Khi Tristan hồi tỉnh từ bóng đêm không mộng mị, mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ qua ô cửa sổ của Ivy. Tấm trải giường của cô đã được kéo lên và vuốt phẳng với một tấm mền lông vũ nhẹ. Ivy đã đi rồi. Đây là lần đầu tiên Tristan thấy ánh sáng ban ngày kể từ tai nạn. Anh đến bên cửa sổ và kinh ngạc trước những đặc điểm của mùa hè, đường nét phức tạp của những chiếc lá, cách làn gió lùa qua cỏ và gởi đi những làn sóng xanh biếc trên đỉnh của rặng đồi. Làn gió. Dù tấm màn cửa đang lay động, Tristan không thể cảm nhận sự mơn man mát mẻ của gió. Dù căn phòng được kẻ sọc bằng ánh nắng, anh không thể cảm nhận hơi ấm của chúng.

Ella có thể. Con mèo đang nằm dài trên một chiếc áo sơ mi Ivy đã nhét vào một góc sáng sủa. Cô nàng chào mừng Tristan bằng một con mắt mở và đang kêu rừ rừ nhẹ.

“Không có nhiều quần áo bẩn ở quanh đây cho mày, đúng không?” Anh hỏi, nghĩ về sự ưa thích của con mèo đối với những chiếc vớ bốc mùi nhất và quần áo đẫm mồ hôi của anh. Sự yên tĩnh của ngôi nhà khiến anh nói thầm, dù anh biết anh có thể la đủ lớn để - chà! đủ lớn để vẫy cả thần chết mà chỉ mình anh nghe thấy.

Sự hiu quạnh thật kinh khủng. Tristan sợ rằng anh sẽ luôn cô đơn theo cách này, đi lang thang mà chẳng bao giờ được nhìn thấy, không bao giờ nghe thấy, không bao giờ được nhận ra anh là Tristan. Sao anh không nhìn thấy bà cụ trong bệnh viện sau khi bà ấy chết nhỉ? Bà ấy đã đi đâu?

Người chết được đưa đến nghĩa trang, anh nghĩ khi vượt qua hành lang đến cầu thang. Rồi anh dừng bước. Anh hẳn phải có phần mộ ở nơi nào đó! Chắc chắn là bên cạnh của ông bà anh rồi. Anh vội vã bước xuống những bậc thang, tò mò muốn biết những gì họ đã làm với anh. Chắc có lẽ anh cũng sẽ tìm thấy bà cụ già hay ai đó khác mới chết gần đây có thể làm sáng tỏ về tất cả những thứ này. Tristan đã đến nghĩa trang Riverstone Rise vài lần khi anh còn nhỏ. Nơi đó chưa bao giờ là một nơi buồn bã đối với anh, có lẽ vì nơi đặt mộ phần của ông bà anh đã luôn truyền cảm hứng để cha anh kể với Tristan những câu chuyện thích thú và vui nhộn về chúng. Mẹ anh đã bỏ nhiều thời gian để tỉa tót và trồng trọt. Tristan đã chạy, và leo trèo lên những tảng đá, và nhảy qua những ngôi mộ, dùng nghĩa trang như một loại sân chơi và bãi tập. Nhưng điều đó dường như đã cách xa hàng thế kỷ rồi.

Giờ đây, thật kỳ lạ khi trượt qua cánh cổng cao bằng sắt – cánh cổng anh đã đung đưa trên đó như một con khỉ, mẹ anh luôn nói thế - trong việc tìm kiếm mộ phần của chính mình. Dù anh di chuyển theo ký ức hay theo bản năng, anh không chắc, nhưng anh tìm ra cách thức nhanh chóng để hạ xuống đường và vòng quanh chỗ rẽ được đánh dấu bằng ba cây thông. Anh biết chỉ còn khoảng mười lăm feet và chuẩn bị cho bản thân về cơn shock khi đọc tên anh trên bia đá bên cạnh mộ của ông bà anh.

Nhưng thậm chí anh còn không nhìn vào đó. Anh quá đỗi ngạc nhiên bởi sự hiện diện của một cô gái đang duỗi dài y như ở nhà của chính mình trên đám đất vừa được vun xới.

“Xin lỗi,” Anh nói, biết rõ là chẳng có ai nghe được anh. “Chị đang nằm trên mộ của tôi đấy!”

Cô gái ngước lên nhìn anh, điều đó khiến anh tự hỏi không biết có phải anh đang tỏa sáng lung linh lần nữa hay không. Cô ấy tầm tuổi anh và có vẻ quen thuộc một cách mơ hồ.

“Cậu chắc là Tristan rồi.” Cô ấy nói. “Tôi biết sớm muộn gì cậu cũng sẽ xuất hiện thôi.”

Tristan nhìn chằm chằm vào cô.

“Cậu là anh ấy, đúng không?” Cô nói, ngồi dậy, chỉ vào tên anh bằng cách thọc mạnh ngón tay cái. “Vừa mới qua đời, đúng không?”

“Vừa mới sống sót.” Anh nói. Có điều gì đó trong thái độ của cô khiến anh muốn tranh cãi.

Cô nhún vai. “Ai cũng có quan điểm của riêng mình.”

Anh không thể bỏ qua sự kiện là cô có thể nghe được anh . “Và chị,” Anh nói, nghiên cứu dáng vẻ khá khác thường của cô. “Chị là gì vậy?”

“Không quá mới.”

“Tôi biết rồi. Đó là lý do tóc chị có cái màu đó à?”

“Bàn tay cô vung lên đầu. “Sao cơ?”

Mái tóc ngắn, sẫm màu và bông lên, có màu hồng tím kỳ dị, hơi đỏ tía, như thể thuốc nhuộm màu nâu đỏ bị pha sai.

“Nó có màu đó khi tôi chết ấy mà.”

“Ôi, xin lỗi.”

“Ngồi đi.” Cô nói, vỗ nhẹ mô đất mới. “Rốt cuộc, đây là nơi yên nghỉ của cậu mà. Tôi chỉ xâm nhập một lúc.”

“Vậy, chị là một… hồn ma sao?” Anh nói.

“Gì cơ?”

Anh ước chi cô đừng dùng cái giọng trêu ngươi đó.

“Cậu nói ‘hồn ma’ à? Cậu là dân mới thật rồi. Chúng ta không phải là hồn ma, cưng à” Cô gõ nhẹ vào cánh tay anh vài lần với một móng tay dài, nhọn, sơn màu đen.

Anh tự hỏi lần nữa không biết có phải điều này có được từ cái chết ‘không quá mới’ hay không, nhưng sợ cô sẽ đâm thủng anh nếu anh hỏi.

Rồi anh nhận ra rằng bàn tay cô đã không trượt xuyên qua anh. Chúng thực sự được tạo nên từ những thứ tương đương.

“Chúng ta là những Thiên Thần, cưng ơi. Đúng như thế đấy. Những người trợ giúp bé nhỏ của Thiên đường.” Giọng nói và những từ ngữ dù là ở mức độ có tính xu hướng cho đến cường điệu đang bắt đầu cọ xát vào thần kinh của anh. Cô chỉ thẳng lên bầu trời. “Ai đó phải có được khả năng hài hước một cách tinh quái. Luôn luôn là những lựa chọn ít thuyết phục nhất.”

“Tôi không tin điều đó.” Tristan nói. “Tôi không tin.”

“Vậy ra đây là lần đầu tiên cậu nhìn thấy sự đào bới mới tinh của mình. Bỏ lỡ tang lễ của chính cậu, huh?” Cô nói. “Đó là một sai sót cực kỳ lớn đấy. Tôi hưởng thụ mọi phút của tôi.”

“Chị được an táng ở đâu?” Tristan hỏi, nhìn quanh. Tảng đá bên một phía của khu đất thuộc gia đình anh có chạm trổ một con cừu con, thứ hầu như không có vẻ phù hợp với cô, bên một phía khác, một phụ nữ trầm lặng với đôi tay chắp trên ngực và đôi mắt hướng lên Thiên đàng – một lựa chọn tệ tương đương.

“Tôi không được an táng. Đó là lý do tại sao tôi đang vay mượn từ cậu.”

“Tôi không hiểu.” Tristan nói.

“Cậu không nhận ra tôi sao?”

“Uh, không.” Anh nói, sợ rằng bằng cách nào đó cô sắp nói là cô có liên quan với anh, hoặc có thể là anh đã theo đuổi cô hồi lớp sáu.

“Nhìn tôi từ bên phía này xem.” Cô giơ cho anh khuôn mặt nhìn nghiêng. Tristan nhìn thẳng thừng vào cô.

“Nhóc à, cậu đã không sống nhiều, đúng không, lúc cậu còn sống ấy.” Cô nhận xét.

“Ý chị là gì?”

“Cậu không ra ngoài nhiều.”

“Toàn bộ thời gian ấy chứ.” Tristan đáp.

“Không đi xem phim.”

“Tôi đi suốt.” Tristan cãi.

“Nhưng cậu chưa xem phim nào của Lacey Lovitt.”

“Chắc chắn tôi có. Mọi người đều xem trước khi cô ấy… Chị là Lacey Lovitt sao?”

Cô đảo mắt lên trời. “Tôi hy vọng cậu nhanh hơn trong việc suy đoán sứ mệnh của mình.”

“Tôi đoán nó tương tự như việc màu sắc mái tóc của chị rất khác biệt.”

“Chúng ta đã nói về mái tóc của tôi rồi mà.” Cô nói, trườn khỏi ngôi mộ. Thật kỳ lạ khi nhìn cô đứng trước phông nền cây cối phía sau. Những cây liễu vung vẩy những chuỗi lá của chúng trong làn gió nhẹ, nhưng tóc của cô bất động như của một cô gái trong ảnh chụp.

“Bây giờ tôi nhớ ra rồi,” Tristan nói, “máy bay của chị đã rơi xuống biển. Họ không tìm thấy chị.”

“Hãy hình dung tôi đã hài lòng ra sao khi thấy mình đang trèo khỏi bến cảng New York.”

“Tai nạn xảy ra cách đây hai năm, đúng không?” Với điều đó, cô cúi đầu tránh né “Phải, ờ thì…”

“Tôi nhớ đã đọc về tang lễ của chị.” Tristan nói, “Rất nhiều người nổi tiếng tham dự.”

“Và rất nhiều người gần nổi tiếng. Người ta luôn tìm kiếm sự quảng bá.” Có một nét cay đắng trong giọng cô. “Tôi ước chi cậu nhìn thấy mẹ tôi, than khóc và rền rĩ.” Lacey vung tay làm điệu bộ giống như bức tượng bằng đá cẩm thạch của người phụ nữ đang khóc lóc ở hàng mộ bên cạnh. “Cậu sẽ nghĩ bà ta hẳn phải mất người mà bà ta yêu quý.”

“Ồ, bà ấy hẳn phải như thế nếu chị là con gái của bà.”

“Cậu ngây thơ quá đi, đúng không.” Đó là một lời phát biểu hơn là một câu hỏi. “Cậu có thể học hỏi được vài thứ về con người nếu như cậu tham gia lễ tang của chính mình. Có lẽ cậu vẫn có thể học. Có một lễ an táng trên cạnh phía đông sáng nay. Đi thôi.” Cô nói.

“Đến lễ an táng ư? Đó không phải một loại bệnh hoạn sao?”

Cô cười với anh qua vai. “Không có gì là bệnh hoạn hết, Tristan, cậu chỉ chết một lần thôi. Hơn nữa, tôi thấy chúng hết sức thú vị. Và khi chúng không, tôi tạo cho chúng như thế, và nếu cậu thích cậu có thể dùng đôi chút cổ vũ. Đi nào.”

“Tôi nghĩ tôi sẽ bỏ qua.”

“Cô quay lại và nghiên cứu anh trong một phút, đầy bối rối. “Được rồi. Điều này thì sao : Tôi thấy một nhóm các cô gái đến lúc sớm, tiến về khu vực an táng những người sang trọng của thị trấn. Có lẽ cậu thích điều đó hơn. Cậu biết đấy, khán giả tốt rất khó kiếm được, đặc biệt khi cậu đã chết và phần lớn bọn họ không thể nhìn thấy cậu.”

Cô bắt đầu rảo bước theo vòng tròn.

“Phải, điều đó tốt hơn nhiều.” Dường như cô nói với chính mình hơn là với anh. “Điều đó sẽ cho tôi vài ý nghĩa.” Cô liếc lên Tristan. “Cậu thấy đấy, phí thời gian với bữa tiệc đám ma không thật sự đáng tán thành. Nhưng thế này nhé, tôi sẽ trình diễn một buổi lễ. Lần kế tiếp các cô gái đó sẽ suy nghĩ kỹ hơn về việc kính trọng cái chết.”

Tristan đã hy vọng rằng một người khác giống như anh sẽ làm sáng tỏ mọi thứ, nhưng…

“Oh, phấn khởi lên nào, chàng lùn!”

Cô bắt đầu đi xuống con đường. Tristan đi theo và cố nhớ lại xem liệu anh có từng đọc đâu đó rằng Lacey Lovitt bị khùng hay không. Cô dẫn anh đến một khu cũ hơn của nghĩa trang, nơi có những mảnh đất gia đình được sở hữu bởi những cư dân giàu sang, lâu đời của Stonehill. Bên một cạnh của con đường, những lăng mộ với mặt tiền giống như một ngôi đền thu nhỏ, chìm lưng của chúng vào trong rặng đồi. Trên một cạnh khác là những khối vuông giống như khu vườn với những đài kỷ niệm cao, thanh nhã, và đủ loại tượng đá bằng cẩm thạch. Tristan đã đến đó trước đây. Với yêu cầu của Maggie, Caroline đã được chôn cất trong khu đất của gia đình Bains.

“Phô trương, huh?”

“Tôi ngạc nhiên là chị lại vay mượn từ tôi đấy.” Tristan nhận xét.

“Ồ, tôi có hàng triệu cơ hội ấy chứ.” Lacey nói. “Hàng triệu đấy nhé. Nhưng từ trái tim, tôi là một cô gái đơn giản đến từ khu vực bờ đông thấp kém hơn của New York. Tôi đã khởi nghiệp với những bữa chè chén, nhớ lại đi, và vì vậy … Nhưng không cần thiết phải đi vào mọi điều. Tôi chắc là bây giờ cậu đã nhận ra tôi, cậu hẳn biết tất cả về tôi rồi.”

Tristan không bận tâm đến việc chỉnh lại cô

“Vậy cậu nghĩ những cô gái đó có gì trong đầu?” Cô hỏi, ngừng nhìn quanh quất. Không có ai trong tầm mắt, chỉ có những tảng đá trơn láng, những bông hoa rực rỡ, và một biển cỏ tươi tốt.

“Tôi đang tự hỏi điều tương tự về chị.” Anh đáp.

“Oh, Tôi chỉ ứng biến thôi. Tôi nghi ngờ việc cậu có thể giúp đỡ được nhiều. Cậu chưa thể có được bất kỳ kỹ năng thật sự nào hết. Hầu như tất cả những gì cậu có thể làm là đứng ở đó và tỏa sáng lung linh, giống như vài thứ đồ trang trí giáng sinh kỳ ảo – nghĩa là chỉ một hoặc hai người có lòng tin thuần nhất sẽ thấy được cậu.”

“Người có lòng tin thuần nhất ư?”

“Ý cậu là cậu vẫn chưa suy ra được điều đó à?” Cô lắc đầu không thể tin được.

Nhưng anh đã luận ra điều đó rồi, anh chỉ không muốn thừa nhận nó thôi, không muốn nó là sự thật. Bà cụ già là người có lòng tin. Philip cũng vậy. Cả hai người đã thấy anh tỏa sáng. Nhưng Ivy thì không. Ivy đã ngừng tin tưởng mất rồi.

“Chị có thể làm nhiều thứ hơn việc tỏa sáng sao?” Tristan hỏi đầy hy vọng.

Cô nhìn anh như thể anh hoàn toàn ngu ngốc. “Cậu cho rằng tôi đã làm gì trên trái đất này trong hai năm qua hả?”

“Tôi không có ý tưởng nào hết.” Tristan nói.

“Đừng nói với tôi, Trời Thần Thiên Địa ơi, đừng nói với tôi là tôi sắp phải giải thích cho cậu về sứ mệnh đấy nhé.”

Anh lờ đi sự cường điệu. “Chị đã đề cập đến điều đó trước đây rồi. Sứ mệnh gì thế?”

“Sứ mệnh của cậu, sứ mệnh của tôi.” Cô đáp nhanh. “Mỗi chúng ta có một sứ mệnh. Và chúng ta phải hoàn thành nó nếu chúng ta muốn đến được nơi những người khác đến.” Cô bắt đầu bước tiếp, khá nhanh, và anh phải vội vã để theo kịp cô.

“Nhưng sứ mệnh của tôi là gì?”

“Làm sao mà tôi biết được cơ chứ?”

“Ai đó phải nói với tôi chứ. Làm sao tôi có thể hoàn thành nó nếu như không có gợi ý nào để biết được nó là cái gì?” Anh hỏi, vỡ mộng.

“Đừng phàn nàn với tôi về điều đó.” Cô cáu kỉnh. “Nhiệm vụ của cậu là phải tìm ra nó.” Với giọng hòa nhã hơn cô thêm vào. “Nó thường là loại công việc còn dang dở. Đôi khi là ai đó cậu quen biết cần đến sự giúp đỡ của cậu.”

“Vậy tôi có ít nhất hai năm để…”

“Ồ, không, đó không chính xác là cách nó vận hành,” Cô nói, làm một động tác né tránh vui nhộn bằng đầu cô mà anh đã thấy trước đó. Cô tiến về phía trước, rồi đi xuyên qua hàng rào bằng sắt màu đen, những họa tiết rỉ sét và cuộn xoắn của nó tạo nên những mẫu vật kỳ dị trái ngược với những bức tường của một nhà nguyện bằng đá cổ xưa. “Chúng ta hãy tìm đám nhóc.”

“Chờ chút.” Anh nói, vươn tới cánh tay cô. Cô là thứ anh có thể cầm nắm được. “Chị phải nói với tôi. Nhiệm vụ này vận hành chính xác như thế nào?”

“Well… well, cậu được cho là phải tìm ra và hoàn thành nhiệm vụ của cậu ngay khi có thể. Có những thiên thần mất một vài ngày, có những thiên thần mất một vài tháng.”

“Và chị đã có điều đó trong hai năm,” Anh nói. “Chị đã tiến gần đến việc hoàn thành sứ mệnh của chị như thế nào rồi?”

Cô bập bập lưỡi vào răng. “Không biết.”

“Tuyệt!” Anh nói. “Tuyệt thật! Tôi không biết mình đang làm gì và cuối cùng tôi tìm được cho mình một người hướng dẫn, chỉ có điều… cô ấy tốn thời gian lâu hơn tám lần so với những người khác.”

“Lâu hơn hai lần thôi.” Cô nói. “Trước đây tôi đã gặp một Thiên Thần mất thời gian một năm. Cậu thấy đấy, Tristan, tôi có đôi chút xao lãng. Tôi đang định thực thi nhiệm vụ thì tôi thấy những cơ hội quá tuyệt để bỏ qua. Một vài trong số chúng không thật sự đáng phê chuẩn.”

“Một vài trong số chúng ư? Như điều gì?” Tristan hỏi đầy vẻ nghi ngờ.

Cô nhún vai. “Một lần, tôi làm rớt ngọn chúc đài sân khấu trên gã bạn trai ngớ ngẩn của tôi – là đầu của tay đạo diễn ấy mà– bị trượt, dĩ nhiên rồi. Hắn luôn là một fan lớn của Phantom of the Opera – đó là điều tôi ngụ ý về một cơ hội quá tuyệt để có thể bỏ qua. Và đó là cách nó thường xảy đến với tôi. Tôi có hai mục tiêu gần với sứ mệnh hơn, rồi thứ gì đó lại bắt kịp, và tôi có ba mục tiêu đã quá hạn, và không bao giờ hoàn toàn có thể suy đoán ra được nhiệm vụ của mình nữa. Nhưng đừng lo – cậu chắc sẽ khéo léo hơn tôi nhiều. Đối với cậu, đó chỉ là một cái búng tay thôi.”

Mình sẽ thức dậy, Tristan nghĩ, và đêm kinh hoàng này sẽ trôi qua, và Ivy đang nằm trong đôi tay mình…

“Cậu muốn cá bao nhiêu rằng những cô gái đó ở trong nhà nguyện?”

Tristan nhìn tòa nhà bằng đá xám. Những cánh cửa của chúng được buộc chặt bằng những sợi xích nặng nề từ khi anh còn thơ ấu. “Có cách vào bên trong sao?”

“Với chúng ta, luôn có một cách. Với bọn họ, một ô cửa sổ vỡ ở phía sau. Có câu hỏi đặc biệt nào khác không?”

“Gì cơ?”

“Bất kỳ điều gì cậu muốn thấy tôi làm.”

Đánh thức tôi dậy. Tristan nghĩ. “Uh, không.”

“Cậu biết không, tôi không biết điều gì diễn ra trong đầu cậu, Tris, cậu đang hành động thiếu sinh khí hơn cả cái chết.” Rồi cô lướt xuyên qua tường. Tristan đi theo sau.

Ngôi nhà nguyện tối tăm, ngoại trừ một ô vuông phát sáng xanh rì nơi khuôn cửa sổ bị vỡ phía sau. Những chiếc lá khô và gạch vụn nằm rải rác trên sàn, cùng với những chiếc chai vỡ và tàn thuốc lá. Những chiếc ghế dài bằng gỗ được chạm khắc những chữ cái và được bôi đen với những ký hiệu mà Tristan không thể giải mã được.

Những cô gái, anh ước lượng khoảng mười một hoặc mười hai người, ngồi trong một vòng tròn trên khu vực bệ thờ, và đang cười khúc khích trong nỗi bồn chồn.

“Được rồi, chúng ta định triệu hồn ai đây?” Một trong số họ hỏi. Họ liếc vào một người khác, rồi qua sau vai của họ.

“Jackie Onassis,” Một cô gái với dải tóc nâu cột đuôi ngựa nói.

“Kurt Cobain.” Một người khác đề nghị.

“Bà ngoại tớ đi.”

“Ông chú tuyệt vời Lennie của tớ.”

“Tớ biết nè!” Một tóc vàng nhỏ bé mặt đầy tàn nhang nói. “Tristan Carruthers thì thế nào?”

Tristan chớp mắt.

“Quá máu me.” Người dẫn đầu nói.

“Phải đó.” Cô nàng da ngăm nói, kéo đuôi tóc cột đuôi ngựa thành hai lọn dài. “Anh ấy chắc là có những chiếc sừng ló ra từ sau đầu.”

“Ew! Ghê quá!”

Lacey cười khúc khích.

“Chị tớ đã cực kỳ say mê anh ấy,” Tóc vàng đầy tàn nhang nói. Lacey đá lông nheo với Tristan.

“Một lần, khoảng đó, khi chúng tớ bỡn cợt quanh hồ bơi, anh ấy, đại khái là, huýt sáo vào chúng tớ. Điều đó thật tuyệt.”

“Anh ấy thật cường tráng!”

Lacey thọc một ngón tay vào cổ họng và đảo tròn mắt.

“Tuy vậy, anh ấy vẫn đẫm máu,” đầu đỏ nói. “Chúng ta có thể gọi ai khác nữa nào?”

“Lacey Lovitt”

Những cô gái nhìn quanh quất vào nhau. Người nào trong số họ đã nói điều đó?

“Tớ nhớ ra cô ấy rồi. Cô ấy ở trong phim Dark Moon Running.”

“Dark Moon Rising.”

Đó là giọng của Lacey, Tristan nhận ra, âm thanh tương tự nhưng khác biệt, cách thức một giọng nói phát qua truyền hình thì giống, nhưng khác xa một giọng nói sống động. Bằng cách nào đó chị ấy đã tạo ra chúng theo cách mà tất cả bọn họ có thể nghe thấy.

Những cô gái nhìn quanh, dáo dác sợ hãi.

“Chúng ta hãy nối tay nào.” Người dẫn đầu nói. “Chúng tôi đang triệu hồi Lacey Lovitt. Nếu cô ở đây, Lacey, hãy cho chúng tôi dấu hiệu.”

“Tớ chưa bao giờ thích Lacey Lovitt.”

Tristan thấy mắt của Lacey lóe sáng.

“Suỵt. Những linh hồn bây giờ đang ở quanh chúng ta đấy.”

“Tôi nhìn thấy họ!” Một tóc vàng nhỏ bé nói. “Tôi nhìn thấy ánh hào quang của họ. Cả hai người bọn họ!”

“Tớ cũng vậy.”

“Tớ không thấy!” Cô gái tóc nâu cột đuôi ngựa nói.

“Chúng ta hãy kiếm ai đó khác hơn Lacey Lovitt.”

“Phải rồi, cô ta đáng ghét lắm!”

Đến lượt Tristan cười khúc khích.

“Tớ thích cô nàng mới trong Dark Moon. Người đã thế chỗ cô ta ấy.”

“Tớ cũng vậy.” Đầu đỏ đồng ý.

“Cô ấy là một diễn viên tốt hơn nhiều. Và cô ấy có mái tóc đẹp hơn.”

Tiếng cười của Tristan dịu xuống. Anh liếc Lacey đầy cảnh giác.

“Hay đấy, nhưng cô ấy không chết.” Người dẫn đầu nói. “Chúng tôi đang gọi Lacey Lovitt. Nếu cô ở đây, Lacey, hãy cho chúng tôi một dấu hiệu.”

Sự việc được khởi đầu với một vòng xoáy chậm rãi của bụi. Tristan nhận ra rằng bản thân Lacey trở nên mờ đi khi bụi được khuấy động lên cao. Rồi đám bụi lắng xuống và cô đã ở đó lần nữa, chạy quanh bên ngoài vòng tròn, đang kéo tóc.

Những cô gái thét lên và ôm lấy đầu họ. Cô bắt lấy hai người trong số họ, rồi túm chặt áo len của họ và quăng quật họ qua lại.

Vào lúc này, những cô gái không bị túm giữ, vẫn đang la thét, và đang chạy nháo nhào về ô cửa sổ mở. Những cái chai rỗng bay qua đầu họ và va mạnh vào bức tường nhà nguyện. Thoáng chốc, các cô gái đã đi khỏi, tiếng thét của họ kéo lê phía sau giống như những tiếng chim kêu yếu ớt.

“Hay nhỉ.” Tristan nói khi mọi thứ đã yên lặng trở lại. “Tôi đoán mọi người sẽ vui mừng rằng không có ngọn chúc đài nào ở đây. Cảm thấy tốt hơn chứ?”

“Đám nhãi ranh!”

“Chị làm được điều đó bằng cách nào thế?” Anh hỏi.

“Tôi đã thấy cô nàng diễn viên mới đó. Cô ả khó ưa.”

“Tôi chắc chắn,” Tristan nói, “rằng cô ta không thể gây ấn tượng bằng chị. Chị đã kéo lên và ném đi. Chị làm điều đó bằng cách nào thế? Tôi không thể sử dụng đôi tay của tôi được một chút nào hết.”

“Tự suy đoán điều đó đi.” Cô vẫn còn đang giận bốc khói. “Tóc đẹp hơn cơ đấy!” Cô kéo một lọn tóc màu đỏ tía. “Đây là phong cách của riêng tôi.” Cô trừng mắt nhìn Tristan. Anh mỉm cười đáp lại.

“Về việc làm thế nào tôi có thể sử dụng tay của tôi,” Cô nói, “cậu thật sự nghĩ rằng tôi sẽ bỏ thời gian quý báu của tôi để dạy cậu à?”

Tristan gật đầu. “Khán giả tốt rất khó kiếm được,” Anh nhắc nhở cô, “đặc biệt khi chị đã chết và phần lớn mọi người không thể nhìn thấy chị.” Rồi anh để cô lại hờn dỗi trong nhà nguyện. Anh đoán là cô sẽ biết cách xác định vị trí của anh và sẽ làm khi cô đã sẵn sàng.

Ra bên ngoài trong ánh nắng mặt trời giữa trưa lần nữa, Tristan chớp mắt. Trong khi anh không có cảm giác về sự thay đổi của nhiệt độ, có vẻ anh khá nhạy cảm với ánh sáng và bóng tối. Trong nhà nguyện tối tăm, anh thấy những tia sáng tỏa quanh các cô gái, và lúc này, trong khu vườn rợp bóng cây, những vệt nắng dường như chiếu sáng lóa mắt. Có lẽ đó là lý do anh nhìn lầm người khách viếng thăm nghĩa trang là Gregory. Cách ông ta di chuyển, mái tóc sẫm, và hình dáng của cái đầu thuyết phục Tristan là Gregory đang rời khỏi từ khu đất của gia đình Bains. Sau đó, y như thể ông ta cảm nhận được có ai đang quan sát mình, người khách quay nhìn quanh. Ông ta già hơn Gregory nhiều. Bốn mươi hoặc tầm đó, và gương mặt ông ta vặn xoắn trong nỗi đau buồn. Tristan vươn một bàn tay ra nhưng người đàn ông đã quay người và tiếp tục rời khỏi. Tristan cũng định làm thế, trước khi anh nhận ra một đóa hoa hồng đỏ thắm thân dài nằm giữa lòng ngôi mộ xanh tươi của Caroline.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương