Nhất Nộ Bạt Kiếm
-
Chương 13: Tin
Vương Tiểu Thạch chỉ đưa ra một câu trả lời như thế này.
“Chuyện này, nếu làm, các người không thể rút lui; không làm, cũng không miễn cưỡng, nhưng đừng hỏi ta là chuyện gì, chưa đến lúc nên nói thì ta sẽ không nói.” Sau đó, Vương Tiểu Thạch lại hỏi: “Các người có làm hay không?”
“Ta làm.” Đường Bảo Ngưu là người đầu tiên trả lời.
“Ta cũng đi.” Phương Hận Thiểu nói. “Mọi người đều tín nhiệm ngươi như thế, ta làm sao không tin ngươi cho được?”
“Chuyện thú vị thế này làm sao có thể thiếu ta?” Ôn Nhu nửa cười nửa không lên tiếng. “Cho dù ta không tin tên Quỷ Kiến Sầu đó, thì cũng tin tên Tiểu Thạch Đầu nhà huynh.”
Vì thế, họ đều đi.
Bất luận Vương Tiểu Thạch muốn làm điều gì.
Họ sẽ đều làm theo.
Nguyên nhân, chỉ vì niềm tin.
Niềm tin là một bằng chứng, cũng là một sự gửi gắm, người không có sẽ rất cô độc, người có rồi thì rất kiên định. Niềm tin nảy sinh ở một người, đó là vì hào quang của tính cách; niềm tin biến mất ở một người, đó là khuyết điểm không thể bù đắp được về mặt nhân cách.
Họ tin tưởng Vương Tiểu Thạch.
Cho nên họ đi theo gã mà chẳng hề suy xét.
Nhưng điều Vương Tiểu Thạch muốn làm, thật sự có đáng để họ đặt lòng tin vững chắc hay không?
Nếu Vương Tiểu Thạch thất tín trước mặt họ, vậy những bằng hữu huynh đệ này sẽ nghĩ như thế nào?
Vương Tiểu Thạch cần phải hạ sát Gia Cát tiên sinh.
Trước khi giết Gia Cát tiên sinh cần phải chuẩn bị. Bước đầu tiên chính là rút lui khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu. Cho dù Vương Tiểu Thạch thành hay bại, Gia Cát tiên sinh sống hay chết đều chẳng liên quan gì đến bọn Tô Mộng Chẩm, Bạch Sầu Phi. Đương nhiên, không ai truy cứu được Kim Phong Tế Vũ lâu.
Đương nhiên nếu hành thích thành công, luận công ban thưởng, tất không thiếu phần Kim Phong Tế Vũ lâu.
Cho nên điều đầu tiên Vương Tiểu Thạch phải làm chính là viết thư gửi Tô Mộng Chẩm.
Nội dung bức thư là: Rút khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu.
Ngọn bút của Vương Tiểu Thạch hết sức thoải mái tự nhiên.
Muốn rút khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu cần phải tìm một cái cớ nào đó.
Nếu một người muốn “phản bội” thượng cấp của y, “bất phục” mãi mãi là lý do xác đáng nhất.
Gã “bất phục” Tô Mộng Chẩm, tự cho rằng mình không chỉ có thể làm “tam đương gia”.
Gã “bất phục” Tô Mộng Chẩm lãnh đạo Kim Phong Tế Vũ lâu, không tán thành y âm thầm ủng hộ phe phái của Gia Cát tiên sinh trong triều đình.
Gã “bất phục” Ôn Nhu tại sao thích gây gổ với mình, mà lại đối xử có tình với Bạch Sầu Phi.
“Bất phục”.
Chính là một lý do.
Vương Tiểu Thạch cảm thấy lời lẽ của mình rất chặt chẽ, có thể giấu trời qua biển được rồi.
Khi viết đến điểm thứ ba, Vương Tiểu Thạch đột nhiên giật mình: rốt cuộc mình có thật sự nghĩ như thế không? Vết mực trên giấy tuyên vẫn chưa khô, gã cầm bút, nhất thời không viết tiếp được, ngẩn ra một hồi.
Ngoài trời lạnh lẽo, một vài ngày nữa, chắc sẽ đổ một trận tuyết lớn.
Tuyết bắt đầu rơi, thì sẽ không dễ ngơi nghỉ.
Ít nhất, cái lạnh không thể nào tiêu tan trong khoảng thời gian ngắn.
Bên ngoài thư trai, chỉ thấy tửu lâu kỹ viện cực kỳ hào hoa. Hoàng hôn buông xuống, đèn đuốc đốt lên, chỉ thấy một vùng phồn thịnh, đúng là ba mặt tương thông, ngũ lâu chụm lại đâu đâu cũng có mái hiên uốn lượn, lan can chìa ra, chỗ tối chỗ sáng đan xen lẫn lộn, rèm buông trướng rủ, ánh sáng rực rỡ huy hoàng.
Lúc bấy giờ, Tây Hạ đang quấy rối biên ải, quân Liêu quật khởi, người Kim ngày càng ngang ngược, giặc cướp nổi lên như ong, Phương Lạp ở miền Triết Giang dấy binh làm loạn, hơn hai mươi vạn người tham gia, miền Hoài Nam có Tống Giang, cùng ba mươi sáu người khởi sự, hoành hành vùng Hà Sóc, cướp đến mười quận, không ai chặn nổi, còn quân chủ thì lại hoang dâm, gian thần nắm quyền, tiêu xài hoang phí, thế nước ngày càng suy yếu.
Đây là giấc mộng hào hoa hay là hiện thực đau thương?
Có lẽ ta cũng từng nghĩ đến, nếu không, sao lại vô tình xét thái độ của Ôn Nhu vào lý do thứ ba! Nếu thật như thế, ta đúng là kẻ tiểu nhân bỉ ổi, hổ thẹn với Bạch nhị ca.
Ý nghĩ ấy vẫn lởn vởn trong đầu Vương Tiểu Thạch.
Xem ra, mùa đông này sẽ rất dài!
Mùa đông này chắc sẽ rất lạnh!
Ôn Nhu lại là một nữ tử rất sợ lạnh!
Trong lúc ngẩn ngơ, mực trong nghiên đã két cứng lại.
Vương Tiểu Thạch mài mực, viết xong bức thư, giao cho Tường Ca Nhi, trình lên cho Tô Mộng Chẩm, gã tin rằng lúc này, Bạch Sầu Phi đã báo cho Tô Mộng Chẩm biết mọi điều.
Vương Tiểu Thạch viết xong bức thư, cuộn hết tranh chữ trong Sầu Thạch trai lại, đặt cho ngay ngắn rồi khép cửa.
Đám bằng hữu mới và cũ, Ôn Nhu, Phương Hận Thiểu, Đường Bảo Ngưu đã đứng chờ đợi gã ở dưới hí đài gần ngõ Ngõa Tử, để cùng đi làm một chuyện, một chuyện lớn chấn động kinh sư, kinh động cả triều đình.
Lúc này, trên hí đài chắc cũng đang diễn một vở tuồng!
Không biết xướng khúc hay là tạp kịch, kể chuyện hay là múa rối?
Vở tuồng này của bọn gã, giờ chắc cũng đã đến giờ biểu diễn rồi?
Không biết khi đại ca nhận được thư, trận tuyết đầu tiên trong ngày rơi xuống chưa? Mệnh lệnh đầu tiên của huynh ấy đã hạ xuống hay chưa? Khi huynh ấy ngồi bên bếp lửa, trước cửa sổ phía Tây của Lục lâu, mở thư ra xem sẽ có tâm trạng như thế nào?
Khi Bạch Sầu Phi nhận bức thư từ tay Tường Ca Nhi, thư vẫn chưa dán lại, Bạch Sầu Phi mở ra xem trước.
Sau đó y nói: “Được rồi, ngươi đi đi!”
Tường Ca Nhi cảm thấy hơi lạ lùng, nhưng không dám hỏi.
Y có một cảm giác kỳ lạ.
Y cảm thấy Bạch Sầu Phi đang cười.
Cho dù bên ngoài một nét cười cũng chẳng có, nhưng trong lòng y nhất định đang cười. Tại sao y lại không lộ nét cười ấy ra ngoài? Điều lạ lùng là khi Tường Ca Nhi nghĩ đến điểm này, trong lòng đột nhiên dâng lên cảm giác không lạnh mà run. Y cũng không biết tại sao mình lại có cảm giác như thế.
Trước khi đến ngõ Ngõa Tử, Vương Tiểu Thạch vẫn quyết định đến một nơi trước.
Đó chính là nhà ngục của Đại Lý Tự, gã đến để thăm dò sự an nguy của Trương Nham.
Vương Tiểu Thạch cảm thấy việc Trương Nham bị bắt có thể lớn cũng có thể nhỏ, còn quyển sách Trương Nham vô tình đánh cắp được, chắc chắn có điều bí ẩn.
Khoảng thời gian này, Vương Tiểu Thạch đã kết thành bằng hữu tri giao với một kẻ thích lập công lớn, thích làm anh hùng là Đường Bảo Ngưu, cùng một kẻ nhát gan sợ xảy chuyện nhưng lại ưa sinh chuyện là Trương Nham.
Huynh đệ có nạn, làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn?
Đây là nguyên tắc của người giang hồ.
Vương Tiểu Thạch viết được chữ đẹp, lại làm khá nhiều bài thơ hay, văn chương lai láng, võ công cao, kiếm pháp giỏi, đao pháp thuộc hạng nhất lưu. Có thể nói gã là văn nhân, cũng là võ nhân, nhưng trên hết tất cả, gã là người giang hồ. Cũng giống như người ta cho dù làm nghề gì đều chỉ là kiêm nhiệm, nghề nghiệp suốt đời của một con người đương nhiên là làm người.
Làm người mới chính là “nghề chính” của con người.
Là một người giang hồ tốt mới là “bổn phận” của Vương Tiểu Thạch.
Gã quyết định phải đi thăm dò chuyện Trương Nham trước.
Người sống trên đời, thường vì một vài sự chọn lựa hoặc quyết định xem ra không quan trọng, mà thay đổi.
Ở bên dưới Hoàng Hạc lâu, chỉ vì gã nhìn thêm một cái mà quen Bạch Sầu Phi, lần đầu tiên đối địch với Lục Phân Bán đường.
Bên bờ Hán Thủy, chỉ vì nhìn thêm một cái mà quen Lôi Thuần, lần đầu tiên đối mặt với người của Mê Thiên Thất Thánh.
Trong cơn mưa ở khu phế tích tại phố Khổ Thủy, gã cứu Tô Mộng Chẩm, cùng y đến Tam Hợp lâu, trở thành tam đương gia của Kim Phong Tế Vũ lâu!
Vậy còn lần này thì sao?
Ai mà biết.
Không ai biết dòng chảy số mệnh đưa đẩy con người ta đến đâu.
Có lẽ có số mệnh, nên con người mới phải làm những chuyện mình không thể kiểm soát nổi.
Người ta sống có lẽ chính là để tự tạo phiền não cho mình, hoặc tạo phiền não cho người khác. Không có phiền não, không phải là con người.
Nếu đây là chân lý, đem hai chữ “phiền não” đổi thành “niềm vui”, con người sẽ trở nên thoải mái hơn nhiều, vui thích hơn nhiều.
Đáng tiếc, bất cứ niềm vui nào cũng phải trả giá.
Có lúc, cái giá phải trả thực sự quá lớn.
Cũng giống như có một số hàng hóa, giá cả đắt quá, cho nên khiến người ta không mua nổi.
Niềm vui cũng thế.
Cũng may là niềm vui chân chính, ngược lại giá cao cũng khó mua được, mà chỉ có thể thu hoạch từ trong nội tâm.
Có điều làm sao có thể giải phóng niềm vui từ trong nội tâm sâu thẳm của bản thân, đây cũng là một học vấn thâm sâu: trước tiên phải tự túc, sau đó phải cầu thiện, tiếp theo phải nhìn thấu, ngoài ra còn phải cởi mở, thì mới có thể đạt được tự tại.
Ngàn vàng dễ có, niềm vui khó tìm!
Xưa nay Tô Mộng Chẩm không phải là một người vui vẻ.
Thần sắc của y rất u uất, lại thêm thân thể mang bệnh, cho nên cuộc sống của y cũng tựa như hai đốm lửa ma trong đôi mắt y vậy, thân hình ốm yếu chẳng còn hơi sức, chỉ còn lại hai đốm đỏ trên đôi má xanh xao.
Phải chăng đó là lửa bệnh đang thiêu đốt các đường kinh lạc?
Từ sau khi bị què chân, thần tình của y càng u uất khó đoán.
Bây giờ ánh mắt y càng buồn thêm.
Ngoại trừ điểm này, Bạch Sầu Phi cũng không quan sát thêm được gì nữa.
Tô Mộng Chẩm vừa đọc thư xong.
Thư của Vương Tiểu Thạch.
Y buông bức thư xuống đầu gối mình, đôi mắt tựa ngọn lửa lạnh buốt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Phía xa là thanh sơn, nơi gần là đình đài lầu các. Sơn ngoại thanh sơn.
Lâu ngoại lâu.
Y xem xong thư, rất mệt mỏi, tựa như đột nhiên già thêm mười năm tuổi.
Y ngồi trên chiếc ghế gỗ cao lớn, được đóng từ những khối gỗ dài ngắn khác nhau. Mỗi khúc gỗ đều rất thẳng thớm, ghế này dựa được, mà ngả lưng nằm cũng được, nhưng lại không thoải mái lắm!
Quyền lực của Tô Mộng Chẩm có thể nói là đệ nhất trong Kinh thành, nhưng tại sao y lại ngồi trên một chiếc ghế thô kệch không thoải mái như thế này?
Thực ra, ngoài ngai rồng, ghế nào y cũng ngồi được.
Có lẽ Tô Mộng Chẩm chọn chiếc ghế này, là vì muốn bản thân mình không cảm nhận được sự thoải mái, chỉ có cảm giác khó chịu mới có thể nâng cao cảnh giác, tiếp tục phấn đấu.
Với thân phận địa vị của Tô Mộng Chẩm, y không thể thất bại: y đã “đứng” quá cao, hơn nữa quá trình leo lên nơi cao này đã khiến y bị thương khắp mình mẩy, nếu đột nhiên té xuống, e rằng công lực khó giữ được nguyên vẹn, mà cả mạng sống cũng khó bảo toàn.
Bạch Sầu Phi nhìn con người cô độc mà kiêu ngạo ấy, trong lòng đột nhiên dâng lên nhiều cảm xúc phức tạp.
Một trong số đó là: nếu kẻ ngồi trên chiếc ghế này chính là y, không biết bản thân sẽ như thế nào?
“Nước hồ lại dâng lên rồi, sẽ có ngày nước tràn ra!”
Tô Mộng Chẩm thong thả nói, đột nhiên chêm thêm một câu hỏi: “Đệ đang nghĩ gì?”
Bạch Sầu Phi trả lời, thần sắc không hề thay đổi: “Đệ đang nghĩ tại sao tam đệ lại làm như thế?”
Tô Mộng Chẩm thở dài: “Có lẽ hắn thật sự nghĩ như thế.”
Sự cô độc lạnh lẽo trong mắt Tô Mộng Chẩm càng nhiều hơn.
“Người ta chỉ muốn làm điều mình muốn làm.”
“Có lúc người ta cũng sẽ làm chuyện không muốn làm, phải chăng y bị ép buộc?” Bạch Sầu Phi nói với giọng u buồn: “Y đi theo thái sư Thái Kinh quyền cao chức trọng đương nhiên không thích chúng ta ủng hộ Gia Cát tiên sinh, nhưng đệ thực sự không hiểu, Tiểu Thạch theo lý đâu phải là hạng người này.”
Tô Mộng Chẩm đột nhiên dùng tay ôm ngực trái, nét mặt xám ngoét, đôi chân mày chau lại. Lúc này Bạch Sầu Phi mới phát hiện, gần nửa năm nay, chân mày của Tô Mộng Chẩm đã rụng không ít, tóc cũng lưa thưa.
Một hồi lâu sau, Tô Mộng Chẩm mới bật tiếng ho, ho như bật cả tim phổi ra ngoài.
Sau đó, Tô Mộng Chẩm mới khẽ hỏi một câu: “Lão tam không giải thích với đệ chuyện gì sao?”
Bạch Sầu Phi thở dài đánh thượt.
Tô Mộng Chẩm cũng không nói gì nữa.
Y đưa mắt nhìn hoa tuyết bay tơi tả bên ngoài, tựa như hóa thân làm cây khô ven hồ, chờ đợi sự lạnh lẽo của mùa đông.
Vương Tiểu Thạch vừa đến nhà ngục của Đại Lý Tự, Nhan Hạc Phát đã kéo gã lại, bộ dạng hớt hải.
Vương Tiểu Thạch thấy lão như thế bèn hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”
Trong đám cao thủ ngọa hổ tàng long ở kinh kỳ, có thể nói Nhan Hạc Phát cũng thuộc loại tuổi cao vọng trọng, lão là đại thánh chủ trong Mê Thiên Thất Thánh, sau khi Thất Thánh Minh tan rã, lão gia nhập Kim Phong Tế Vũ lâu, cũng có được quyền uy tương đương, đồng đạo võ lâm xưa nay đều kính sợ, bằng hữu trong quan trường cũng nể mặt lão. Thế nên, chuyện cỏn con thế này mà cả một Nhan Hạc Phát quen biết rộng rãi, thủ đoạn cao minh không giải quyết được, Vương Tiểu Thạch cũng không khỏi ngạc nhiên.
“Trương huynh đệ vào đây, vốn là phải chịu khổ, ta đã ngăn chặn, nhưng họ không dám thả người,” Nhan Hạc Phát ngượng nghịu nói. “Đây là người Tứ đại danh bổ bắt về, không ai dám quyết định, cũng không ai dám tự tiện thả ra.”
Vương Tiểu Thạch nhướng mày nói: “Tứ đại danh bổ cũng uy phong thật, Trương Nham đâu phải phạm tội gì lớn, sao phải bắt hắn nếm mùi khổ sở làm gì, họ cũng không nể mặt Kim Phong Tế Vũ lâu chút nào sao, bây giờ danh bổ đại gia nào đang trực?”
Nhan Hạc Phát nghe gã nói thế cũng không khỏi bật cười: “Thiết nhị gia và Thôi tam gia áp giải hắn vào đây rồi bỏ mặc, bây giờ Lãnh tứ gia đang giải quyết, hắn xưa nay thiết diện vô tư, lục thân bất nhận, không nghe theo bất cứ ai.”
Vương Tiểu Thạch giật mình: “Lãnh tứ gia? Lãnh Huyết?”
Nhan Hạc Phát trả lời: “Chính là hắn.”
Gặp phải Tứ đại danh bổ, cho dù lão đức cao vọng trọng đến đâu cũng không cách nào giải quyết được.
Vương Tiểu Thạch hừ một tiếng: “Ta phải bái kiến vị dũng sĩ sử kiếm đệ nhất danh chấn giang hồ này một phen mới được.”
“Hắn vẫn chưa đến.” Nhan Hạc Phát lên tiếng. “Trương Nham vẫn còn bị giam trong ngục.”
Vương Tiểu Thạch ngần ngừ giây lát rồi nói: “Ta muốn gặp Trương Nham trước đã.”
Nhan Hạc Phát nói: “Chuyện này thì không thành vấn đề.” Lão đã sớm mua chuộc bọn canh cửa, cho nên Vương Tiểu Thạch có thể dễ dàng vào nơi nhốt tội phạm để gặp mặt Trương Nham.
Nhan Hạc Phát vốn định theo vào, nhưng Vương Tiểu Thạch biết Trương Nham háu ăn, sau khi bị nhốt, chắc chắn là chưa được ăn gì, liền kêu lão đi chuẩn bị.
Sau khi Nhan Hạc Phát sắp xếp mọi thứ, Vương Tiểu Thạch vào trong nhà lao, đây là lần đầu tiên gã bước vào nhà lao.
Ngươi đã từng vào nhà lao chưa?
Nếu ngươi đã từng vào nhà lao, thì có thể biết đó là một thế giới phi nhân thế nào.
Nơi đây không phải là nhân gian.
Những kẻ bị nhốt ở đây đều mất tự do, đều tuyệt vọng, mùi bệnh hoạn lan tràn trong không khí, có người chịu oan ức bị bắt nhốt, có người căn bản chỉ vì thủ tục mà bị giữ lại, không chịu đút lót, nên bị nhốt lâu năm mà không được thả, án tình chồng chất, hết năm này qua tháng nọ, công văn lưu chuyển chậm trễ, quan trên không đích thân giải quyết, quan dưới cố tình làm khó, năm tháng cứ thế kéo dài đằng đẵng. Từ ngày Vương Tiểu Thạch vào giang hồ đến nay, đã từng quen biết anh hùng nhiều nơi, cũng có nhiều hán tử từng bị thụ hình, cho nên sớm đã nghe kể về tình cảnh thê thảm trong nhà lao. Gã không muốn thấy bằng hữu của mình trong nhà lao.
Huống chi đó là một hán tử đầu đội trời, chân đạp đất.
Huống chi Trương Nham không phải phạm tội gì lớn!
“Chuyện này, nếu làm, các người không thể rút lui; không làm, cũng không miễn cưỡng, nhưng đừng hỏi ta là chuyện gì, chưa đến lúc nên nói thì ta sẽ không nói.” Sau đó, Vương Tiểu Thạch lại hỏi: “Các người có làm hay không?”
“Ta làm.” Đường Bảo Ngưu là người đầu tiên trả lời.
“Ta cũng đi.” Phương Hận Thiểu nói. “Mọi người đều tín nhiệm ngươi như thế, ta làm sao không tin ngươi cho được?”
“Chuyện thú vị thế này làm sao có thể thiếu ta?” Ôn Nhu nửa cười nửa không lên tiếng. “Cho dù ta không tin tên Quỷ Kiến Sầu đó, thì cũng tin tên Tiểu Thạch Đầu nhà huynh.”
Vì thế, họ đều đi.
Bất luận Vương Tiểu Thạch muốn làm điều gì.
Họ sẽ đều làm theo.
Nguyên nhân, chỉ vì niềm tin.
Niềm tin là một bằng chứng, cũng là một sự gửi gắm, người không có sẽ rất cô độc, người có rồi thì rất kiên định. Niềm tin nảy sinh ở một người, đó là vì hào quang của tính cách; niềm tin biến mất ở một người, đó là khuyết điểm không thể bù đắp được về mặt nhân cách.
Họ tin tưởng Vương Tiểu Thạch.
Cho nên họ đi theo gã mà chẳng hề suy xét.
Nhưng điều Vương Tiểu Thạch muốn làm, thật sự có đáng để họ đặt lòng tin vững chắc hay không?
Nếu Vương Tiểu Thạch thất tín trước mặt họ, vậy những bằng hữu huynh đệ này sẽ nghĩ như thế nào?
Vương Tiểu Thạch cần phải hạ sát Gia Cát tiên sinh.
Trước khi giết Gia Cát tiên sinh cần phải chuẩn bị. Bước đầu tiên chính là rút lui khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu. Cho dù Vương Tiểu Thạch thành hay bại, Gia Cát tiên sinh sống hay chết đều chẳng liên quan gì đến bọn Tô Mộng Chẩm, Bạch Sầu Phi. Đương nhiên, không ai truy cứu được Kim Phong Tế Vũ lâu.
Đương nhiên nếu hành thích thành công, luận công ban thưởng, tất không thiếu phần Kim Phong Tế Vũ lâu.
Cho nên điều đầu tiên Vương Tiểu Thạch phải làm chính là viết thư gửi Tô Mộng Chẩm.
Nội dung bức thư là: Rút khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu.
Ngọn bút của Vương Tiểu Thạch hết sức thoải mái tự nhiên.
Muốn rút khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu cần phải tìm một cái cớ nào đó.
Nếu một người muốn “phản bội” thượng cấp của y, “bất phục” mãi mãi là lý do xác đáng nhất.
Gã “bất phục” Tô Mộng Chẩm, tự cho rằng mình không chỉ có thể làm “tam đương gia”.
Gã “bất phục” Tô Mộng Chẩm lãnh đạo Kim Phong Tế Vũ lâu, không tán thành y âm thầm ủng hộ phe phái của Gia Cát tiên sinh trong triều đình.
Gã “bất phục” Ôn Nhu tại sao thích gây gổ với mình, mà lại đối xử có tình với Bạch Sầu Phi.
“Bất phục”.
Chính là một lý do.
Vương Tiểu Thạch cảm thấy lời lẽ của mình rất chặt chẽ, có thể giấu trời qua biển được rồi.
Khi viết đến điểm thứ ba, Vương Tiểu Thạch đột nhiên giật mình: rốt cuộc mình có thật sự nghĩ như thế không? Vết mực trên giấy tuyên vẫn chưa khô, gã cầm bút, nhất thời không viết tiếp được, ngẩn ra một hồi.
Ngoài trời lạnh lẽo, một vài ngày nữa, chắc sẽ đổ một trận tuyết lớn.
Tuyết bắt đầu rơi, thì sẽ không dễ ngơi nghỉ.
Ít nhất, cái lạnh không thể nào tiêu tan trong khoảng thời gian ngắn.
Bên ngoài thư trai, chỉ thấy tửu lâu kỹ viện cực kỳ hào hoa. Hoàng hôn buông xuống, đèn đuốc đốt lên, chỉ thấy một vùng phồn thịnh, đúng là ba mặt tương thông, ngũ lâu chụm lại đâu đâu cũng có mái hiên uốn lượn, lan can chìa ra, chỗ tối chỗ sáng đan xen lẫn lộn, rèm buông trướng rủ, ánh sáng rực rỡ huy hoàng.
Lúc bấy giờ, Tây Hạ đang quấy rối biên ải, quân Liêu quật khởi, người Kim ngày càng ngang ngược, giặc cướp nổi lên như ong, Phương Lạp ở miền Triết Giang dấy binh làm loạn, hơn hai mươi vạn người tham gia, miền Hoài Nam có Tống Giang, cùng ba mươi sáu người khởi sự, hoành hành vùng Hà Sóc, cướp đến mười quận, không ai chặn nổi, còn quân chủ thì lại hoang dâm, gian thần nắm quyền, tiêu xài hoang phí, thế nước ngày càng suy yếu.
Đây là giấc mộng hào hoa hay là hiện thực đau thương?
Có lẽ ta cũng từng nghĩ đến, nếu không, sao lại vô tình xét thái độ của Ôn Nhu vào lý do thứ ba! Nếu thật như thế, ta đúng là kẻ tiểu nhân bỉ ổi, hổ thẹn với Bạch nhị ca.
Ý nghĩ ấy vẫn lởn vởn trong đầu Vương Tiểu Thạch.
Xem ra, mùa đông này sẽ rất dài!
Mùa đông này chắc sẽ rất lạnh!
Ôn Nhu lại là một nữ tử rất sợ lạnh!
Trong lúc ngẩn ngơ, mực trong nghiên đã két cứng lại.
Vương Tiểu Thạch mài mực, viết xong bức thư, giao cho Tường Ca Nhi, trình lên cho Tô Mộng Chẩm, gã tin rằng lúc này, Bạch Sầu Phi đã báo cho Tô Mộng Chẩm biết mọi điều.
Vương Tiểu Thạch viết xong bức thư, cuộn hết tranh chữ trong Sầu Thạch trai lại, đặt cho ngay ngắn rồi khép cửa.
Đám bằng hữu mới và cũ, Ôn Nhu, Phương Hận Thiểu, Đường Bảo Ngưu đã đứng chờ đợi gã ở dưới hí đài gần ngõ Ngõa Tử, để cùng đi làm một chuyện, một chuyện lớn chấn động kinh sư, kinh động cả triều đình.
Lúc này, trên hí đài chắc cũng đang diễn một vở tuồng!
Không biết xướng khúc hay là tạp kịch, kể chuyện hay là múa rối?
Vở tuồng này của bọn gã, giờ chắc cũng đã đến giờ biểu diễn rồi?
Không biết khi đại ca nhận được thư, trận tuyết đầu tiên trong ngày rơi xuống chưa? Mệnh lệnh đầu tiên của huynh ấy đã hạ xuống hay chưa? Khi huynh ấy ngồi bên bếp lửa, trước cửa sổ phía Tây của Lục lâu, mở thư ra xem sẽ có tâm trạng như thế nào?
Khi Bạch Sầu Phi nhận bức thư từ tay Tường Ca Nhi, thư vẫn chưa dán lại, Bạch Sầu Phi mở ra xem trước.
Sau đó y nói: “Được rồi, ngươi đi đi!”
Tường Ca Nhi cảm thấy hơi lạ lùng, nhưng không dám hỏi.
Y có một cảm giác kỳ lạ.
Y cảm thấy Bạch Sầu Phi đang cười.
Cho dù bên ngoài một nét cười cũng chẳng có, nhưng trong lòng y nhất định đang cười. Tại sao y lại không lộ nét cười ấy ra ngoài? Điều lạ lùng là khi Tường Ca Nhi nghĩ đến điểm này, trong lòng đột nhiên dâng lên cảm giác không lạnh mà run. Y cũng không biết tại sao mình lại có cảm giác như thế.
Trước khi đến ngõ Ngõa Tử, Vương Tiểu Thạch vẫn quyết định đến một nơi trước.
Đó chính là nhà ngục của Đại Lý Tự, gã đến để thăm dò sự an nguy của Trương Nham.
Vương Tiểu Thạch cảm thấy việc Trương Nham bị bắt có thể lớn cũng có thể nhỏ, còn quyển sách Trương Nham vô tình đánh cắp được, chắc chắn có điều bí ẩn.
Khoảng thời gian này, Vương Tiểu Thạch đã kết thành bằng hữu tri giao với một kẻ thích lập công lớn, thích làm anh hùng là Đường Bảo Ngưu, cùng một kẻ nhát gan sợ xảy chuyện nhưng lại ưa sinh chuyện là Trương Nham.
Huynh đệ có nạn, làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn?
Đây là nguyên tắc của người giang hồ.
Vương Tiểu Thạch viết được chữ đẹp, lại làm khá nhiều bài thơ hay, văn chương lai láng, võ công cao, kiếm pháp giỏi, đao pháp thuộc hạng nhất lưu. Có thể nói gã là văn nhân, cũng là võ nhân, nhưng trên hết tất cả, gã là người giang hồ. Cũng giống như người ta cho dù làm nghề gì đều chỉ là kiêm nhiệm, nghề nghiệp suốt đời của một con người đương nhiên là làm người.
Làm người mới chính là “nghề chính” của con người.
Là một người giang hồ tốt mới là “bổn phận” của Vương Tiểu Thạch.
Gã quyết định phải đi thăm dò chuyện Trương Nham trước.
Người sống trên đời, thường vì một vài sự chọn lựa hoặc quyết định xem ra không quan trọng, mà thay đổi.
Ở bên dưới Hoàng Hạc lâu, chỉ vì gã nhìn thêm một cái mà quen Bạch Sầu Phi, lần đầu tiên đối địch với Lục Phân Bán đường.
Bên bờ Hán Thủy, chỉ vì nhìn thêm một cái mà quen Lôi Thuần, lần đầu tiên đối mặt với người của Mê Thiên Thất Thánh.
Trong cơn mưa ở khu phế tích tại phố Khổ Thủy, gã cứu Tô Mộng Chẩm, cùng y đến Tam Hợp lâu, trở thành tam đương gia của Kim Phong Tế Vũ lâu!
Vậy còn lần này thì sao?
Ai mà biết.
Không ai biết dòng chảy số mệnh đưa đẩy con người ta đến đâu.
Có lẽ có số mệnh, nên con người mới phải làm những chuyện mình không thể kiểm soát nổi.
Người ta sống có lẽ chính là để tự tạo phiền não cho mình, hoặc tạo phiền não cho người khác. Không có phiền não, không phải là con người.
Nếu đây là chân lý, đem hai chữ “phiền não” đổi thành “niềm vui”, con người sẽ trở nên thoải mái hơn nhiều, vui thích hơn nhiều.
Đáng tiếc, bất cứ niềm vui nào cũng phải trả giá.
Có lúc, cái giá phải trả thực sự quá lớn.
Cũng giống như có một số hàng hóa, giá cả đắt quá, cho nên khiến người ta không mua nổi.
Niềm vui cũng thế.
Cũng may là niềm vui chân chính, ngược lại giá cao cũng khó mua được, mà chỉ có thể thu hoạch từ trong nội tâm.
Có điều làm sao có thể giải phóng niềm vui từ trong nội tâm sâu thẳm của bản thân, đây cũng là một học vấn thâm sâu: trước tiên phải tự túc, sau đó phải cầu thiện, tiếp theo phải nhìn thấu, ngoài ra còn phải cởi mở, thì mới có thể đạt được tự tại.
Ngàn vàng dễ có, niềm vui khó tìm!
Xưa nay Tô Mộng Chẩm không phải là một người vui vẻ.
Thần sắc của y rất u uất, lại thêm thân thể mang bệnh, cho nên cuộc sống của y cũng tựa như hai đốm lửa ma trong đôi mắt y vậy, thân hình ốm yếu chẳng còn hơi sức, chỉ còn lại hai đốm đỏ trên đôi má xanh xao.
Phải chăng đó là lửa bệnh đang thiêu đốt các đường kinh lạc?
Từ sau khi bị què chân, thần tình của y càng u uất khó đoán.
Bây giờ ánh mắt y càng buồn thêm.
Ngoại trừ điểm này, Bạch Sầu Phi cũng không quan sát thêm được gì nữa.
Tô Mộng Chẩm vừa đọc thư xong.
Thư của Vương Tiểu Thạch.
Y buông bức thư xuống đầu gối mình, đôi mắt tựa ngọn lửa lạnh buốt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Phía xa là thanh sơn, nơi gần là đình đài lầu các. Sơn ngoại thanh sơn.
Lâu ngoại lâu.
Y xem xong thư, rất mệt mỏi, tựa như đột nhiên già thêm mười năm tuổi.
Y ngồi trên chiếc ghế gỗ cao lớn, được đóng từ những khối gỗ dài ngắn khác nhau. Mỗi khúc gỗ đều rất thẳng thớm, ghế này dựa được, mà ngả lưng nằm cũng được, nhưng lại không thoải mái lắm!
Quyền lực của Tô Mộng Chẩm có thể nói là đệ nhất trong Kinh thành, nhưng tại sao y lại ngồi trên một chiếc ghế thô kệch không thoải mái như thế này?
Thực ra, ngoài ngai rồng, ghế nào y cũng ngồi được.
Có lẽ Tô Mộng Chẩm chọn chiếc ghế này, là vì muốn bản thân mình không cảm nhận được sự thoải mái, chỉ có cảm giác khó chịu mới có thể nâng cao cảnh giác, tiếp tục phấn đấu.
Với thân phận địa vị của Tô Mộng Chẩm, y không thể thất bại: y đã “đứng” quá cao, hơn nữa quá trình leo lên nơi cao này đã khiến y bị thương khắp mình mẩy, nếu đột nhiên té xuống, e rằng công lực khó giữ được nguyên vẹn, mà cả mạng sống cũng khó bảo toàn.
Bạch Sầu Phi nhìn con người cô độc mà kiêu ngạo ấy, trong lòng đột nhiên dâng lên nhiều cảm xúc phức tạp.
Một trong số đó là: nếu kẻ ngồi trên chiếc ghế này chính là y, không biết bản thân sẽ như thế nào?
“Nước hồ lại dâng lên rồi, sẽ có ngày nước tràn ra!”
Tô Mộng Chẩm thong thả nói, đột nhiên chêm thêm một câu hỏi: “Đệ đang nghĩ gì?”
Bạch Sầu Phi trả lời, thần sắc không hề thay đổi: “Đệ đang nghĩ tại sao tam đệ lại làm như thế?”
Tô Mộng Chẩm thở dài: “Có lẽ hắn thật sự nghĩ như thế.”
Sự cô độc lạnh lẽo trong mắt Tô Mộng Chẩm càng nhiều hơn.
“Người ta chỉ muốn làm điều mình muốn làm.”
“Có lúc người ta cũng sẽ làm chuyện không muốn làm, phải chăng y bị ép buộc?” Bạch Sầu Phi nói với giọng u buồn: “Y đi theo thái sư Thái Kinh quyền cao chức trọng đương nhiên không thích chúng ta ủng hộ Gia Cát tiên sinh, nhưng đệ thực sự không hiểu, Tiểu Thạch theo lý đâu phải là hạng người này.”
Tô Mộng Chẩm đột nhiên dùng tay ôm ngực trái, nét mặt xám ngoét, đôi chân mày chau lại. Lúc này Bạch Sầu Phi mới phát hiện, gần nửa năm nay, chân mày của Tô Mộng Chẩm đã rụng không ít, tóc cũng lưa thưa.
Một hồi lâu sau, Tô Mộng Chẩm mới bật tiếng ho, ho như bật cả tim phổi ra ngoài.
Sau đó, Tô Mộng Chẩm mới khẽ hỏi một câu: “Lão tam không giải thích với đệ chuyện gì sao?”
Bạch Sầu Phi thở dài đánh thượt.
Tô Mộng Chẩm cũng không nói gì nữa.
Y đưa mắt nhìn hoa tuyết bay tơi tả bên ngoài, tựa như hóa thân làm cây khô ven hồ, chờ đợi sự lạnh lẽo của mùa đông.
Vương Tiểu Thạch vừa đến nhà ngục của Đại Lý Tự, Nhan Hạc Phát đã kéo gã lại, bộ dạng hớt hải.
Vương Tiểu Thạch thấy lão như thế bèn hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”
Trong đám cao thủ ngọa hổ tàng long ở kinh kỳ, có thể nói Nhan Hạc Phát cũng thuộc loại tuổi cao vọng trọng, lão là đại thánh chủ trong Mê Thiên Thất Thánh, sau khi Thất Thánh Minh tan rã, lão gia nhập Kim Phong Tế Vũ lâu, cũng có được quyền uy tương đương, đồng đạo võ lâm xưa nay đều kính sợ, bằng hữu trong quan trường cũng nể mặt lão. Thế nên, chuyện cỏn con thế này mà cả một Nhan Hạc Phát quen biết rộng rãi, thủ đoạn cao minh không giải quyết được, Vương Tiểu Thạch cũng không khỏi ngạc nhiên.
“Trương huynh đệ vào đây, vốn là phải chịu khổ, ta đã ngăn chặn, nhưng họ không dám thả người,” Nhan Hạc Phát ngượng nghịu nói. “Đây là người Tứ đại danh bổ bắt về, không ai dám quyết định, cũng không ai dám tự tiện thả ra.”
Vương Tiểu Thạch nhướng mày nói: “Tứ đại danh bổ cũng uy phong thật, Trương Nham đâu phải phạm tội gì lớn, sao phải bắt hắn nếm mùi khổ sở làm gì, họ cũng không nể mặt Kim Phong Tế Vũ lâu chút nào sao, bây giờ danh bổ đại gia nào đang trực?”
Nhan Hạc Phát nghe gã nói thế cũng không khỏi bật cười: “Thiết nhị gia và Thôi tam gia áp giải hắn vào đây rồi bỏ mặc, bây giờ Lãnh tứ gia đang giải quyết, hắn xưa nay thiết diện vô tư, lục thân bất nhận, không nghe theo bất cứ ai.”
Vương Tiểu Thạch giật mình: “Lãnh tứ gia? Lãnh Huyết?”
Nhan Hạc Phát trả lời: “Chính là hắn.”
Gặp phải Tứ đại danh bổ, cho dù lão đức cao vọng trọng đến đâu cũng không cách nào giải quyết được.
Vương Tiểu Thạch hừ một tiếng: “Ta phải bái kiến vị dũng sĩ sử kiếm đệ nhất danh chấn giang hồ này một phen mới được.”
“Hắn vẫn chưa đến.” Nhan Hạc Phát lên tiếng. “Trương Nham vẫn còn bị giam trong ngục.”
Vương Tiểu Thạch ngần ngừ giây lát rồi nói: “Ta muốn gặp Trương Nham trước đã.”
Nhan Hạc Phát nói: “Chuyện này thì không thành vấn đề.” Lão đã sớm mua chuộc bọn canh cửa, cho nên Vương Tiểu Thạch có thể dễ dàng vào nơi nhốt tội phạm để gặp mặt Trương Nham.
Nhan Hạc Phát vốn định theo vào, nhưng Vương Tiểu Thạch biết Trương Nham háu ăn, sau khi bị nhốt, chắc chắn là chưa được ăn gì, liền kêu lão đi chuẩn bị.
Sau khi Nhan Hạc Phát sắp xếp mọi thứ, Vương Tiểu Thạch vào trong nhà lao, đây là lần đầu tiên gã bước vào nhà lao.
Ngươi đã từng vào nhà lao chưa?
Nếu ngươi đã từng vào nhà lao, thì có thể biết đó là một thế giới phi nhân thế nào.
Nơi đây không phải là nhân gian.
Những kẻ bị nhốt ở đây đều mất tự do, đều tuyệt vọng, mùi bệnh hoạn lan tràn trong không khí, có người chịu oan ức bị bắt nhốt, có người căn bản chỉ vì thủ tục mà bị giữ lại, không chịu đút lót, nên bị nhốt lâu năm mà không được thả, án tình chồng chất, hết năm này qua tháng nọ, công văn lưu chuyển chậm trễ, quan trên không đích thân giải quyết, quan dưới cố tình làm khó, năm tháng cứ thế kéo dài đằng đẵng. Từ ngày Vương Tiểu Thạch vào giang hồ đến nay, đã từng quen biết anh hùng nhiều nơi, cũng có nhiều hán tử từng bị thụ hình, cho nên sớm đã nghe kể về tình cảnh thê thảm trong nhà lao. Gã không muốn thấy bằng hữu của mình trong nhà lao.
Huống chi đó là một hán tử đầu đội trời, chân đạp đất.
Huống chi Trương Nham không phải phạm tội gì lớn!
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook