Sát Phá Lang - Priest
-
Quyển 4 - Chương 108: Phương Bắc
Mùng hai tháng Hai năm Long An thứ chín, ngày Long Sĩ Đầu, đại doanh Giang Bắc gửi công văn khẩn về Sở quân cơ – Chung Thiền tướng quân trên đường tuần doanh đột nhiên ngã ngựa, hôn mê bất tỉnh.
Quân y cả đại doanh Giang Bắc đều tụ tập trong doanh trướng, người chỉ sợ không ổn.
Sở quân cơ sau khi cấp tốc xác nhận tình hình, lập tức quyết định gửi văn kiện khẩn đánh dấu đỏ cho Cố Quân, thư chưa gửi đi thì văn kiện khẩn thứ hai của đại doanh Giang Bắc đã đến.
Chung Thiền tướng quân mất.
Ông chết ở tiền tuyến, nhưng không chết trên chiến trường, mà như vạn ngàn lão nhân tầm thường trên thế gian, không bệnh không tật mà chết.
Cái chết như vậy làm người ta cảm thấy trống vắng, bởi chẳng có cừu nhân để thống hận, chẳng có thù hận để phát tiết, mà cũng không hề là ốm đau liệt giường.
Một người bỗng nhiên mất đi, tạo cảm thấy rất không thật.
Cố Quân cầm văn kiện khẩn xem suốt một nén nhang, chậm rãi thở ra một hơi từ lồng ngực hỗn loạn, mới định thần lại – không phải nằm mơ.
Trong soái trướng yên lặng giây lát, sau đó không biết là ai khởi đầu, nhao nhao nói “Nén bi thương”.
Thẩm Dịch thấp giọng an ủi: “Đại soái, lão tướng quân bảy mươi sáu tuổi, đã thất tuần rồi, cũng là hỉ tang, ngươi đừng quá để trong lòng.”
“Ta biết,” Cố Quân im lặng ngồi một lúc, khoát tay, “Ta biết, không có việc gì, nhưng tình thế Giang Bắc vi diệu, lúc này chủ soái xảy ra chuyện, Trọng Trạch lại mới tiếp nhận chức Tổng đốc Lưỡng Giang, khó mà kiêm cố, chỉ sợ sinh biến, ừm… để ta nghĩ xem…”
Song miệng y nói “ta nghĩ xem”, lòng lại trống hoác chốc lát, giống như nhất thời tất cả mạch suy nghĩ đều đứt hết, không mò được đầu mối.
Thẩm Dịch nhìn sắc mặt không đau không ngứa của y, nhỏ giọng đề xuất: “Đại soái, thủy quân Giang Bắc là do Chung lão tướng quân và Diêu đại nhân một tay tập hợp huấn luyện đến bây giờ, người khác chỉ sợ áp trận thủy quân không được.”
Y mở đầu như vậy, Cố Quân cuối cùng có phản ứng, thong thả tiếp lời: “Diêu Trọng Trạch và phó tướng của Chung lão tạm thời còn có thể ứng phó, chỉ là Diêu đại nhân sợ là phải thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang đến cuối cùng, Dương Vinh Quế mới xảy ra chuyện chưa đến nửa năm, vất vả lắm mới ổn định được…”
Câu kế tiếp, Cố Quân không tiện thẳng thừng bày ra trước mặt chúng tướng quân – thế cục Giang Bắc vất vả lắm mới ổn định, lưu dân, thương hộ và quan địa phương mới về các vị trí, rất nhiều nơi nhà xưởng vừa dựng, người vẫn chưa ở nóng nhà…
Mà Nhạn vương không lâu trước mới từ quan, tuyến vận hà Giang Bắc ai tiếp quản đây?
Là lại phải có một trường tinh phong huyết vũ tranh quyền đoạt thế, hay bao nhiêu cố gắng trước đây sớm mai đi theo một mồi lửa.
Có người sinh không gặp thời, có người chết không gặp thời, Chung lão tướng quân chết không đúng thời cơ.
Cố Quân dừng một chút: “Ta phải qua đó xem thử, bên này…”
Thái Phân vội nói: “Hà tướng quân và Thẩm tướng quân đều ở đây, Đại soái yên tâm, Bắc cương không xảy ra nhiễu loạn đâu.”
Cố Quân gật đầu, dặn thân binh thu dọn, bản thân nhanh chóng trải giấy bút ra, viết tấu cho triều đình.
Trước tiên phải phái người truyền tin, còn phải bàn giao quân vụ, hì hục tận tới khi đèn đã đốt, Cố Quân còn đang kéo Thẩm Dịch lại dặn dò: “Gia Lai Huỳnh Hoặc người này, phần lớn thời gian là một kiêu hùng, phần nhỏ thời gian là con chó điên, lần này mười tám bộ lạc nội loạn, không khéo sẽ có hậu quả gì, ngươi biết chứ?”
Thẩm Dịch gật đầu: “Man tộc sẽ suy vong từ đây.”
Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến nay, bao nhiêu tông tộc huyết mạch đều chôn vùi trong dòng thời gian mênh mang, hoặc thiên tai, hoặc chiến loạn, hoặc huyết thống bị đồng hóa trong thông hôn dài lâu… Một số như Thái Sơn sập, một số như gió thổi cát, long trời lở đất, sau đó lặng lẽ mất dần.
Thẩm Dịch rốt cuộc hiểu được cảm thụ trong tiếng ca của Xích Khố Do ngày đó nghe thấy trong thiên lao, man tộc đang đi đến mạt lộ – dù rằng họ hấp hối giãy giụa, vẫn phảng phất bị một bàn tay vô hình đẩy đi.
Hôm nay là man tộc, mà nếu năm đó kinh thành bị công phá, có lẽ đi đến mạt lộ sẽ biến thành Đại Lương.
“Trong lòng ngươi hiểu là được,” Cố Quân nói, “Loại người điên con ruột cũng có thể làm thành Ô Nhĩ Cốt như Gia Lai Huỳnh Hoặc và Hồ Cách Nhĩ, giây phút cuối cùng không ai biết họ có thể làm gì, nhất thiết không thể xem thường. Thái lão lớn tuổi rồi, Hà Vinh Huy tính lại quá nóng nảy, Quý Bình, bên này khả năng chủ yếu dựa vào ngươi.”
Cố Quân lúc rảnh cũng ưa lải nhải, song trên chính sự không phải là người dông dài, dặn dò như thế y đã thấy là lắm mồm rồi – nhưng y không có biện pháp gì, thật sự không yên tâm chút nào.
Thẩm Dịch: “Giao cho ta đi, nếu Bắc cương xảy ra chuyện, ta xách đầu đi gặp ngươi.”
“Ta cần đầu ngươi làm gì?” Cố Quân lắc đầu cười nói, “Ta chưa bao giờ ăn thịt thủ heo.”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân chạy tới khoảng cách an toàn trước khi y kịp nổi giận, tiện tay rút một thanh cát phong nhận gác nghiêng trên lưng: “Ta đi đây.”
“Khoan đã, Tử Hi!” Thẩm Dịch đột nhiên gọi giật lại, “Ngươi dẫn Trần cô nương theo đi.”
Sau khi tin Chung lão tướng quân chết truyền đến, Cố Quân bàn giao quân vụ rành mạch gọn gàng, còn lần lượt dặn dò bộ tướng, thậm chí có thể điềm nhiên nói đùa, trong mắt người ngoài, phản ứng này bình tĩnh đến gần như bạc bẽo, Thẩm Dịch lại âm thầm lo lắng – năm xưa khi y từ miệng Gia Lai Huỳnh Hoặc nhận được manh mối biến cố Huyền Thiết doanh, ban đầu cũng điềm nhiên như thế.
“Ta dẫn nàng ấy đi làm gì?” Cố Quân chẳng thèm quay đầu lại nói, “Ngươi thực sự cho là Trần gia bán tiên đan, người hạ táng cũng có thể cứu sống à?”
Còn chưa dứt lời thì người đã mất tăm, hệt như chạy đi đầu thai vậy.
Mà cùng lúc đó, trên đời chẳng có bức tường nào gió không lùa qua, tuy phía Đại Lương đã cố hết sức không làm lớn, song khi hai quân đối đầu chủ soái xảy ra chuyện là không thể hoàn toàn giấu được, lúc Cố Quân nhận được tin tức chạy tới trú địa Giang Bắc ngay đêm ấy, quân Tây Dương Giang Nam cũng đèn đuốc sáng trưng, suốt đêm không ngủ.
Nhã tiên sinh nhận nước thuốc trên tay kẻ hầu, phân phó: “Ta mang cho bệ hạ, ngươi đi bảo họ đừng đến quấy rầy.”
Kẻ hầu cung kính cúi đầu, nhanh chóng chạy mất.
Chưa đến gần cửa, Nhã tiên sinh đã nghe thấy tiếng cãi vã bên trong trước.
“Không được, quá tham lam,” Giọng nói khàn khàn thỉnh thoảng kèm vài tiếng ho của Giáo hoàng vọng ra, “Ta không đề nghị làm như vậy, ngươi không thể nuốt thứ to hơn miệng mình được, tham lam như thế, sớm muộn cũng phải xảy ra chuyện!”
Một kẻ khác dùng giọng trơn tuột như động vật bò sát trả lời: “Thứ cho ta nói thẳng, bệ hạ, đây không hề là tham lam, mà là lợi ích thò tay là chạm tới – Nếu ta muốn một hơi nuốt cả một ngôi sao, như vậy là tham lam, nhưng vừa vặn ngược lại, ta chỉ muốn thêm một cái bánh nhỏ, mà nó đang ở ngay cạnh tay ta…”
Nhã tiên sinh nhíu mày, thô lỗ gõ cửa: “Quấy rầy, thuốc của bệ hạ đến rồi.”
Kẻ đang giằng co với Giáo hoàng phút chốc ngậm miệng, đưa tay vuốt râu, nhún vai một cách vô lễ.
Vị sứ giả thánh địa phái tới này, đã vì các nguyên do mà ở lại Đại Lương hơn nửa năm, hoàn toàn không có ý định quay về, mọi người đều biết rõ, vị này là do Quốc vương và đám quý tộc lão gia thánh địa phái tới quản sổ sách.
Quốc vương bên phía thánh địa gấp không chờ nổi mà muốn thu gom đất đai và vương quyền, chỉ mong sao Giáo hoàng rơi đài, mới đầu, thánh sứ không hề có ý tốt, trăm phương ngàn kế muốn chứng minh cuộc chiến tranh lần này hoàn toàn là một sai lầm, song dần dần, theo tiền của và khoáng sản cướp bóc được chuyển về nước ngày càng nhiều, những âm thanh khó nghe trong nước đều nhỏ đi.
Lòng tham không đáy của thánh địa bị sự trù phú của đất đai phương Đông triệt để đốt bùng lên, đám quý tộc muốn nhìn Giáo hoàng xám xịt cút về bắt đầu thay đổi thái độ, bất cứ ai cũng tích cực thúc đẩy lợi ích của quân Tây Dương ở Đại Lương hơn hẳn lúc trước, chỉ hận không thể mở cái miệng bé tí, ý nghĩ hão huyền mà nuốt trộng vật khổng lồ này!
Lần này lợi dụng phương Bắc dời đi trọng điểm chiến lược của Đại Lương, lại nhân lúc người Trung Nguyên không rảnh chú ý việc khác mà đục nước béo cò, chính là do thánh sứ dốc hết sức thúc đẩy.
Giáo hoàng vốn dĩ cực lực phản đối, bởi vì giữa hai chiến trường nam bắc có khu phương Bắc Trung Nguyên mênh mông bát ngát, từ sau khi đường truyền tin phía Tây bị đứt, hiệu suất liên lạc của song phương cực thấp, Giáo hoàng năm đó chỉnh hợp dã tâm gia tứ phương vây khốn tứ cảnh Đại Lương, lợi dụng sai khác thời gian do tin tức bị chặn, biết rõ quân cơ thoáng cái là mất. Huống chi trong mắt ngài, Gia Lai Huỳnh Hoặc phương Bắc trong xương cốt có một mặt cực đoan điên cuồng, không đủ bình tĩnh, căn bản không thích hợp để hợp tác lâu dài.
Đáng tiếc, Giáo hoàng mặc dù có quyền chỉ huy nhánh quân đội này, nhưng xét đến cùng quyền sở hữu là thuộc về Quốc vương và giới quý tộc của thánh địa, vật tư có thể cướp đoạt từ bản địa, tử lưu kim lại không thể – Giang Nam ngay cả một giọt cũng không có, phải dựa vào trong nước vận chuyển tới, ngài vô hình trung thiếu rất nhiều lợi thế.
Hiện tại quả nhiên bị Cố Quân tương kế tựu kế dẫn phát nội loạn man tộc, vô hình trung thậm chí tăng thêm nguy cơ man tộc bị diệt.
Giáo hoàng cố nhiên không muốn hợp tác với Gia Lai Huỳnh Hoặc, nhưng cũng tuyệt không muốn để Huyền Thiết doanh vùng Tây Bắc về Nam, mà một khi Đại Lương chiếm được hàng loạt quặng tử lưu kim của mười tám bộ lạc, chiến trường Giang Nam sẽ rơi vào cục diện hết sức bị động.
Đúng vào lúc lưỡng nan này, họ nhận được tin tức chủ soái đại doanh Giang Bắc qua đời, thánh sứ lại lần nữa giở trò.
Nhã tiên sinh đặt thuốc lên bàn, cung kính nói: “Nếu ngài chú ý sẽ thấy, người Trung Nguyên tuy liên tục tăng binh Giang Bắc, nhưng vị tất thật sự muốn đánh nhau, họ cũng muốn thừa cơ nghỉ ngơi, trong tình huống như vậy, việc đàm hòa song phương chúng ta có thể khống chế, vì sao nhất định phải làm chó cùng rứt giậu, dùng sinh mạng các dũng sĩ đi mạo hiểm?”
Thánh sứ cười giễu một tiếng, chuyển hướng sang Giáo hoàng: “Bệ hạ, trợ thủ đắc lực của ngài cực kỳ có tài hoa, nhưng theo ta thấy, hắn vẫn quá trẻ – Song phương ngồi vào một bàn đàm phán ký một hiệp ước, thoạt nhìn đều là thực hiện thủ tục ký tá của các bên, nội dung lại khác biệt một trời một vực, đãi ngộ của bên ưu thế và bên liệt thế chênh lệch xa như từ thánh địa đến Trung Nguyên vậy, thường thức này chẳng lẽ cần ta nhấn mạnh lần nữa? Chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, lẽ nào không phải cơ hội trời cao ban cho chúng ta? Nếu chúng ta do sự hèn nhát của mình mà bỏ lỡ, ta có dự cảm, sau này nhất định sẽ phải hối hận.”
Nhã tiên sinh mặt không đổi sắc: “Ngài nói rất đúng, chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, nhưng Cố Quân còn chưa chết, hắn nhất định sẽ đến.”
Thánh sứ âm trầm nhìn hắn một cái: “Thế chúng ta có thể nhân khi họ chuyển giao quân quyền mà tập kích, biến hắn thành một người chết – Chẳng phải bệ hạ nói Cố Quân lợi dụng chúng ta, để Thiên Lang tộc phương Bắc tin rằng liên minh đã rạn nứt à? Thế tại sao chúng ta không dùng hành động thực tế chứng minh cho Thiên Lang bộ thấy? Làm sao ngươi biết minh hữu cũ trong quá khứ sẽ không cho chúng ta một niềm kinh hỉ?”
Nhã tiên sinh nghĩ bụng: “Đúng là vớ vẩn!”
Nhưng nhất thời không cách nào cãi lại, lập tức á khẩu.
Giáo hoàng nuốt bát thuốc như uống thuốc độc, run rẩy cầm một miếng vải lụa lau khóe miệng, sau đó thở dài: “Thánh sứ, chiến tranh quy mô thế này, không thể vì cái chết của một hai người mà có thay đổi gì từ trên căn bản, hơn một năm qua, thủy quân Giang Bắc đã kiến lập chế độ tương đối hoàn chỉnh, ngài có nghĩ tới chưa, nếu tập kích không thể đạt được hiệu quả như mong muốn thì sẽ thế nào?”
Nụ cười của thánh sứ lạnh đi: “Ngài nói không sai, chiến tranh quy mô thế này, một hai người không đáng kể, đã như vậy, vì sao các vị còn kiêng kị Cố Quân đến thế?”
Sau đó không đợi người ta phản bác, thánh sứ chợt đứng dậy: “Ta thừa nhận khả năng ngài nói quả thật tồn tại, nhưng dù thật sự xảy ra tình huống tệ nhất, ít nhất chúng ta đã biểu lộ thái độ cứng rắn, là một sự cổ vũ đối với chiến trường phương Bắc, chúng ta vẫn có thể giành được nhiều lợi ích hơn – Bệ hạ, ta phải nói rằng, ngài cẩn thận quá rồi, chúng ta ở vùng ven sông có ưu thế tuyệt đối trên thủy chiến, cho dù thủy quân của người Trung Nguyên đã kiến thành lại có thể thế nào? Một năm? Hai năm? Còn đang bú mẹ thôi! Nếu ta là ngài, căn bản sẽ không để kệ chiến trường Lưỡng Giang trầm mặc thời gian dài như vậy, ta sẽ khiến quân Giang Bắc của người Trung Nguyên căn bản không kịp kiến lập!”
Khóe mắt Nhã tiên sinh giật nhẹ, từ thuở chào đời lần đầu tiên hắn sinh ra nhận thức trực quan như vậy với “cuồng vọng” và “tham lam”.
Giáo hoàng đứng dậy, nghiêm nghị nói: “Thánh sứ tiên sinh, ngài nói như thế là rất vô trách nhiệm.”
Thánh sứ hợp hai tay, hất cằm: “Bệ hạ, lệnh điều phối tử lưu kim ở trong tay ta, thánh địa giao cho ta sứ mệnh, để ta thời khắc mấu chốt nhất có thể ra lệnh thay ngài!”
Nhã tiên sinh phẫn nộ tiến lên một bước, tay đặt trên chuôi kiếm bên hông: “Ngươi!”
Ánh mắt hung ác nham hiểm của thánh sứ dừng ở hắn, Giáo hoàng kéo tay áo Nhã tiên sinh-
Ba người giằng co chốc lát, tầm mắt thánh sứ hơi chuyển đi, hắn nhếch thành một nụ cười, dối trá nói: “Ta chưa bao giờ hoài nghi sự cơ trí của bệ hạ, xin ngài cân nhắc cẩn thận đề nghị của ta, cáo từ.”
Nói xong, hắn lấy cái mũ dạ bên kia, ngạo mạn đội lên đầu, quay người bỏ đi.
Nhã tiên sinh: “Bệ hạ, tại sao phải kéo tôi lại? Thỏa hiệp sao?”
Giáo hoàng trầm mặc một lúc: “Cũng chỉ có thể khẩn cầu thần linh phù hộ-“
Phù hộ thủy quân Giang Bắc thật sự như thánh sứ nói, còn đang trong thời kỳ bú mẹ, phù hộ Gia Lai Huỳnh Hoặc trên chiến trường phương Bắc đủ điên cuồng, có thể kiềm chế chặt chẽ người Đại Lương, may ra họ có thể cầu một kết quả tốt đẹp trong hiểm lộ.
Khi nội bộ quân Tây Dương Giang Nam lục đục và ấp ủ một âm mưu mới, Cố Quân chạy tới Giang Bắc, vừa hạ đất liền lập tức ra lệnh gia cố phòng tuyến, tháp theo dõi hai canh giờ thay ca một lần, toàn thể bày trận sẵn sàng, sau đó trấn an cảm xúc trong quân, lập đội lần nữa, để chúng tướng sĩ về các vị trí – Diêu đại nhân dẫu sao cũng là quan văn, tuy rằng áp được trận cước, nhưng không thể có quyền uy lệnh hành cấm chỉ như Cố Quân, không có hiệu suất chỉ đâu đánh đó.
Bận rộn từ giữa trưa đến chập tối, Cố Quân mới có thời gian uống một ngụm nước, cổ khô muốn bốc khói, cơ hồ có thể nếm được mùi máu tươi, cũng chẳng quan tâm trà hay không nước hay không, vớ đại một bát nước lạnh uống luôn. Năm nay Giang Bắc vào xuân đặc biệt muộn, mấy hôm trước mới đổ một trận mưa tuyết, bốn bề lảng vảng sự âm u lạnh lẽo thấu xương, một bát nước lạnh này làm Cố Quân lạnh triệt để từ trong ra ngoài, y rùng mình, mù mờ nghĩ thầm trong lòng: “Còn chuyện gì sắp đến?”
Lúc này, Diêu Trấn đi tới nói: “Đại soái, lúc ấy gửi công văn khẩn về Sở quân cơ, triều đình lập tức trả lời ít ngày nữa phái người đến, chắc chỉ trong một hai ngày tới thôi. Vừa mới nhận được tin tức nói là Nhạn vương thay mặt Hoàng thượng đến.”
Nhạn vương tuy từ quan nhưng thân phận còn đó, lại có một đoạn duyên phận sư đồ với Chung lão tướng quân, để biểu hiện vinh sủng, cho y thay mặt hoàng gia đi một chuyến cũng là hợp tình hợp lý.
“Ừm, y cũng nên đến xem thử.” Cố Quân rốt cuộc nhớ ra mình còn quên chuyện gì, “À… Trọng Trạch, linh đường bày ở chỗ nào, mau dẫn ta đi xem.”
Diêu Trấn đưa y đến linh đường.
Linh đường so với nơi khác còn lạnh lẽo âm u hơn, quan tài của Chung Thiền nằm ở giữa, khói hương vấn vít.
Cố Quân đến cửa linh đường đột nhiên dừng bước – Mấy ngày nay quá rối ren, y chạy giữa nam bắc hai nơi, việc lớn việc nhỏ đều phải nhọc lòng lo liệu, một cách tự nhiên liền ngăn một sự thật lại, mãi đến giờ khắc này, một ý nghĩ mới bất ngờ đánh trúng ngực y.
Y nghĩ: “Lão sư của ta mất rồi.”
Diêu Trấn lấy làm lạ quay đầu lại hỏi: “Đại soái, sao vậy?”
Cố Quân hít sâu một hơi, lắc đầu, đi vào thắp một nén nhang cho Chung Thiền: “Đi lo việc của ngươi đi, ta nán lại đây với ông ấy một lúc, có việc cứ gọi ta bất kỳ lúc nào.”
Diêu Trấn thấp giọng khuyên, “Sinh lão bệnh tử ai cũng có, xin Đại soái hãy nén bi thương, soái trướng đã dọn dẹp xong, chờ lát nữa nguôi nỗi thương nhớ thì đi nghỉ ngơi sớm một chút, ta cho người canh ngoài cửa, Đại soái có việc thì phân phó.”
Cố Quân gật đầu, cũng chẳng biết có nghe thấy không.
Chờ linh đường chẳng còn ai, ánh mắt y mới chậm rãi dừng trên mặt Chung Thiền, do là không bệnh mà mất, nét mặt Chung lão tướng quân không hề dữ tợn, nhưng cũng không thể nói là an tường – Mặt người chết đều xám xịt, da mặt như làm bằng sáp, không giống lúc còn sống lắm. Thần hồn đã đi, xác chính là xác, trống rỗng.
Cố Quân ngồi bên cạnh, khuỷu tay chống mép quan tài, lẳng lặng nhớ tới Chung Thiền ngày bé làm lão sư của y.
Khi ấy Phiêu Kỵ Đại tướng quân còn chưa bị tuổi tác bào mòn, không gầy gò như vậy, là sự dũng mãnh uy phong lẫm liệt, trong mắt luôn như có hai thanh đao, lúc nhìn chằm chằm ai đó, là mũi đao có thể lộ ra.
“Tiểu Hầu gia, học thuộc binh thư không thể chứng minh ngài biết đánh trận, há không phải nghe bọn quần là áo lượt cổ đại ‘luận binh trên giấy’? Nếu ngài tự mãn như vậy, chỉ sợ ngay cả tổ chức bọn nít ranh đầu đường đánh nhau một trận cũng không thắng được.”
“Tiểu Hầu gia, công phu chính là hai thứ, một là ‘công phu’, một là ‘đau’, hiện giờ lão Hầu gia và công chúa đều không còn, ngài thân phận thanh quý, trừ Hoàng thượng ra, không ai dám tổn thương quý thể, nếu ngài muốn thoải mái, muốn chiều chuộng mình, không ai có thể ép ngài tiến lên, sau này muốn thế nào, ngài phải tự mình suy nghĩ cho rõ.”
“Vinh hoa phú quý không phải chốn về của võ tướng, Hoàng thượng đã khăng khăng chim hết cất cung, trước mắt dù sao thiên hạ cũng thái bình, cứ để y cất đi, sau này mạt tướng không thể thường đi theo, tiểu Hầu gia phải tự lo liệu lấy.”
“Sơn thủy tự có lúc gặp lại, sau này còn gặp nhau!”
Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trăm đời phong hoa có lúc già.
Tai Cố Quân dần ù, mắt cũng không thấy rõ lắm, không tự chủ được nheo lại dưới ánh nến, mà y hoàn toàn chưa nhận ra, phảng phất vẫn đắm chìm trong chuyện cũ năm xưa. Tướng quân một thời có thể sống đến thất tuần còn không bệnh không tật mà mất, chính là đại hạnh, không biết bao nhiêu người hâm mộ, quả thật là hỉ tang, Cố Quân cảm thấy mình không thể nói tới buồn thương hay không, chỉ là ngực hơi ngột ngạt.
Trường Canh cũng chạy một mạch tới, lúc đến đại doanh Giang Bắc thì trời đã tối rồi, đến nơi chưa kịp nghỉ ngơi, nghe nói Cố Quân ở linh đường liền cho người hầu lui hết mà tới thẳng đó.
Thân binh canh ở cửa linh đường biết Trường Canh, từ xa trông thấy liền lập tức thông minh đi vào báo tin, Trường Canh cũng không kịp gọi lại.
Thân binh kia báo một tiếng: “Đại soái, Nhạn vương điện hạ đến rồi.”
Cố Quân không hề phản ứng, Trường Canh đoán là y bận quá quên uống thuốc, liền vén góc bào dợm bước muốn vào: “Không sao.”
Thân binh dè dặt vỗ vỗ vai Cố Quân: “Đại soái?”
Cố Quân đột nhiên bị kinh động, dở mù không thấy rõ người tới, trong lòng thoạt tiên căng thẳng, còn tưởng đã xảy ra chuyện gì, từ trên ghế đứng bật dậy, lồng ngực vẫn bị cái gì đó chặn kín đột nhiên đau nhói như kim châm muối xát.
Một búng máu thình lình phun ra.
Quân y cả đại doanh Giang Bắc đều tụ tập trong doanh trướng, người chỉ sợ không ổn.
Sở quân cơ sau khi cấp tốc xác nhận tình hình, lập tức quyết định gửi văn kiện khẩn đánh dấu đỏ cho Cố Quân, thư chưa gửi đi thì văn kiện khẩn thứ hai của đại doanh Giang Bắc đã đến.
Chung Thiền tướng quân mất.
Ông chết ở tiền tuyến, nhưng không chết trên chiến trường, mà như vạn ngàn lão nhân tầm thường trên thế gian, không bệnh không tật mà chết.
Cái chết như vậy làm người ta cảm thấy trống vắng, bởi chẳng có cừu nhân để thống hận, chẳng có thù hận để phát tiết, mà cũng không hề là ốm đau liệt giường.
Một người bỗng nhiên mất đi, tạo cảm thấy rất không thật.
Cố Quân cầm văn kiện khẩn xem suốt một nén nhang, chậm rãi thở ra một hơi từ lồng ngực hỗn loạn, mới định thần lại – không phải nằm mơ.
Trong soái trướng yên lặng giây lát, sau đó không biết là ai khởi đầu, nhao nhao nói “Nén bi thương”.
Thẩm Dịch thấp giọng an ủi: “Đại soái, lão tướng quân bảy mươi sáu tuổi, đã thất tuần rồi, cũng là hỉ tang, ngươi đừng quá để trong lòng.”
“Ta biết,” Cố Quân im lặng ngồi một lúc, khoát tay, “Ta biết, không có việc gì, nhưng tình thế Giang Bắc vi diệu, lúc này chủ soái xảy ra chuyện, Trọng Trạch lại mới tiếp nhận chức Tổng đốc Lưỡng Giang, khó mà kiêm cố, chỉ sợ sinh biến, ừm… để ta nghĩ xem…”
Song miệng y nói “ta nghĩ xem”, lòng lại trống hoác chốc lát, giống như nhất thời tất cả mạch suy nghĩ đều đứt hết, không mò được đầu mối.
Thẩm Dịch nhìn sắc mặt không đau không ngứa của y, nhỏ giọng đề xuất: “Đại soái, thủy quân Giang Bắc là do Chung lão tướng quân và Diêu đại nhân một tay tập hợp huấn luyện đến bây giờ, người khác chỉ sợ áp trận thủy quân không được.”
Y mở đầu như vậy, Cố Quân cuối cùng có phản ứng, thong thả tiếp lời: “Diêu Trọng Trạch và phó tướng của Chung lão tạm thời còn có thể ứng phó, chỉ là Diêu đại nhân sợ là phải thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang đến cuối cùng, Dương Vinh Quế mới xảy ra chuyện chưa đến nửa năm, vất vả lắm mới ổn định được…”
Câu kế tiếp, Cố Quân không tiện thẳng thừng bày ra trước mặt chúng tướng quân – thế cục Giang Bắc vất vả lắm mới ổn định, lưu dân, thương hộ và quan địa phương mới về các vị trí, rất nhiều nơi nhà xưởng vừa dựng, người vẫn chưa ở nóng nhà…
Mà Nhạn vương không lâu trước mới từ quan, tuyến vận hà Giang Bắc ai tiếp quản đây?
Là lại phải có một trường tinh phong huyết vũ tranh quyền đoạt thế, hay bao nhiêu cố gắng trước đây sớm mai đi theo một mồi lửa.
Có người sinh không gặp thời, có người chết không gặp thời, Chung lão tướng quân chết không đúng thời cơ.
Cố Quân dừng một chút: “Ta phải qua đó xem thử, bên này…”
Thái Phân vội nói: “Hà tướng quân và Thẩm tướng quân đều ở đây, Đại soái yên tâm, Bắc cương không xảy ra nhiễu loạn đâu.”
Cố Quân gật đầu, dặn thân binh thu dọn, bản thân nhanh chóng trải giấy bút ra, viết tấu cho triều đình.
Trước tiên phải phái người truyền tin, còn phải bàn giao quân vụ, hì hục tận tới khi đèn đã đốt, Cố Quân còn đang kéo Thẩm Dịch lại dặn dò: “Gia Lai Huỳnh Hoặc người này, phần lớn thời gian là một kiêu hùng, phần nhỏ thời gian là con chó điên, lần này mười tám bộ lạc nội loạn, không khéo sẽ có hậu quả gì, ngươi biết chứ?”
Thẩm Dịch gật đầu: “Man tộc sẽ suy vong từ đây.”
Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến nay, bao nhiêu tông tộc huyết mạch đều chôn vùi trong dòng thời gian mênh mang, hoặc thiên tai, hoặc chiến loạn, hoặc huyết thống bị đồng hóa trong thông hôn dài lâu… Một số như Thái Sơn sập, một số như gió thổi cát, long trời lở đất, sau đó lặng lẽ mất dần.
Thẩm Dịch rốt cuộc hiểu được cảm thụ trong tiếng ca của Xích Khố Do ngày đó nghe thấy trong thiên lao, man tộc đang đi đến mạt lộ – dù rằng họ hấp hối giãy giụa, vẫn phảng phất bị một bàn tay vô hình đẩy đi.
Hôm nay là man tộc, mà nếu năm đó kinh thành bị công phá, có lẽ đi đến mạt lộ sẽ biến thành Đại Lương.
“Trong lòng ngươi hiểu là được,” Cố Quân nói, “Loại người điên con ruột cũng có thể làm thành Ô Nhĩ Cốt như Gia Lai Huỳnh Hoặc và Hồ Cách Nhĩ, giây phút cuối cùng không ai biết họ có thể làm gì, nhất thiết không thể xem thường. Thái lão lớn tuổi rồi, Hà Vinh Huy tính lại quá nóng nảy, Quý Bình, bên này khả năng chủ yếu dựa vào ngươi.”
Cố Quân lúc rảnh cũng ưa lải nhải, song trên chính sự không phải là người dông dài, dặn dò như thế y đã thấy là lắm mồm rồi – nhưng y không có biện pháp gì, thật sự không yên tâm chút nào.
Thẩm Dịch: “Giao cho ta đi, nếu Bắc cương xảy ra chuyện, ta xách đầu đi gặp ngươi.”
“Ta cần đầu ngươi làm gì?” Cố Quân lắc đầu cười nói, “Ta chưa bao giờ ăn thịt thủ heo.”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân chạy tới khoảng cách an toàn trước khi y kịp nổi giận, tiện tay rút một thanh cát phong nhận gác nghiêng trên lưng: “Ta đi đây.”
“Khoan đã, Tử Hi!” Thẩm Dịch đột nhiên gọi giật lại, “Ngươi dẫn Trần cô nương theo đi.”
Sau khi tin Chung lão tướng quân chết truyền đến, Cố Quân bàn giao quân vụ rành mạch gọn gàng, còn lần lượt dặn dò bộ tướng, thậm chí có thể điềm nhiên nói đùa, trong mắt người ngoài, phản ứng này bình tĩnh đến gần như bạc bẽo, Thẩm Dịch lại âm thầm lo lắng – năm xưa khi y từ miệng Gia Lai Huỳnh Hoặc nhận được manh mối biến cố Huyền Thiết doanh, ban đầu cũng điềm nhiên như thế.
“Ta dẫn nàng ấy đi làm gì?” Cố Quân chẳng thèm quay đầu lại nói, “Ngươi thực sự cho là Trần gia bán tiên đan, người hạ táng cũng có thể cứu sống à?”
Còn chưa dứt lời thì người đã mất tăm, hệt như chạy đi đầu thai vậy.
Mà cùng lúc đó, trên đời chẳng có bức tường nào gió không lùa qua, tuy phía Đại Lương đã cố hết sức không làm lớn, song khi hai quân đối đầu chủ soái xảy ra chuyện là không thể hoàn toàn giấu được, lúc Cố Quân nhận được tin tức chạy tới trú địa Giang Bắc ngay đêm ấy, quân Tây Dương Giang Nam cũng đèn đuốc sáng trưng, suốt đêm không ngủ.
Nhã tiên sinh nhận nước thuốc trên tay kẻ hầu, phân phó: “Ta mang cho bệ hạ, ngươi đi bảo họ đừng đến quấy rầy.”
Kẻ hầu cung kính cúi đầu, nhanh chóng chạy mất.
Chưa đến gần cửa, Nhã tiên sinh đã nghe thấy tiếng cãi vã bên trong trước.
“Không được, quá tham lam,” Giọng nói khàn khàn thỉnh thoảng kèm vài tiếng ho của Giáo hoàng vọng ra, “Ta không đề nghị làm như vậy, ngươi không thể nuốt thứ to hơn miệng mình được, tham lam như thế, sớm muộn cũng phải xảy ra chuyện!”
Một kẻ khác dùng giọng trơn tuột như động vật bò sát trả lời: “Thứ cho ta nói thẳng, bệ hạ, đây không hề là tham lam, mà là lợi ích thò tay là chạm tới – Nếu ta muốn một hơi nuốt cả một ngôi sao, như vậy là tham lam, nhưng vừa vặn ngược lại, ta chỉ muốn thêm một cái bánh nhỏ, mà nó đang ở ngay cạnh tay ta…”
Nhã tiên sinh nhíu mày, thô lỗ gõ cửa: “Quấy rầy, thuốc của bệ hạ đến rồi.”
Kẻ đang giằng co với Giáo hoàng phút chốc ngậm miệng, đưa tay vuốt râu, nhún vai một cách vô lễ.
Vị sứ giả thánh địa phái tới này, đã vì các nguyên do mà ở lại Đại Lương hơn nửa năm, hoàn toàn không có ý định quay về, mọi người đều biết rõ, vị này là do Quốc vương và đám quý tộc lão gia thánh địa phái tới quản sổ sách.
Quốc vương bên phía thánh địa gấp không chờ nổi mà muốn thu gom đất đai và vương quyền, chỉ mong sao Giáo hoàng rơi đài, mới đầu, thánh sứ không hề có ý tốt, trăm phương ngàn kế muốn chứng minh cuộc chiến tranh lần này hoàn toàn là một sai lầm, song dần dần, theo tiền của và khoáng sản cướp bóc được chuyển về nước ngày càng nhiều, những âm thanh khó nghe trong nước đều nhỏ đi.
Lòng tham không đáy của thánh địa bị sự trù phú của đất đai phương Đông triệt để đốt bùng lên, đám quý tộc muốn nhìn Giáo hoàng xám xịt cút về bắt đầu thay đổi thái độ, bất cứ ai cũng tích cực thúc đẩy lợi ích của quân Tây Dương ở Đại Lương hơn hẳn lúc trước, chỉ hận không thể mở cái miệng bé tí, ý nghĩ hão huyền mà nuốt trộng vật khổng lồ này!
Lần này lợi dụng phương Bắc dời đi trọng điểm chiến lược của Đại Lương, lại nhân lúc người Trung Nguyên không rảnh chú ý việc khác mà đục nước béo cò, chính là do thánh sứ dốc hết sức thúc đẩy.
Giáo hoàng vốn dĩ cực lực phản đối, bởi vì giữa hai chiến trường nam bắc có khu phương Bắc Trung Nguyên mênh mông bát ngát, từ sau khi đường truyền tin phía Tây bị đứt, hiệu suất liên lạc của song phương cực thấp, Giáo hoàng năm đó chỉnh hợp dã tâm gia tứ phương vây khốn tứ cảnh Đại Lương, lợi dụng sai khác thời gian do tin tức bị chặn, biết rõ quân cơ thoáng cái là mất. Huống chi trong mắt ngài, Gia Lai Huỳnh Hoặc phương Bắc trong xương cốt có một mặt cực đoan điên cuồng, không đủ bình tĩnh, căn bản không thích hợp để hợp tác lâu dài.
Đáng tiếc, Giáo hoàng mặc dù có quyền chỉ huy nhánh quân đội này, nhưng xét đến cùng quyền sở hữu là thuộc về Quốc vương và giới quý tộc của thánh địa, vật tư có thể cướp đoạt từ bản địa, tử lưu kim lại không thể – Giang Nam ngay cả một giọt cũng không có, phải dựa vào trong nước vận chuyển tới, ngài vô hình trung thiếu rất nhiều lợi thế.
Hiện tại quả nhiên bị Cố Quân tương kế tựu kế dẫn phát nội loạn man tộc, vô hình trung thậm chí tăng thêm nguy cơ man tộc bị diệt.
Giáo hoàng cố nhiên không muốn hợp tác với Gia Lai Huỳnh Hoặc, nhưng cũng tuyệt không muốn để Huyền Thiết doanh vùng Tây Bắc về Nam, mà một khi Đại Lương chiếm được hàng loạt quặng tử lưu kim của mười tám bộ lạc, chiến trường Giang Nam sẽ rơi vào cục diện hết sức bị động.
Đúng vào lúc lưỡng nan này, họ nhận được tin tức chủ soái đại doanh Giang Bắc qua đời, thánh sứ lại lần nữa giở trò.
Nhã tiên sinh đặt thuốc lên bàn, cung kính nói: “Nếu ngài chú ý sẽ thấy, người Trung Nguyên tuy liên tục tăng binh Giang Bắc, nhưng vị tất thật sự muốn đánh nhau, họ cũng muốn thừa cơ nghỉ ngơi, trong tình huống như vậy, việc đàm hòa song phương chúng ta có thể khống chế, vì sao nhất định phải làm chó cùng rứt giậu, dùng sinh mạng các dũng sĩ đi mạo hiểm?”
Thánh sứ cười giễu một tiếng, chuyển hướng sang Giáo hoàng: “Bệ hạ, trợ thủ đắc lực của ngài cực kỳ có tài hoa, nhưng theo ta thấy, hắn vẫn quá trẻ – Song phương ngồi vào một bàn đàm phán ký một hiệp ước, thoạt nhìn đều là thực hiện thủ tục ký tá của các bên, nội dung lại khác biệt một trời một vực, đãi ngộ của bên ưu thế và bên liệt thế chênh lệch xa như từ thánh địa đến Trung Nguyên vậy, thường thức này chẳng lẽ cần ta nhấn mạnh lần nữa? Chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, lẽ nào không phải cơ hội trời cao ban cho chúng ta? Nếu chúng ta do sự hèn nhát của mình mà bỏ lỡ, ta có dự cảm, sau này nhất định sẽ phải hối hận.”
Nhã tiên sinh mặt không đổi sắc: “Ngài nói rất đúng, chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, nhưng Cố Quân còn chưa chết, hắn nhất định sẽ đến.”
Thánh sứ âm trầm nhìn hắn một cái: “Thế chúng ta có thể nhân khi họ chuyển giao quân quyền mà tập kích, biến hắn thành một người chết – Chẳng phải bệ hạ nói Cố Quân lợi dụng chúng ta, để Thiên Lang tộc phương Bắc tin rằng liên minh đã rạn nứt à? Thế tại sao chúng ta không dùng hành động thực tế chứng minh cho Thiên Lang bộ thấy? Làm sao ngươi biết minh hữu cũ trong quá khứ sẽ không cho chúng ta một niềm kinh hỉ?”
Nhã tiên sinh nghĩ bụng: “Đúng là vớ vẩn!”
Nhưng nhất thời không cách nào cãi lại, lập tức á khẩu.
Giáo hoàng nuốt bát thuốc như uống thuốc độc, run rẩy cầm một miếng vải lụa lau khóe miệng, sau đó thở dài: “Thánh sứ, chiến tranh quy mô thế này, không thể vì cái chết của một hai người mà có thay đổi gì từ trên căn bản, hơn một năm qua, thủy quân Giang Bắc đã kiến lập chế độ tương đối hoàn chỉnh, ngài có nghĩ tới chưa, nếu tập kích không thể đạt được hiệu quả như mong muốn thì sẽ thế nào?”
Nụ cười của thánh sứ lạnh đi: “Ngài nói không sai, chiến tranh quy mô thế này, một hai người không đáng kể, đã như vậy, vì sao các vị còn kiêng kị Cố Quân đến thế?”
Sau đó không đợi người ta phản bác, thánh sứ chợt đứng dậy: “Ta thừa nhận khả năng ngài nói quả thật tồn tại, nhưng dù thật sự xảy ra tình huống tệ nhất, ít nhất chúng ta đã biểu lộ thái độ cứng rắn, là một sự cổ vũ đối với chiến trường phương Bắc, chúng ta vẫn có thể giành được nhiều lợi ích hơn – Bệ hạ, ta phải nói rằng, ngài cẩn thận quá rồi, chúng ta ở vùng ven sông có ưu thế tuyệt đối trên thủy chiến, cho dù thủy quân của người Trung Nguyên đã kiến thành lại có thể thế nào? Một năm? Hai năm? Còn đang bú mẹ thôi! Nếu ta là ngài, căn bản sẽ không để kệ chiến trường Lưỡng Giang trầm mặc thời gian dài như vậy, ta sẽ khiến quân Giang Bắc của người Trung Nguyên căn bản không kịp kiến lập!”
Khóe mắt Nhã tiên sinh giật nhẹ, từ thuở chào đời lần đầu tiên hắn sinh ra nhận thức trực quan như vậy với “cuồng vọng” và “tham lam”.
Giáo hoàng đứng dậy, nghiêm nghị nói: “Thánh sứ tiên sinh, ngài nói như thế là rất vô trách nhiệm.”
Thánh sứ hợp hai tay, hất cằm: “Bệ hạ, lệnh điều phối tử lưu kim ở trong tay ta, thánh địa giao cho ta sứ mệnh, để ta thời khắc mấu chốt nhất có thể ra lệnh thay ngài!”
Nhã tiên sinh phẫn nộ tiến lên một bước, tay đặt trên chuôi kiếm bên hông: “Ngươi!”
Ánh mắt hung ác nham hiểm của thánh sứ dừng ở hắn, Giáo hoàng kéo tay áo Nhã tiên sinh-
Ba người giằng co chốc lát, tầm mắt thánh sứ hơi chuyển đi, hắn nhếch thành một nụ cười, dối trá nói: “Ta chưa bao giờ hoài nghi sự cơ trí của bệ hạ, xin ngài cân nhắc cẩn thận đề nghị của ta, cáo từ.”
Nói xong, hắn lấy cái mũ dạ bên kia, ngạo mạn đội lên đầu, quay người bỏ đi.
Nhã tiên sinh: “Bệ hạ, tại sao phải kéo tôi lại? Thỏa hiệp sao?”
Giáo hoàng trầm mặc một lúc: “Cũng chỉ có thể khẩn cầu thần linh phù hộ-“
Phù hộ thủy quân Giang Bắc thật sự như thánh sứ nói, còn đang trong thời kỳ bú mẹ, phù hộ Gia Lai Huỳnh Hoặc trên chiến trường phương Bắc đủ điên cuồng, có thể kiềm chế chặt chẽ người Đại Lương, may ra họ có thể cầu một kết quả tốt đẹp trong hiểm lộ.
Khi nội bộ quân Tây Dương Giang Nam lục đục và ấp ủ một âm mưu mới, Cố Quân chạy tới Giang Bắc, vừa hạ đất liền lập tức ra lệnh gia cố phòng tuyến, tháp theo dõi hai canh giờ thay ca một lần, toàn thể bày trận sẵn sàng, sau đó trấn an cảm xúc trong quân, lập đội lần nữa, để chúng tướng sĩ về các vị trí – Diêu đại nhân dẫu sao cũng là quan văn, tuy rằng áp được trận cước, nhưng không thể có quyền uy lệnh hành cấm chỉ như Cố Quân, không có hiệu suất chỉ đâu đánh đó.
Bận rộn từ giữa trưa đến chập tối, Cố Quân mới có thời gian uống một ngụm nước, cổ khô muốn bốc khói, cơ hồ có thể nếm được mùi máu tươi, cũng chẳng quan tâm trà hay không nước hay không, vớ đại một bát nước lạnh uống luôn. Năm nay Giang Bắc vào xuân đặc biệt muộn, mấy hôm trước mới đổ một trận mưa tuyết, bốn bề lảng vảng sự âm u lạnh lẽo thấu xương, một bát nước lạnh này làm Cố Quân lạnh triệt để từ trong ra ngoài, y rùng mình, mù mờ nghĩ thầm trong lòng: “Còn chuyện gì sắp đến?”
Lúc này, Diêu Trấn đi tới nói: “Đại soái, lúc ấy gửi công văn khẩn về Sở quân cơ, triều đình lập tức trả lời ít ngày nữa phái người đến, chắc chỉ trong một hai ngày tới thôi. Vừa mới nhận được tin tức nói là Nhạn vương thay mặt Hoàng thượng đến.”
Nhạn vương tuy từ quan nhưng thân phận còn đó, lại có một đoạn duyên phận sư đồ với Chung lão tướng quân, để biểu hiện vinh sủng, cho y thay mặt hoàng gia đi một chuyến cũng là hợp tình hợp lý.
“Ừm, y cũng nên đến xem thử.” Cố Quân rốt cuộc nhớ ra mình còn quên chuyện gì, “À… Trọng Trạch, linh đường bày ở chỗ nào, mau dẫn ta đi xem.”
Diêu Trấn đưa y đến linh đường.
Linh đường so với nơi khác còn lạnh lẽo âm u hơn, quan tài của Chung Thiền nằm ở giữa, khói hương vấn vít.
Cố Quân đến cửa linh đường đột nhiên dừng bước – Mấy ngày nay quá rối ren, y chạy giữa nam bắc hai nơi, việc lớn việc nhỏ đều phải nhọc lòng lo liệu, một cách tự nhiên liền ngăn một sự thật lại, mãi đến giờ khắc này, một ý nghĩ mới bất ngờ đánh trúng ngực y.
Y nghĩ: “Lão sư của ta mất rồi.”
Diêu Trấn lấy làm lạ quay đầu lại hỏi: “Đại soái, sao vậy?”
Cố Quân hít sâu một hơi, lắc đầu, đi vào thắp một nén nhang cho Chung Thiền: “Đi lo việc của ngươi đi, ta nán lại đây với ông ấy một lúc, có việc cứ gọi ta bất kỳ lúc nào.”
Diêu Trấn thấp giọng khuyên, “Sinh lão bệnh tử ai cũng có, xin Đại soái hãy nén bi thương, soái trướng đã dọn dẹp xong, chờ lát nữa nguôi nỗi thương nhớ thì đi nghỉ ngơi sớm một chút, ta cho người canh ngoài cửa, Đại soái có việc thì phân phó.”
Cố Quân gật đầu, cũng chẳng biết có nghe thấy không.
Chờ linh đường chẳng còn ai, ánh mắt y mới chậm rãi dừng trên mặt Chung Thiền, do là không bệnh mà mất, nét mặt Chung lão tướng quân không hề dữ tợn, nhưng cũng không thể nói là an tường – Mặt người chết đều xám xịt, da mặt như làm bằng sáp, không giống lúc còn sống lắm. Thần hồn đã đi, xác chính là xác, trống rỗng.
Cố Quân ngồi bên cạnh, khuỷu tay chống mép quan tài, lẳng lặng nhớ tới Chung Thiền ngày bé làm lão sư của y.
Khi ấy Phiêu Kỵ Đại tướng quân còn chưa bị tuổi tác bào mòn, không gầy gò như vậy, là sự dũng mãnh uy phong lẫm liệt, trong mắt luôn như có hai thanh đao, lúc nhìn chằm chằm ai đó, là mũi đao có thể lộ ra.
“Tiểu Hầu gia, học thuộc binh thư không thể chứng minh ngài biết đánh trận, há không phải nghe bọn quần là áo lượt cổ đại ‘luận binh trên giấy’? Nếu ngài tự mãn như vậy, chỉ sợ ngay cả tổ chức bọn nít ranh đầu đường đánh nhau một trận cũng không thắng được.”
“Tiểu Hầu gia, công phu chính là hai thứ, một là ‘công phu’, một là ‘đau’, hiện giờ lão Hầu gia và công chúa đều không còn, ngài thân phận thanh quý, trừ Hoàng thượng ra, không ai dám tổn thương quý thể, nếu ngài muốn thoải mái, muốn chiều chuộng mình, không ai có thể ép ngài tiến lên, sau này muốn thế nào, ngài phải tự mình suy nghĩ cho rõ.”
“Vinh hoa phú quý không phải chốn về của võ tướng, Hoàng thượng đã khăng khăng chim hết cất cung, trước mắt dù sao thiên hạ cũng thái bình, cứ để y cất đi, sau này mạt tướng không thể thường đi theo, tiểu Hầu gia phải tự lo liệu lấy.”
“Sơn thủy tự có lúc gặp lại, sau này còn gặp nhau!”
Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trăm đời phong hoa có lúc già.
Tai Cố Quân dần ù, mắt cũng không thấy rõ lắm, không tự chủ được nheo lại dưới ánh nến, mà y hoàn toàn chưa nhận ra, phảng phất vẫn đắm chìm trong chuyện cũ năm xưa. Tướng quân một thời có thể sống đến thất tuần còn không bệnh không tật mà mất, chính là đại hạnh, không biết bao nhiêu người hâm mộ, quả thật là hỉ tang, Cố Quân cảm thấy mình không thể nói tới buồn thương hay không, chỉ là ngực hơi ngột ngạt.
Trường Canh cũng chạy một mạch tới, lúc đến đại doanh Giang Bắc thì trời đã tối rồi, đến nơi chưa kịp nghỉ ngơi, nghe nói Cố Quân ở linh đường liền cho người hầu lui hết mà tới thẳng đó.
Thân binh canh ở cửa linh đường biết Trường Canh, từ xa trông thấy liền lập tức thông minh đi vào báo tin, Trường Canh cũng không kịp gọi lại.
Thân binh kia báo một tiếng: “Đại soái, Nhạn vương điện hạ đến rồi.”
Cố Quân không hề phản ứng, Trường Canh đoán là y bận quá quên uống thuốc, liền vén góc bào dợm bước muốn vào: “Không sao.”
Thân binh dè dặt vỗ vỗ vai Cố Quân: “Đại soái?”
Cố Quân đột nhiên bị kinh động, dở mù không thấy rõ người tới, trong lòng thoạt tiên căng thẳng, còn tưởng đã xảy ra chuyện gì, từ trên ghế đứng bật dậy, lồng ngực vẫn bị cái gì đó chặn kín đột nhiên đau nhói như kim châm muối xát.
Một búng máu thình lình phun ra.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook