem chỉ sợ phải nhờ vào công cụ – Đại soái có thể giúp ta xem thử trên đây viết gì không?”
Huyền Thiết doanh và mười tám bộ lạc có thể nói là túc địch hai đời, trong Huyền Thiết doanh rất nhiều tướng lĩnh cấp cao đều biết tiếng man thường dùng, Cố Quân sờ cổ khúc gỗ hình người đó một lát, chần chừ rất lâu mới trả lời: “Đều là những chữ lạ, chưng nấu… cái gì… không biết, phần sau là một con số… A, hình như còn nhắc tới ánh nắng gì đó…”
Cố Quân mù tịt nhìn Trần Khinh Nhứ: “Tại sao trên hồn ngẫu này lại khắc một bản thực đơn thần thần bí bí? Ơ… Trần cô nương, cô làm sao thế?”
Cố Quân chưa bao giờ nhìn thấy vẻ kích động như vậy trên mặt Trần Khinh Nhứ, trong đôi mắt lạnh băng kia cơ hồ ngấn lệ.
Nàng như chưa bao giờ thấy gỗ, hai tay ôm khúc gỗ hình người nọ lên, dùng mảnh lụa cẩn thận lau chùi bụi đất, như ôm một báu vật hiếm có vậy.
“Hồn ngẫu nếu có thể dẫn linh hồn tha hương trở về, cần câu thông sinh tử, cách làm thông thường là giấu một vật tùy thân của người đó trong tâm gỗ. Nhưng đã dùng phương pháp này tế vong hồn, thì người chết thường cách xa ngàn vạn dặm, quá nửa là không tìm thấy nơi táng thân, cho nên vật tùy thân không phải lần nào cũng lấy được. Ta cũng vừa mới nhớ ra, trong tình huống thế này, người thi pháp thường dùng di ngôn người chết lưu lại, hoặc minh ngôn có thể đại diện cho người chết để thay thế. (Minh trong minh ngôn là khắc)
“Năm đó tỷ muội man tộc đào vong khỏi thâm cung, tỷ tỷ mất nơi đất khách quê người, muội muội mang theo con nàng ta lưu lạc hang phỉ. Quý phi trước khi chết đã để lại một thứ vô cùng quan trọng cho Hồ Cách Nhĩ, sau đó qua tay Hồ Cách Nhĩ, cuối cùng rơi vào tay Lang vương Gia Lai…”
Cố Quân nghe thế, trái tim đột ngột đập như điên.
“Chính là bí thuật của thần nữ.” Trần Khinh Nhứ chỉ ra suy nghĩ trong lòng y, “Ta… Ta vốn nghĩ có khả năng này, ai ngờ lại là thật…”
Ấn tượng của mọi người với “thần nữ man tộc” chỉ còn lại hình tượng mụ điên Hồ Cách Nhĩ, vị quý phi kia ngược lại không có cảm giác tồn tại. Nàng ta chết quá sớm, từ “bán thần” thảo nguyên cao cao tại thượng luân lạc vào hậu cung cửu môn đóng chặt, trong lòng là oán là hận hay cam chịu số phận, đến nay cũng chẳng thể nào biết được.
Mà thái độ của nàng ta với con mình là gì?
Chắc hẳn theo nhân chi thường tình thì nên là oán hận, ngay cả Gia Lai nhìn thấy gương mặt Trường Canh lúc nhỏ giống hệt tỷ muội thần nữ, cũng không nhịn được sinh ra sát ý, huống chi đương sự?
Nhưng thuật vu độc của mười tám bộ lạc thần quỷ khó lường như vậy, ngay cả Trần gia cũng bó tay rất nhiều năm, quý phi là người thừa kế, muốn xử lý một thai nhi chưa thành hình có thể làm đến thần không biết quỷ không hay, vì sao phải giữ đứa trẻ đó lại?
Nàng biết đứa trẻ ấy cuối cùng sẽ bị Hồ Cách Nhĩ phát điên làm thành Ô Nhĩ Cốt sao?
Người xưa đã chết gần hết rồi, chẳng còn ai biết nữa, năm ấy thần nữ man tộc quyết định giữ lại đứa trẻ kia rốt cuộc là xuất phát từ sự không nỡ của một người làm mẹ, hay vừa vặn biết Hồ Cách Nhĩ hoài thai đứa khác, xuất phát từ nỗi oán hận vong tộc diệt chủng, muốn tạo ra một tà thần có một không hai.
Nhưng vô luận thế nào, vòng tới vòng lui, vẫn là hồn ngẫu của thần nữ để lại một đường sinh cơ cho Trường Canh.
Điều này cơ hồ có chút huyền diệu của nhân quả tương sinh.
Trần Khinh Nhứ không định thảo luận nhân quả báo ứng, nàng toàn tâm toàn ý đặt vào khúc gỗ này, không đợi Cố Quân có phản ứng, đã ôm người gỗ chạy như bị điên, ngay cả mảnh lụa rơi xuống đất cũng chẳng thèm nhặt. Cố Quân ngây ra hồi lâu, một hơi trong lồng ngực chậm chạp thở ra, hi vọng không cách nào tả nổi làm tắc ngực một lúc, vừa đứng dậy thì trước mắt tối sầm, cả buổi mới đỡ, nhưng vẫn còn ù tai.
Y khó lòng kiềm chế đưa tay cọ cằm, cố hết sức muốn nặn ra khuôn mặt bình thường mà nghiêm túc, chân mày vô thức nhíu lại, nhưng khóe môi không thể khống chế nhếch lên nét cười. Sự nghiêm túc cố tạo cùng vẻ vui mừng khó kìm nén đan thành một khuôn mặt “dở khóc dở cười” đúng chuẩn, chính Cố Quân cũng cảm thấy hình tượng của mình hiện giờ chỉ sợ là hơi điên.
Lúc này, thân binh của Thẩm tướng quân cách vách ở ngoài trướng thò đầu vào nhìn ngó giây lát, hỏi: “Trần thần y rốt cuộc đi rồi à?”
“Đi rồi,” Cố Quân nghe thấy thân binh của mình trả lời, “Sao vậy, có việc gì à?”
Tiểu binh hỏi thăm hành tung thần y kia vội lắc đầu, chạy về báo.
Ngay sau đó, Cố Quân nghe thấy trong lều Thẩm tướng quân vọng sang tiếng rên rỉ không biết kìm ném bao lâu rồi.
Lưng Thẩm Dịch vừa bị thương vừa bị phỏng, thê thảm vô cùng, nhưng y vẫn cứng xương cự tuyệt Trần cô nương chữa trị và thăm hỏi, năm lần bảy lượt nhốt Trần cô nương đến thăm ở bên ngoài, kiên quyết không chịu để nàng nhìn thấy vẻ thảm thương của mình, còn dứt khoát tìm một vị quân y sở trường giết heo tới xử lý vết thương, trong lúc này bốn năm lần phái người lén sang nghe ngóng, nén đến khi Trần Khinh Nhứ rốt cuộc đi rồi, cuối cùng đã có thể thỏa sức tru lên.
Cố Quân lắng tai nghe một lúc, chỉ cảm thấy đau đẻ cũng chưa chắc kêu thảm như vậy, rất không đành lòng, bèn nhặt mảnh lụa dưới đất lên, giũ hết tro bụi, ra ngoài đưa cho tiểu thân binh của mình, phân phó: “Mau đưa cho Thẩm tướng quân, dùng giảm đau.”
Bất kể mảnh lụa kia đã lau cái gì, hiệu quả dù sao cũng hết sức linh nghiệm, lụa vừa đưa sang thì tiếng gào thét của Thẩm Dịch lập tức nhỏ đi rất nhiều.
Cố Quân bụng dạ xấu xa lấy huynh đệ ra tiêu khiển chán chê, quay về soái trướng, vốn định trả lời hết đống chiến báo và thư tín của các vùng trú quân lớn tồn đọng trên bàn, cầm bút lên mới phát hiện mình hoàn toàn không tĩnh tâm được.
Mỗi một chữ trên chiến báo y đều biết, song không thể liền thành một câu mà nhảy vào mắt, y ba hồi lan man nghĩ: “Trên khúc gỗ đó liệu có phải chỉ ghi cách làm mà không có cách giải?”
Ba hồi lại nghĩ: “Thế cũng không hề gì, chỉ cần có chân tướng về Ô Nhĩ Cốt, Trần gia chung quy có thể nghĩ ra biện pháp.”
Một lúc sau lại thầm nghĩ: “Sẽ không bắt ta phải thắp nhang cho đám lừa trọc Hộ Quốc tự thật chứ? Mẹ ơi…”
… Trăn qua trở lại đủ thứ, chẳng có đầu mối.
Mà ngay trong ngàn đầu vạn mối này, tư niệm khó bề tả rõ giết ra một đường máu, nhảy vào lòng y.
Mực trên ngòi bút rơi xuống một giọt, Cố Quân cuối cùng định thần lại, đẩy hết mớ công vụ rườm rà đi, như phù sinh thâu hoan mà lấy giấy viết thư ra, bắt đầu đường hoàng dùng thời gian làm việc công để lo chuyện tư tình.
Nhân gian tháng Tư, vùng Lưỡng Giang hương thơm đã sắp hết, mưa dầm dề ướt đẫm từ trên mặt sông bốc hơi lên.
Hơn một tháng nay, Trường Canh liên tục ở Giang Bắc, y thoạt tiên một tay lo liệu tang sự của Chung lão tướng quân, sau đó Phương Khâm lại dâng tấu lên đề nghị Hoàng đế Long An giữ Nhạn vương lại chỗ cũ, hiệp trợ sứ giả triều đình thúc đẩy việc đàm phán với Tây Dương.
Tuy Nhạn vương đã bước xuống chính đàn, nhưng Phương Khâm vẫn cảm thấy y ở kinh thành là một việc như hóc xương trong họng vậy.
Theo lý đả xà tùy côn, đối phó kẻ địch chính trị nên một kích tất sát, nhưng cớ từ quan của Nhạn vương không phải do bản thân Phương Khâm bày ra, cả sự việc không nằm trong tầm khống chế của hắn, vả lại thân phận Nhạn thân vương rất khó xử lý, trừ đại tội mưu phản ra, quả thật cũng chẳng còn cái gì có thể đuổi tận giết tuyệt y.
Phương Khâm đành phải nghĩ mọi cách đuổi y đi thật xa.
Hai chữ “hiệp trợ” cực kỳ vi diệu, ý nghĩa là chuyện này không phải do Nhạn vương chủ đạo, y chỉ có nghĩa vụ, không có quyền lực. Thành công cũng là công lao của chính sứ, nhưng vạn nhất có rắc rối gì, thì sẽ có nhiều chỗ để bôi nhọ Nhạn vương.
Tiếc thay, trời không chiều lòng người, “rắc rối” Phương Khâm hi vọng nhìn thấy không xuất hiện, Nhạn vương ở đại doanh Giang Bắc như cá gặp nước, nhân duyên cực tốt. Y vốn đã rất được yêu quý, lại có tình cảm kề vai chiến đấu với chúng tướng sĩ, còn có thể diện của Chung lão tướng quân và Cố Quân bảo đảm cho.
Sứ giả triều đình phái ra rất tinh mắt, sau khi đến Giang Bắc hết thảy răm rắp nghe theo Nhạn vương, lại thêm Cố Quân bình nhật thư từ không ngừng, mươi bữa nửa tháng còn đặc biệt đến thăm, việc ức hiếp người Tây Dương ở ven bờ Lưỡng Giang có thể nói là hết sức thuận lợi, trong lúc này đánh ba bốn chiến dịch cỡ nhỏ trên sông, lợi chiếm được, binh cũng được luyện, Lý Phong cũng chẳng thể nói gì, ngược lại cảm thấy hơi có lỗi với Nhạn vương – xa thơm gần thối chính là đạo lý này.
Mà cùng lúc đó, một việc khác làm Phương Khâm bất ngờ đã xảy ra, khiến hắn chẳng còn tinh lực để thừa cơ xếp thế lực vào vùng Lưỡng Giang-
Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên đến kỳ, phải trả tiền.
Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên có vị trí cực kỳ đặc biệt, nói là thuốc khởi tử hồi sinh cho vương triều Đại Lương khó khăn dồn dập cũng không quá, lúc ấy nếu không phải có khoản vật tư này chèo chống cho Cố Quân thắng trận ở Tây Vực, trong tình huống chiến trường phương Bắc nguy khốn, tử lưu kim trong nước lại hết sạch, quân Tây Dương bao vây kinh thành lần nữa chỉ là vấn đề thời gian.
Những người mua phong hỏa phiếu đợt đầu có đại ân với quốc gia, về tình về lý nợ nần này phải trả, nếu triều đình không trả nổi tiền, chẳng những là thất tín với người ta, về sau phong hỏa phiếu không phát hành nổi cũng là khẳng định, chính lệnh “phong hỏa phiếu ở dân gian đồng giá với vàng bạc, cấm thương hộ từ chối nhận” mà trước đó Nhạn vương vất vả thi hành cũng thành công cốc.
Cứ thế, cho dù người khác đồng ý, đám quan to triều đình lúc đầu vì mũ cánh chuồn mà bịt mũi mua hàng loạt phong hỏa phiếu cũng không thể đồng ý.
Cho đến lúc này, Phương Khâm mới không thể không thừa nhận, Nhạn vương tuy thủ đoạn quyết liệt, mượn đao giết chính địch chưa từng chùn tay, động đao cải cách muốn khoét thịt ai thì khoét, thậm chí đắc tội hàng loạt… Nhưng y chung quy sớm gieo xuống một hạt giống, địch ta bất phân mà trói cả triều lên tặc thuyền của y.
Theo kế hoạch ban đầu của Sở quân cơ, bắt đầu từ lúc bán đợt phong hỏa phiếu thứ nhất thì đã có phương án kế tiếp: đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa vặn tung ra một tháng trước kỳ hạn, theo kinh nghiệm ngày trước, một tháng có thể bán chừng bảy tám phần, trong khoản tiền xoay được này, có một phần là dự lưu cho trả nợ nần đợt đầu, vô luận là thời gian hay số tiền đều dư dả.
Song không ai liệu được là, Nhạn vương vừa đi thì thương nhân dân gian lớn nhỏ không thèm nể mặt nữa!
Phương Khâm biết mười ba cự cổ âm thầm đứng bên Nhạn vương, nhưng Đại Lương lãnh thổ bao la, chẳng lẽ trừ mấy kẻ dã tâm bừng bừng muốn tham chính này ra, người khác đều không buôn bán gì sao? Lại thêm đám quan viên liều mạng bò lên trên, mỗi tỉnh cho một chỉ tiêu, rất dễ dàng kiếm được khoản tiền này.
Thế nhưng hắn đã xem thường liên minh thương hộ.
Đây là Đỗ tài thần được sự gợi ý của Nhạn vương, trong khoảng thời gian hậu chiến toàn lực thúc đẩy. Các ngành nghề có thương hội của các ngành nghề, tất cả thương hội hợp thành một liên minh lớn, tuy thành viên sẽ bị thương hội ước thúc, nhưng cũng được hưởng lợi ích, mua bán hàng hóa với thành viên khác được ưu đãi thì không cần nhắc nữa, chủ yếu là trong loạn thế trộm cướp hoành hành, nếu có ấn kiện của thương hội, có thể thỉnh cầu quan phủ trú quân các nơi bảo vệ – đây là đặc quyền lúc ấy triều đình dành cho mười ba cự cổ mua phong hỏa phiếu đợt đầu, Đỗ Vạn Toàn khẳng khái chia sẻ.
Mà rất nhiều thương hộ dần dần phát hiện, chịu ước thúc không phải là chuyện xấu, có dấu hiệu của đại thương hội, độ tín nhiệm của người mua dân gian cũng tăng lên không ít, không cần rơi vào cuộc chiến giá cả với đám thương gia bán hàng giả hàng dỏm nữa.
Tấm lưới liên minh thương hộ này mau chóng giăng ra toàn quốc, có lẽ mấy chục năm sau cũng sẽ sinh ra đủ các vấn đề, nhưng lúc này khi mới thành lập, độ trung thực của thành viên đều cực kỳ cao, nghiễm nhiên thành một tấm sắt trước mặt Phương Khâm.
Đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa bắt đầu đã bị cản trở, ngoại trừ một số quan viên vì cái lợi trước mắt mới đầu tiêu hóa một chút, thì cơ hồ hoàn toàn chẳng đẩy đi được – sự không phối hợp lạ lùng của thương hội khiến người ta sinh ra rất nhiều nghi ngờ, đám lão hồ ly trong triều trông hướng gió mà lay theo.
Mà lợi dụ không thành, uy bức cũng không thành. Tân quý do mười ba cự cổ ở phía sau hỗ trợ đã nên trò trống, muốn động vào họ đã không dễ dàng như vậy.
Phong hỏa phiếu do Sở quân cơ thi hành, nhưng Sở quân cơ cũng chỉ phụ trách thi hành, khoản tiền ra vào đều qua Hộ bộ, Phương Khâm chỉ hận không thể kêu đám vây cánh tự bỏ tiền túi – Song như muối bỏ biển, không nói đến các đại thế gia có sẵn lòng móc tiền hay không, cho dù sẵn lòng, thực sự mắt cũng không chớp mà moi ra một khoản lớn như vậy, hai viện nghèo kiết xác lúc trước đến cả Nhạn vương cũng có thể mắng vỡ mặt nhất định ùa lên, không làm um lên là không thôi.
Kỳ hạn ngày càng tới gần, theo đó ngay cả Lý Phong cũng ngồi không yên, nhiều lần đích thân hỏi đến, trong ba bốn ngày, gọi Phương Khâm và Sở quân cơ vào cung răn dạy không mười lần cũng phải đến tám, rốt cuộc áp lực nặng đến gánh hết nổi, lục bộ không thể không liên hợp dâng tấu lên Sở quân cơ, mời Nhạn vương về triều.
Lúc chính lệnh đưa đến Giang Bắc, Trường Canh vô cùng bình tĩnh tiếp chỉ, sau đó đâu vào đấy bàn giao quân vụ, giữ vững thái độ “không quan tâm hơn thua”, giống như chẳng sốt ruột trở về chút nào, cho đến khi lệnh khẩn thứ hai đưa đến, y mới thủng thỉnh thu dọn hành lý chuẩn bị về phương Bắc.
Đang định đi thì tin Bắc cương đại thắng đã đến.
Nhất thời cả Giang Bắc sôi sùng sục, Trường Canh vừa nghe tiếng reo vui khóc lóc khắp nơi, vừa nhận thư từ tay tín sứ.
Trong thư từ Cố Quân gửi Trường Canh, có một số là tư tín thuần túy, một số thì dặn dò Nhạn vương chính sự, Trường Canh rất có kinh nghiệm, trước khi mở ra dùng tay sờ là biết ngay công hay tư – công sự của Cố Quân thông thường chỉ có một tờ giấy mỏng dính với dăm ba câu. Lúc nhận thư từ tay tín sứ huyền ưng, trong chớp mắt y hơi thất vọng, bởi vì sờ thấy rất mỏng, chắc hẳn không có lời gì riêng tư.
Trường Canh thuận miệng dặn huyền ưng: “Có thể bên phía Cố soái còn chưa biết, ta hôm nay sẽ phải lên đường về kinh, công việc ở Giang Bắc đã bàn giao xong, làm phiền huynh đệ trở về báo một tiếng.”
Nói xong, y không hề kiêng dè bóc thư ngay trước mặt mọi người.
Bên trong quả thật chỉ có một tờ giấy, trên vẽ một bàn tay, Cố Quân viết một hàng chữ: “Gửi kèm một tay đến Giang Bắc, thay ta đo xem thắt lưng người ấy có to ra hay không.” (Người ấy – y nhân mà 16 dùng thường dùng cho nữ giới)
Mọi người mù tịt nhìn Nhạn vương chẳng biết xem gì mà lâu như vậy, sau đó đỏ bừng mặt.
Lều Lang vương của Gia Lai Huỳnh Hoặc bị người của Huyền Thiết doanh lục tung lên, phát hiện bên trong không có châu báu quý hiếm, cũng chẳng có thiết võng san hô, trông thì khí phái nhưng thực tế nghèo kiết, hiển nhiên trước khi vét sạch của cải các quý tộc, ngay chính bản thân hắn cũng không buông tha, thật là một kẻ điên chí công vô tư.
Khiến Cố Quân vô cùng thất vọng là, họ rốt cuộc cũng không thể tìm được bí thuật vu độc của thần nữ trong truyền thuyết.
Nghĩ lại cũng phải, chỉ có người Đại Lương mới thích viết mọi chuyện lên giấy, đóng thành sách, trong mười tám bộ lạc bảo tồn rất nhiều tập tục nguyên thủy, một số việc cần ghi chép có thể khắc trên đá, trên mai rùa, trên da… hoặc truyền miệng luôn, bí thuật vu độc họ một lòng muốn tìm chưa biết chừng chỉ giấu trong đầu Gia Lai, bị đốt thành tro bụi rồi.
Cuối cùng, chỉ có một bức tượng quỷ dị như vậy do sự kiên trì của Trần Khinh Nhứ mà được mang về chỗ trú quân Bắc cương.
“Ban nãy Trần cô nương nói thứ này khả năng là cái gì?” Cố Quân thuận miệng hỏi thân binh bên cạnh, “Ngẫu gì?” (Ngẫu: tượng)
“Hồn ngẫu.” Thân binh trả lời, thấy Cố Quân chẳng kiêng kỵ gì dùng cây gỗ chọc tới chọc lui, lại không nhịn được nói, “Đại soái, tôi thấy thứ này rất âm độc, chưa biết chừng có cái gì không sạch sẽ, ngài nên tránh xa ra thì hơn.”
“Hồn ngẫu” kích cỡ bằng người thật, nặng chẳng qua hai ba mươi cân, sau khi rửa sạch, da thịt diện mạo trông chẳng khác gì người thật, giống như mở mắt ra là có thể nói chuyện vậy.
Nghe nói đây kỳ thực không hề là một tấm da người hoàn chỉnh, mà là lấy da tốt nhất của rất nhiều thiếu nam hoặc thiếu nữ ghép lại, sau đó dùng thủ đoạn vu độc xử lý, kết thành một mảnh, bọc lên gỗ, khúc gỗ trước đó gọt thành hình người hoàn chỉnh, như vậy dán da người khít vào gỗ là có thể phỏng chế ra một người giả sống động như thật.
Mười tám bộ lạc tin loại hồn ngẫu này có thể gọi hồn phách người chết tha hương trở về.
Mới đầu pho hồn ngẫu này bám một lớp bụi, sau khi rửa sạch thì hoàn toàn như một người thật trần truồng, Thẩm Dịch chê vật này không ra thể thống gì, đặc biệt sai người tìm quần áo “mặc” cho nó.
Cố Quân nhìn mi mắt nhắm chặt của hồn ngẫu kia, cảm thấy hơi giống Trường Canh lúc nhỏ, y dùng ngón tay cọ cằm, cố gắng lục tìm trong trí nhớ, hỏi: “Ngươi nói nó chiêu là hồn vị man phi năm đó sao?”
Thân binh tin tà, không dám nhìn lắm, kinh hồn táng đảm nói: “Đại soái, nên mau mau dẹp đi, thứ này thần thần quỷ quỷ thấy ghê quá…”
“Không sao,” Cố Quân nhìn mặt hồn ngẫu một cái, thuận miệng nói, “Ta cảm thấy nàng ta còn rất đẹp.”
Thân binh: “…”
Dạo này Cố soái phải kiêm cố chiến trường nam bắc, chỉ sợ là mệt đến phát điên rồi.
Đúng lúc này, Trần Khinh Nhứ vốn không yên tâm đi thăm Thẩm Dịch thình lình xông vào: “Ta nhớ ra rồi!”
Cố Quân: “Hở?”
Chỉ thấy Trần Khinh Nhứ chẳng biết rút từ đâu ra một cây đao, nửa quỳ xuống đất, trong ánh nhìn chăm chú của Cố Quân và thân binh cực kỳ mê tín kia, phanh ngực hồn ngẫu ra.
Cố Quân: “…”
Thân binh kia sợ run bần bật, quay mặt đi niệm “A di đà Phật”, Cố Quân nhìn hắn, lại ngó Trần cô nương như đầu bếp thái thịt trâu, đưa cây gậy cho thân binh câm như ve sầu mùa đông, thương hại nói: “Cầm trừ tà phòng thân đi.”
Trần Khinh Nhứ không để ý xung quanh, tập trung tinh thần vào mũi đao, tấm da người nọ trông bên ngoài nhẵn nhụi, thậm chí rất mềm, rạch ra bên trong không có máu thịt, sạch sẽ tách ra hai bên, như da trâu đã thuộc vậy, Trần Khinh Nhứ nắm giữ lực đạo cực tốt, rạch da người ra nhưng không đụng gì đến gỗ bên dưới.
Cố Quân mới đầu vô công rồi nghề đứng xem, bỗng nhiên, y híp mắt lại, xắn tay áo ngồi xổm xuống, không e dè dùng tay nhẹ nhàng vén miếng da kia lên, cẩn thận chạm vào mặt ngoài khúc gỗ.
Thân binh mặt mày tái mét, hoảng hốt cáo tội, rồi xách cây gậy trừ tà Đại soái cho chạy ra ngoài trông cửa.
Cố Quân sờ một lúc lâu, nghi hoặc nói: “Sao vậy, trên khúc gỗ này còn có chữ à?”
Trần Khinh Nhứ đã rạch tấm da từ đầu đến chân, nàng như lột vỏ trứng sống, thay một con dao nhỏ hơn, cẩn thận tách dần từng chút, cho đến khi lộ ra cả khúc gỗ hình người, nàng mới khẽ thở phào, tranh thủ đáp Cố Quân: “Có, nhưng khắc vừa nhỏ vừa cạn, cần phải là người xúc cảm cực nhạy bén mới sờ thấy, người bình thường muốn xem chỉ sợ phải nhờ vào công cụ – Đại soái có thể giúp ta xem thử trên đây viết gì không?”
Huyền Thiết doanh và mười tám bộ lạc có thể nói là túc địch hai đời, trong Huyền Thiết doanh rất nhiều tướng lĩnh cấp cao đều biết tiếng man thường dùng, Cố Quân sờ cổ khúc gỗ hình người đó một lát, chần chừ rất lâu mới trả lời: “Đều là những chữ lạ, chưng nấu… cái gì… không biết, phần sau là một con số… A, hình như còn nhắc tới ánh nắng gì đó…”
Cố Quân mù tịt nhìn Trần Khinh Nhứ: “Tại sao trên hồn ngẫu này lại khắc một bản thực đơn thần thần bí bí? Ơ… Trần cô nương, cô làm sao thế?”
Cố Quân chưa bao giờ nhìn thấy vẻ kích động như vậy trên mặt Trần Khinh Nhứ, trong đôi mắt lạnh băng kia cơ hồ ngấn lệ.
Nàng như chưa bao giờ thấy gỗ, hai tay ôm khúc gỗ hình người nọ lên, dùng mảnh lụa cẩn thận lau chùi bụi đất, như ôm một báu vật hiếm có vậy.
“Hồn ngẫu nếu có thể dẫn linh hồn tha hương trở về, cần câu thông sinh tử, cách làm thông thường là giấu một vật tùy thân của người đó trong tâm gỗ. Nhưng đã dùng phương pháp này tế vong hồn, thì người chết thường cách xa ngàn vạn dặm, quá nửa là không tìm thấy nơi táng thân, cho nên vật tùy thân không phải lần nào cũng lấy được. Ta cũng vừa mới nhớ ra, trong tình huống thế này, người thi pháp thường dùng di ngôn người chết lưu lại, hoặc minh ngôn có thể đại diện cho người chết để thay thế. (Minh trong minh ngôn là khắc)
“Năm đó tỷ muội man tộc đào vong khỏi thâm cung, tỷ tỷ mất nơi đất khách quê người, muội muội mang theo con nàng ta lưu lạc hang phỉ. Quý phi trước khi chết đã để lại một thứ vô cùng quan trọng cho Hồ Cách Nhĩ, sau đó qua tay Hồ Cách Nhĩ, cuối cùng rơi vào tay Lang vương Gia Lai…”
Cố Quân nghe thế, trái tim đột ngột đập như điên.
“Chính là bí thuật của thần nữ.” Trần Khinh Nhứ chỉ ra suy nghĩ trong lòng y, “Ta… Ta vốn nghĩ có khả năng này, ai ngờ lại là thật…”
Ấn tượng của mọi người với “thần nữ man tộc” chỉ còn lại hình tượng mụ điên Hồ Cách Nhĩ, vị quý phi kia ngược lại không có cảm giác tồn tại. Nàng ta chết quá sớm, từ “bán thần” thảo nguyên cao cao tại thượng luân lạc vào hậu cung cửu môn đóng chặt, trong lòng là oán là hận hay cam chịu số phận, đến nay cũng chẳng thể nào biết được.
Mà thái độ của nàng ta với con mình là gì?
Chắc hẳn theo nhân chi thường tình thì nên là oán hận, ngay cả Gia Lai nhìn thấy gương mặt Trường Canh lúc nhỏ giống hệt tỷ muội thần nữ, cũng không nhịn được sinh ra sát ý, huống chi đương sự?
Nhưng thuật vu độc của mười tám bộ lạc thần quỷ khó lường như vậy, ngay cả Trần gia cũng bó tay rất nhiều năm, quý phi là người thừa kế, muốn xử lý một thai nhi chưa thành hình có thể làm đến thần không biết quỷ không hay, vì sao phải giữ đứa trẻ đó lại?
Nàng biết đứa trẻ ấy cuối cùng sẽ bị Hồ Cách Nhĩ phát điên làm thành Ô Nhĩ Cốt sao?
Người xưa đã chết gần hết rồi, chẳng còn ai biết nữa, năm ấy thần nữ man tộc quyết định giữ lại đứa trẻ kia rốt cuộc là xuất phát từ sự không nỡ của một người làm mẹ, hay vừa vặn biết Hồ Cách Nhĩ hoài thai đứa khác, xuất phát từ nỗi oán hận vong tộc diệt chủng, muốn tạo ra một tà thần có một không hai.
Nhưng vô luận thế nào, vòng tới vòng lui, vẫn là hồn ngẫu của thần nữ để lại một đường sinh cơ cho Trường Canh.
Điều này cơ hồ có chút huyền diệu của nhân quả tương sinh.
Trần Khinh Nhứ không định thảo luận nhân quả báo ứng, nàng toàn tâm toàn ý đặt vào khúc gỗ này, không đợi Cố Quân có phản ứng, đã ôm người gỗ chạy như bị điên, ngay cả mảnh lụa rơi xuống đất cũng chẳng thèm nhặt. Cố Quân ngây ra hồi lâu, một hơi trong lồng ngực chậm chạp thở ra, hi vọng không cách nào tả nổi làm tắc ngực một lúc, vừa đứng dậy thì trước mắt tối sầm, cả buổi mới đỡ, nhưng vẫn còn ù tai.
Y khó lòng kiềm chế đưa tay cọ cằm, cố hết sức muốn nặn ra khuôn mặt bình thường mà nghiêm túc, chân mày vô thức nhíu lại, nhưng khóe môi không thể khống chế nhếch lên nét cười. Sự nghiêm túc cố tạo cùng vẻ vui mừng khó kìm nén đan thành một khuôn mặt “dở khóc dở cười” đúng chuẩn, chính Cố Quân cũng cảm thấy hình tượng của mình hiện giờ chỉ sợ là hơi điên.
Lúc này, thân binh của Thẩm tướng quân cách vách ở ngoài trướng thò đầu vào nhìn ngó giây lát, hỏi: “Trần thần y rốt cuộc đi rồi à?”
“Đi rồi,” Cố Quân nghe thấy thân binh của mình trả lời, “Sao vậy, có việc gì à?”
Tiểu binh hỏi thăm hành tung thần y kia vội lắc đầu, chạy về báo.
Ngay sau đó, Cố Quân nghe thấy trong lều Thẩm tướng quân vọng sang tiếng rên rỉ không biết kìm ném bao lâu rồi.
Lưng Thẩm Dịch vừa bị thương vừa bị phỏng, thê thảm vô cùng, nhưng y vẫn cứng xương cự tuyệt Trần cô nương chữa trị và thăm hỏi, năm lần bảy lượt nhốt Trần cô nương đến thăm ở bên ngoài, kiên quyết không chịu để nàng nhìn thấy vẻ thảm thương của mình, còn dứt khoát tìm một vị quân y sở trường giết heo tới xử lý vết thương, trong lúc này bốn năm lần phái người lén sang nghe ngóng, nén đến khi Trần Khinh Nhứ rốt cuộc đi rồi, cuối cùng đã có thể thỏa sức tru lên.
Cố Quân lắng tai nghe một lúc, chỉ cảm thấy đau đẻ cũng chưa chắc kêu thảm như vậy, rất không đành lòng, bèn nhặt mảnh lụa dưới đất lên, giũ hết tro bụi, ra ngoài đưa cho tiểu thân binh của mình, phân phó: “Mau đưa cho Thẩm tướng quân, dùng giảm đau.”
Bất kể mảnh lụa kia đã lau cái gì, hiệu quả dù sao cũng hết sức linh nghiệm, lụa vừa đưa sang thì tiếng gào thét của Thẩm Dịch lập tức nhỏ đi rất nhiều.
Cố Quân bụng dạ xấu xa lấy huynh đệ ra tiêu khiển chán chê, quay về soái trướng, vốn định trả lời hết đống chiến báo và thư tín của các vùng trú quân lớn tồn đọng trên bàn, cầm bút lên mới phát hiện mình hoàn toàn không tĩnh tâm được.
Mỗi một chữ trên chiến báo y đều biết, song không thể liền thành một câu mà nhảy vào mắt, y ba hồi lan man nghĩ: “Trên khúc gỗ đó liệu có phải chỉ ghi cách làm mà không có cách giải?”
Ba hồi lại nghĩ: “Thế cũng không hề gì, chỉ cần có chân tướng về Ô Nhĩ Cốt, Trần gia chung quy có thể nghĩ ra biện pháp.”
Một lúc sau lại thầm nghĩ: “Sẽ không bắt ta phải thắp nhang cho đám lừa trọc Hộ Quốc tự thật chứ? Mẹ ơi…”
… Trăn qua trở lại đủ thứ, chẳng có đầu mối.
Mà ngay trong ngàn đầu vạn mối này, tư niệm khó bề tả rõ giết ra một đường máu, nhảy vào lòng y.
Mực trên ngòi bút rơi xuống một giọt, Cố Quân cuối cùng định thần lại, đẩy hết mớ công vụ rườm rà đi, như phù sinh thâu hoan mà lấy giấy viết thư ra, bắt đầu đường hoàng dùng thời gian làm việc công để lo chuyện tư tình.
Nhân gian tháng Tư, vùng Lưỡng Giang hương thơm đã sắp hết, mưa dầm dề ướt đẫm từ trên mặt sông bốc hơi lên.
Hơn một tháng nay, Trường Canh liên tục ở Giang Bắc, y thoạt tiên một tay lo liệu tang sự của Chung lão tướng quân, sau đó Phương Khâm lại dâng tấu lên đề nghị Hoàng đế Long An giữ Nhạn vương lại chỗ cũ, hiệp trợ sứ giả triều đình thúc đẩy việc đàm phán với Tây Dương.
Tuy Nhạn vương đã bước xuống chính đàn, nhưng Phương Khâm vẫn cảm thấy y ở kinh thành là một việc như hóc xương trong họng vậy.
Theo lý đả xà tùy côn, đối phó kẻ địch chính trị nên một kích tất sát, nhưng cớ từ quan của Nhạn vương không phải do bản thân Phương Khâm bày ra, cả sự việc không nằm trong tầm khống chế của hắn, vả lại thân phận Nhạn thân vương rất khó xử lý, trừ đại tội mưu phản ra, quả thật cũng chẳng còn cái gì có thể đuổi tận giết tuyệt y.
Phương Khâm đành phải nghĩ mọi cách đuổi y đi thật xa.
Hai chữ “hiệp trợ” cực kỳ vi diệu, ý nghĩa là chuyện này không phải do Nhạn vương chủ đạo, y chỉ có nghĩa vụ, không có quyền lực. Thành công cũng là công lao của chính sứ, nhưng vạn nhất có rắc rối gì, thì sẽ có nhiều chỗ để bôi nhọ Nhạn vương.
Tiếc thay, trời không chiều lòng người, “rắc rối” Phương Khâm hi vọng nhìn thấy không xuất hiện, Nhạn vương ở đại doanh Giang Bắc như cá gặp nước, nhân duyên cực tốt. Y vốn đã rất được yêu quý, lại có tình cảm kề vai chiến đấu với chúng tướng sĩ, còn có thể diện của Chung lão tướng quân và Cố Quân bảo đảm cho.
Sứ giả triều đình phái ra rất tinh mắt, sau khi đến Giang Bắc hết thảy răm rắp nghe theo Nhạn vương, lại thêm Cố Quân bình nhật thư từ không ngừng, mươi bữa nửa tháng còn đặc biệt đến thăm, việc ức hiếp người Tây Dương ở ven bờ Lưỡng Giang có thể nói là hết sức thuận lợi, trong lúc này đánh ba bốn chiến dịch cỡ nhỏ trên sông, lợi chiếm được, binh cũng được luyện, Lý Phong cũng chẳng thể nói gì, ngược lại cảm thấy hơi có lỗi với Nhạn vương – xa thơm gần thối chính là đạo lý này.
Mà cùng lúc đó, một việc khác làm Phương Khâm bất ngờ đã xảy ra, khiến hắn chẳng còn tinh lực để thừa cơ xếp thế lực vào vùng Lưỡng Giang-
Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên đến kỳ, phải trả tiền.
Đợt phong hỏa phiếu đầu tiên có vị trí cực kỳ đặc biệt, nói là thuốc khởi tử hồi sinh cho vương triều Đại Lương khó khăn dồn dập cũng không quá, lúc ấy nếu không phải có khoản vật tư này chèo chống cho Cố Quân thắng trận ở Tây Vực, trong tình huống chiến trường phương Bắc nguy khốn, tử lưu kim trong nước lại hết sạch, quân Tây Dương bao vây kinh thành lần nữa chỉ là vấn đề thời gian.
Những người mua phong hỏa phiếu đợt đầu có đại ân với quốc gia, về tình về lý nợ nần này phải trả, nếu triều đình không trả nổi tiền, chẳng những là thất tín với người ta, về sau phong hỏa phiếu không phát hành nổi cũng là khẳng định, chính lệnh “phong hỏa phiếu ở dân gian đồng giá với vàng bạc, cấm thương hộ từ chối nhận” mà trước đó Nhạn vương vất vả thi hành cũng thành công cốc.
Cứ thế, cho dù người khác đồng ý, đám quan to triều đình lúc đầu vì mũ cánh chuồn mà bịt mũi mua hàng loạt phong hỏa phiếu cũng không thể đồng ý.
Cho đến lúc này, Phương Khâm mới không thể không thừa nhận, Nhạn vương tuy thủ đoạn quyết liệt, mượn đao giết chính địch chưa từng chùn tay, động đao cải cách muốn khoét thịt ai thì khoét, thậm chí đắc tội hàng loạt… Nhưng y chung quy sớm gieo xuống một hạt giống, địch ta bất phân mà trói cả triều lên tặc thuyền của y.
Theo kế hoạch ban đầu của Sở quân cơ, bắt đầu từ lúc bán đợt phong hỏa phiếu thứ nhất thì đã có phương án kế tiếp: đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa vặn tung ra một tháng trước kỳ hạn, theo kinh nghiệm ngày trước, một tháng có thể bán chừng bảy tám phần, trong khoản tiền xoay được này, có một phần là dự lưu cho trả nợ nần đợt đầu, vô luận là thời gian hay số tiền đều dư dả.
Song không ai liệu được là, Nhạn vương vừa đi thì thương nhân dân gian lớn nhỏ không thèm nể mặt nữa!
Phương Khâm biết mười ba cự cổ âm thầm đứng bên Nhạn vương, nhưng Đại Lương lãnh thổ bao la, chẳng lẽ trừ mấy kẻ dã tâm bừng bừng muốn tham chính này ra, người khác đều không buôn bán gì sao? Lại thêm đám quan viên liều mạng bò lên trên, mỗi tỉnh cho một chỉ tiêu, rất dễ dàng kiếm được khoản tiền này.
Thế nhưng hắn đã xem thường liên minh thương hộ.
Đây là Đỗ tài thần được sự gợi ý của Nhạn vương, trong khoảng thời gian hậu chiến toàn lực thúc đẩy. Các ngành nghề có thương hội của các ngành nghề, tất cả thương hội hợp thành một liên minh lớn, tuy thành viên sẽ bị thương hội ước thúc, nhưng cũng được hưởng lợi ích, mua bán hàng hóa với thành viên khác được ưu đãi thì không cần nhắc nữa, chủ yếu là trong loạn thế trộm cướp hoành hành, nếu có ấn kiện của thương hội, có thể thỉnh cầu quan phủ trú quân các nơi bảo vệ – đây là đặc quyền lúc ấy triều đình dành cho mười ba cự cổ mua phong hỏa phiếu đợt đầu, Đỗ Vạn Toàn khẳng khái chia sẻ.
Mà rất nhiều thương hộ dần dần phát hiện, chịu ước thúc không phải là chuyện xấu, có dấu hiệu của đại thương hội, độ tín nhiệm của người mua dân gian cũng tăng lên không ít, không cần rơi vào cuộc chiến giá cả với đám thương gia bán hàng giả hàng dỏm nữa.
Tấm lưới liên minh thương hộ này mau chóng giăng ra toàn quốc, có lẽ mấy chục năm sau cũng sẽ sinh ra đủ các vấn đề, nhưng lúc này khi mới thành lập, độ trung thực của thành viên đều cực kỳ cao, nghiễm nhiên thành một tấm sắt trước mặt Phương Khâm.
Đợt phong hỏa phiếu thứ ba vừa bắt đầu đã bị cản trở, ngoại trừ một số quan viên vì cái lợi trước mắt mới đầu tiêu hóa một chút, thì cơ hồ hoàn toàn chẳng đẩy đi được – sự không phối hợp lạ lùng của thương hội khiến người ta sinh ra rất nhiều nghi ngờ, đám lão hồ ly trong triều trông hướng gió mà lay theo.
Mà lợi dụ không thành, uy bức cũng không thành. Tân quý do mười ba cự cổ ở phía sau hỗ trợ đã nên trò trống, muốn động vào họ đã không dễ dàng như vậy.
Phong hỏa phiếu do Sở quân cơ thi hành, nhưng Sở quân cơ cũng chỉ phụ trách thi hành, khoản tiền ra vào đều qua Hộ bộ, Phương Khâm chỉ hận không thể kêu đám vây cánh tự bỏ tiền túi – Song như muối bỏ biển, không nói đến các đại thế gia có sẵn lòng móc tiền hay không, cho dù sẵn lòng, thực sự mắt cũng không chớp mà moi ra một khoản lớn như vậy, hai viện nghèo kiết xác lúc trước đến cả Nhạn vương cũng có thể mắng vỡ mặt nhất định ùa lên, không làm um lên là không thôi.
Kỳ hạn ngày càng tới gần, theo đó ngay cả Lý Phong cũng ngồi không yên, nhiều lần đích thân hỏi đến, trong ba bốn ngày, gọi Phương Khâm và Sở quân cơ vào cung răn dạy không mười lần cũng phải đến tám, rốt cuộc áp lực nặng đến gánh hết nổi, lục bộ không thể không liên hợp dâng tấu lên Sở quân cơ, mời Nhạn vương về triều.
Lúc chính lệnh đưa đến Giang Bắc, Trường Canh vô cùng bình tĩnh tiếp chỉ, sau đó đâu vào đấy bàn giao quân vụ, giữ vững thái độ “không quan tâm hơn thua”, giống như chẳng sốt ruột trở về chút nào, cho đến khi lệnh khẩn thứ hai đưa đến, y mới thủng thỉnh thu dọn hành lý chuẩn bị về phương Bắc.
Đang định đi thì tin Bắc cương đại thắng đã đến.
Nhất thời cả Giang Bắc sôi sùng sục, Trường Canh vừa nghe tiếng reo vui khóc lóc khắp nơi, vừa nhận thư từ tay tín sứ.
Trong thư từ Cố Quân gửi Trường Canh, có một số là tư tín thuần túy, một số thì dặn dò Nhạn vương chính sự, Trường Canh rất có kinh nghiệm, trước khi mở ra dùng tay sờ là biết ngay công hay tư – công sự của Cố Quân thông thường chỉ có một tờ giấy mỏng dính với dăm ba câu. Lúc nhận thư từ tay tín sứ huyền ưng, trong chớp mắt y hơi thất vọng, bởi vì sờ thấy rất mỏng, chắc hẳn không có lời gì riêng tư.
Trường Canh thuận miệng dặn huyền ưng: “Có thể bên phía Cố soái còn chưa biết, ta hôm nay sẽ phải lên đường về kinh, công việc ở Giang Bắc đã bàn giao xong, làm phiền huynh đệ trở về báo một tiếng.”
Nói xong, y không hề kiêng dè bóc thư ngay trước mặt mọi người.
Bên trong quả thật chỉ có một tờ giấy, trên vẽ một bàn tay, Cố Quân viết một hàng chữ: “Gửi kèm một tay đến Giang Bắc, thay ta đo xem thắt lưng người ấy có to ra hay không.” (Người ấy – y nhân mà 16 dùng thường dùng cho nữ giới)
Mọi người mù tịt nhìn Nhạn vương chẳng biết xem gì mà lâu như vậy, sau đó đỏ bừng mặt.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook