Nhật Ký Vô Diện
-
Chương 14
****
Sau ngày hôm đó, Đức phi vẫn thỉnh thoảng ghé qua thăm tôi, thế nhưng Lê ca bệ hạ thì hoàn toàn biệt tăm. So với Lê ca, số lần Tuệ Gia đến Lệ Tâm cung có phần nhiều hơn. Mỗi lần xuất hiện anh ta không nói nhiều, cũng không nán lại lâu. Thế nhưng anh ta đến vô cùng điều đặn, việc thích làm nhất là đứng yên nhìn trời đất. Trong khi anh ta chìm trong thế giới của mình, tôi cũng rất phối hợp phớt lờ anh ta, tùy ý làm việc mà mình thích, ví như đọc sách, vẽ tranh.
Người không biết chuyện sẽ cho rằng tôi và Tuệ Gia có quan hệ mờ ám. Thế nhưng tôi rất thông cảm cho nỗi khổ tâm của anh ta. Anh trai Minh Tư của tôi lúc nhỏ cũng là một thiếu niên thần tiên phong lưu, cũng không ít lần vì sợ hãi những tiên nữ ái mộ mà vội vàng bỏ trốn. Mà những lần anh trai của tôi bỏ trốn như vậy, lúc về lại được anh khoác lác với đứa nhỏ như tôi là “đi đến nươi hung hiểm rèn luyện”, vân vân. Cho nên đối với hoàn cảnh Tuệ Gia, tôi chẳng những không nhiều lời mà còn luôn mở rộng cửa chào đón anh ta. Ai bảo tình cờ Lệ Tâm cung của tôi là nơi vừa vắng vẻ vừa không nhiều người ái mộ, anh ta mới yên tâm lui tới thường xuyên.
Thêm vài tháng nữa, tôi đã có thể phát ra âm thanh. Thế nhưng giọng nói của tôi bây giờ chỉ kém giọng khàn khàn của Tuệ Gia một chút, người nghe nếu không nhìn mặt rất có thể nghĩ tôi mà một ông già. Tuy nhiên tôi cho rằng đối với tình cảnh hiện tại, như thế cũng là tốt lắm rồi.
Không biết từ khi nào, trước cửa sổ phòng tôi mọc lên mấy thân cây vừa cong vẹo vừa sần sùi. Tôi hỏi các cung nữ trong Lệ Tâm cung, các cô đều quả quyết rằng đây là cây dại tự mọc mà thành. Tuệ Gia vô tình nhìn thấy, cũng chẳng tỏ lòng kinh ngạc mà chỉ bâng quơ bảo đừng đốn đi. Thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở cõi trần loại cây tự mọc chẳng những không có lá, mà còn có thể lớn nhanh gấp chục lần cây bình thường.
Vậy mà khi mùa xuân đến, từ trong mấy thân cây kia nhanh chóng đâm ra vô số chồi non nho nhỏ, từ trong mấy cái chồi non lại hiện mọc ra vô số búp hoa bé xíu xiu. Đến khi mấy búp hoa này lớn lên, nở thành nụ hoa đỏ thắm, tôi mới bần thần nhận ra đây vốn chẳng phải loại cây bình thường.
Trong ký ức già cỗi của tôi hiện ra một đoạn kiến thức như thế này. Loài cây này tên Long Đề, vốn chuyên sinh trưởng ở cõi ma. Hầu hết cây cối ở cõi ma đều gây hại cho con người hoặc thần tiên, thế nhưng Long Đề là loại duy nhất mang đến cảm giác dễ chịu, xua tan mệt mỏi cho tất cả các giống loài. Nói tới đây, tôi thật khâm phục mức độ tùy hứng của Cảnh Châu. Ngoài anh ta ra, tôi thật sự không thể nghĩ ra người quen biết nào lại rảnh rỗi âm thầm trộm cây của cõi ma đến chỗ này trồng…
Mỗi lần trông ra cửa sổ, nhìn thấy mấy cành hoa đỏ thắm kia, trong đầu tôi lại hiện ra hình ảnh một đôi thiếu niên trẻ tuổi đứng sánh vai bên nhau, nụ cười thiếu nữ e ấp đẹp hơn cả nụ hoa đỏ rực. Đây vốn là ký ức hết sức mờ nhạt. Lần đó đại chiến tiên – ma nổ ra (rất lâu trước khi tôi gặp Duyệt Vi), tôi vẫn còn là một con nhóc rủ rê Cảnh Châu đi xem đánh nhau. Anh ta chìu lòng đưa tôi tới một góc cõi Ma, thế nhưng thứ tôi nhìn thấy không phải là cảnh đánh nhau máu chảy thành sông, mà là một khu rừng nở hoa đỏ rực.
Anh ta giải thích rằng đây là loài cây duy nhất ở ma giới có tác dụng hóa giải phiền muộn cho thần tiên, con người, dù đó chỉ là cảm giác tạm thời. Lúc đó tôi vì vẻ đẹp của loài hoa kỳ lạ cuốn hút, cũng quên bẵng chuyện tại sao anh ta không đưa tôi ra chiến trường mà lại đến nơi này. Dĩ nhiên, so với chiến trường, nơi đây hết sức an toàn.
Ngày ấy tôi và Cảnh Châu không phải là những kẻ duy nhất thăm khu rừng hoa đó. Chúng tôi bắt gặp một đôi thiếu niên đang dạo chơi, từ xa đã nghe thấy tiếng họ đang cười đùa. Lúc đó Cảnh Châu đã vội âm thầm ôm tôi rời đi, thế nhưng từ trong lòng anh ta nhìn lại, tôi nhìn thấy thiếu nữ độ tuổi xuân xanh đang mỉm cười rạng rỡ. Khuôn mặt nam thiếu niên bên cạnh bị khuất sau cành hoa, tôi không nhìn thấy cậu ấy. Thế nhưng tôi vẫn luôn cho rằng người thiếu nữ đó là một trong những ma nhân xinh đẹp nhất mà tôi từng nhìn thấy.
Sau này tôi không còn nhớ rõ về cuộc gặp gỡ tình cờ đó, thế nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn chưa gặp qua ma nhân nào xinh đẹp hơn thiếu nữ kia.
Vì mấy mảnh ký ức vụn vặt đó hiện lên giữa lúc tôi vô cùng rảnh rỗi, tôi bèn sai cung nữ căng một bức vải trắng, bản thân ngồi vẽ lại khung cảnh trong đầu. Sở thích vẽ tranh này tôi kế thừa từ mẹ hồ ly của mình. Thế nhưng khác với mẹ tôi vốn thích màu thanh nhã, tôi thường thích nhiều màu sắc nổi bật trong tranh.
Sau một lúc, khung cảnh tươi đẹp dần dần hiện ra. Một rừng hoa đỏ rực, đôi thiếu niên áo đen nắm tay nhau bước đi sau màn hoa. Tôi đang vẽ tới khuôn mặt cô gái, một giọng nói từ sau lưng vọng lên: “Cô đang vẽ gì vậy?”
Tôi giật thót mình, quay lại nhìn. Tuệ Gia đứng ngay sau tôi, hơi chau mày. Đây vốn là chuyện lạ, vì trước giờ tuy anh ta vẫn tùy ý ra vào Lệ Tâm cung của tôi, Tuệ Gia chưa bao giờ tỏ ra quan tâm tôi ở đâu, làm gì.
Tôi cho là bức tranh của mình khiến anh ta nảy ý tò mò, liền khàn khàn trả lời: “Nhìn thấy mấy nhánh hoa đỏ rực, lại nhớ một cảnh lúc nhỏ.” Tuệ Gia im lặng nhìn bức tranh một lát, chợt giơ tay xé bức tranh. Tôi sửng sốt, anh ta liền đáp: “Trước giờ tôi vẫn luôn mặc đồ đen. Cô định để bệ hạ hiểu lầm tôi sao?”
Tôi càng sửng sốt hơn nữa. Đừng nói chuyện tôi vẽ một bức tranh thì có liên quan gì tới việc anh ta mặc đồ đen, trong hoàng cung này người thích mặc đồ đen, hoặc bị ép buộc mặc đồ đen (vệ lâm quân) còn xếp hàng dài kia. Hơn nữa nếu anh ta sợ Lê ca bệ hạ hiểu lầm, vài ba hôm lại vác xác tới Lệ Tâm cung của tôi ăn vạ làm gì? Vấn đề quan trọng là, Tuệ Gia hôm nay lại quan tâm tới loại chuyện này sao?
Sau một hồi suy nghĩ, tôi đưa ra kết luận rằng hôm nay là ngày anh ta đặc biệt khó chịu, vì thế mới có sự việc trên. Mẹ tôi từng dạy rằng con người hay thần thiên đều sẽ có lúc thất thường, vốn dĩ họ cũng chẳng mong muốn như thế. Đối với những kẻ đang lúc khó ở, tỏ vẻ rộng lượng cho qua mới là thượng sách. Vì thế, tôi cũng rất nhanh chóng quên sự kỳ lạ của Tuệ Gia hôm ấy.
Đương lúc tôi không để ý, đã mấy năm ròng rã trôi qua. Thế nhưng lúc ngoảnh đầu nhìn lại, mấy năm này trong ký ức cũng chỉ là một mảnh mơ hồ. Nếu có gì đặc biệt, phải kể đến việc Đức phi có một dạo được Lê ca ân sủng, mấy tháng liền không đến gặp tôi. Sau đó nàng đột ngột được phong Hậu, tôi cùng mấy phi tần khác cùng lóc cóc đến cung điện mới của nàng hành lễ chúc mừng. Từ trên cao nhìn xuống, ánh mắt của nàng dành cho tôi pha lẫn chút thương hại cùng áy náy. Từ đó về sau, nàng cũng chẳng bao giờ còn là Đức phi nói nhiều, thích quấn lấy tôi nữa.
Tôi vốn luôn nghĩ, những thứ tình cảm phàm trần không thể nào động tới một thần tiên lòng dạ hẹp hòi như tôi. Thế nhưng sau này lại có người nói với tôi, kẻ hẹp hòi thật ra chính là kẻ yếu đuối nhất. Bởi họ luôn luôn sợ hãi đánh mất những thứ mình trân trọng, từ đó mới nảy sinh lòng ngờ vực đối với mọi sự xung quanh. Nói tới đây, tôi quả thật thấy mình có chút đáng thương.
Lại nói về Đức phi lúc này đã được phong Hậu, cũng may sau này nàng cũng không bắt tôi ngày ngày đến hành lễ. Nàng không làm khó tôi, có lẽ vì vẫn nhớ chút giao tình lúc xưa. Chỉ có điều nàng cũng không bao giờ để tôi nhìn thấy mình nữa. Bản thân tôi cũng luôn cật lực biến bản thân thành một cái bóng trong hoàng cung phương Bắc, mà trong phương diện này tôi đặc biệt thành công. Mấy năm sau này, ngay cả Tuệ Gia thỉnh thoảng đến mượn không gian vắng vẻ cũng đột ngột biệt tăm. Điều kỳ lạ là, chẳng ai biết anh ta đi đâu, thậm chí cũng chẳng có ai ngạc nhiên vì sự biến mất của pháp sư đương triều.
Thêm một vài năm nữa, không còn ai đoái hoài đến người ở Lệ Tâm cung là tôi. Đôi lúc tôi cũng bắt gặp ngự giá của Lê ca trên đường đi, thế nhưng mỗi lần như vậy tôi đều rẽ lối khác. Mấy cung nữ theo hầu một nửa vẫn trung thành, một nửa tìm đường sống ở chủ nhân khác, thế nhưng tôi cũng không bận tâm lắm. Có thể vì trừ một số người đặc biệt, tôi chưa từng để ý nhiều đến hoàng cung phương bắc này. Cũng có thể đúng như lời Phụng ca lúc còn sống từng nói, tôi là kẻ có tính tình lạnh nhạt.
Nếu hoàng cung phương bắc để lại cho tôi chút ấn tượng trong quãng thời gian này, phải kể đến ngày tôi chết. Hôm đó, chẳng hiểu vì sao mấy cây Long Đề trong sân đồng loạt nở hoa, sau từng cánh hoa lại lả tả rụng rơi theo gió. Tôi tựa người bên cửa sổ, ánh mắt mải dõi theo vũ điệu cánh hoa đỏ rực có chút rã rời. Cầm cự ở cõi trần những ngày tháng đằng đẵng như thế, tôi cũng đã đến cực hạn của mình. Cô đơn là một con quái vật còn nguy hiểm gấp mấy nghìn lần nỗi sợ hãi: nó gặm nhấm từng mảnh nhỏ ngày tháng của tôi, tấn công niềm kiêu hãnh của tôi, tước đoạt niềm vui của tôi, và khi làm tất cả những việc đó, nó lại chẳng mảy may để tôi đo đếm được mình đang chịu đau đớn hay tuyệt vọng đến cỡ nào.
Lúc tôi nhận ra mình sắp rời khỏi nanh vuốt của nó, triều đình phương bắc lại đang mở tiệc mừng sinh nhật của hoàng đế. Lê ca mà tôi hầu như quên mặt đang mải miết ôm ấp con cháu của mình, say mê với rượu thịt và những vũ điệu lả lướt. Có một đoạn nhạc êm ái lọt vào Lệ Tâm cung già cỗi của tôi như thế này:
Năm tháng rụng rơi chốn chân tường
Một mảnh trời vàng ngã vấn vương
Nhớ một ngày nắng, một ngày nắng
Gió hồng nhẹ phất cánh hoa sương.
Giai điệu da diết này đánh thức rất nhiều hồi ức ngọt ngào thuở nhỏ (ở cõi thần tiên), khiến tôi chưa bao giờ mong muốn trở về như lúc này. Tôi vừa mơ màng vừa kinh ngạc nghĩ, khúc hát ở cõi trần này không ngờ lại hợp với hoàn cảnh của tôi.
Cảm giác mệt mỏi rã rời của thân thể già nua biến mất, trước mắt tôi hiện ra vầng sáng mông lung. Tôi dường như đã nhìn thấy cánh cửa đá của động Hồ ly tại Thanh Khâu trước mặt mình. Thế nhưng ngay lúc này tâm trí của tôi lại sực nhớ ra rằng bản thân đã quên điều gì đó. Suy nghĩ của tôi không ngừng rơi vào trạng thái lửng lơ, thế nhưng tôi nghĩ mãi, nghĩ mãi cũng chẳng nhớ đã quên điều gì.
Tôi đã quên điều gì?
Tôi đã quên điều gì?
...
Tôi cũng không hiểu vì sao bản thân lại bất an như vậy. Giữa lúc tôi chưa kịp phát hiện ra, thần thức đã trở về tiên thể đặt ở Thanh Khâu.
Giấc mơ dài mà buồn bã ấy, cuối cùng cũng đã kết thúc rồi.
Sau ngày hôm đó, Đức phi vẫn thỉnh thoảng ghé qua thăm tôi, thế nhưng Lê ca bệ hạ thì hoàn toàn biệt tăm. So với Lê ca, số lần Tuệ Gia đến Lệ Tâm cung có phần nhiều hơn. Mỗi lần xuất hiện anh ta không nói nhiều, cũng không nán lại lâu. Thế nhưng anh ta đến vô cùng điều đặn, việc thích làm nhất là đứng yên nhìn trời đất. Trong khi anh ta chìm trong thế giới của mình, tôi cũng rất phối hợp phớt lờ anh ta, tùy ý làm việc mà mình thích, ví như đọc sách, vẽ tranh.
Người không biết chuyện sẽ cho rằng tôi và Tuệ Gia có quan hệ mờ ám. Thế nhưng tôi rất thông cảm cho nỗi khổ tâm của anh ta. Anh trai Minh Tư của tôi lúc nhỏ cũng là một thiếu niên thần tiên phong lưu, cũng không ít lần vì sợ hãi những tiên nữ ái mộ mà vội vàng bỏ trốn. Mà những lần anh trai của tôi bỏ trốn như vậy, lúc về lại được anh khoác lác với đứa nhỏ như tôi là “đi đến nươi hung hiểm rèn luyện”, vân vân. Cho nên đối với hoàn cảnh Tuệ Gia, tôi chẳng những không nhiều lời mà còn luôn mở rộng cửa chào đón anh ta. Ai bảo tình cờ Lệ Tâm cung của tôi là nơi vừa vắng vẻ vừa không nhiều người ái mộ, anh ta mới yên tâm lui tới thường xuyên.
Thêm vài tháng nữa, tôi đã có thể phát ra âm thanh. Thế nhưng giọng nói của tôi bây giờ chỉ kém giọng khàn khàn của Tuệ Gia một chút, người nghe nếu không nhìn mặt rất có thể nghĩ tôi mà một ông già. Tuy nhiên tôi cho rằng đối với tình cảnh hiện tại, như thế cũng là tốt lắm rồi.
Không biết từ khi nào, trước cửa sổ phòng tôi mọc lên mấy thân cây vừa cong vẹo vừa sần sùi. Tôi hỏi các cung nữ trong Lệ Tâm cung, các cô đều quả quyết rằng đây là cây dại tự mọc mà thành. Tuệ Gia vô tình nhìn thấy, cũng chẳng tỏ lòng kinh ngạc mà chỉ bâng quơ bảo đừng đốn đi. Thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở cõi trần loại cây tự mọc chẳng những không có lá, mà còn có thể lớn nhanh gấp chục lần cây bình thường.
Vậy mà khi mùa xuân đến, từ trong mấy thân cây kia nhanh chóng đâm ra vô số chồi non nho nhỏ, từ trong mấy cái chồi non lại hiện mọc ra vô số búp hoa bé xíu xiu. Đến khi mấy búp hoa này lớn lên, nở thành nụ hoa đỏ thắm, tôi mới bần thần nhận ra đây vốn chẳng phải loại cây bình thường.
Trong ký ức già cỗi của tôi hiện ra một đoạn kiến thức như thế này. Loài cây này tên Long Đề, vốn chuyên sinh trưởng ở cõi ma. Hầu hết cây cối ở cõi ma đều gây hại cho con người hoặc thần tiên, thế nhưng Long Đề là loại duy nhất mang đến cảm giác dễ chịu, xua tan mệt mỏi cho tất cả các giống loài. Nói tới đây, tôi thật khâm phục mức độ tùy hứng của Cảnh Châu. Ngoài anh ta ra, tôi thật sự không thể nghĩ ra người quen biết nào lại rảnh rỗi âm thầm trộm cây của cõi ma đến chỗ này trồng…
Mỗi lần trông ra cửa sổ, nhìn thấy mấy cành hoa đỏ thắm kia, trong đầu tôi lại hiện ra hình ảnh một đôi thiếu niên trẻ tuổi đứng sánh vai bên nhau, nụ cười thiếu nữ e ấp đẹp hơn cả nụ hoa đỏ rực. Đây vốn là ký ức hết sức mờ nhạt. Lần đó đại chiến tiên – ma nổ ra (rất lâu trước khi tôi gặp Duyệt Vi), tôi vẫn còn là một con nhóc rủ rê Cảnh Châu đi xem đánh nhau. Anh ta chìu lòng đưa tôi tới một góc cõi Ma, thế nhưng thứ tôi nhìn thấy không phải là cảnh đánh nhau máu chảy thành sông, mà là một khu rừng nở hoa đỏ rực.
Anh ta giải thích rằng đây là loài cây duy nhất ở ma giới có tác dụng hóa giải phiền muộn cho thần tiên, con người, dù đó chỉ là cảm giác tạm thời. Lúc đó tôi vì vẻ đẹp của loài hoa kỳ lạ cuốn hút, cũng quên bẵng chuyện tại sao anh ta không đưa tôi ra chiến trường mà lại đến nơi này. Dĩ nhiên, so với chiến trường, nơi đây hết sức an toàn.
Ngày ấy tôi và Cảnh Châu không phải là những kẻ duy nhất thăm khu rừng hoa đó. Chúng tôi bắt gặp một đôi thiếu niên đang dạo chơi, từ xa đã nghe thấy tiếng họ đang cười đùa. Lúc đó Cảnh Châu đã vội âm thầm ôm tôi rời đi, thế nhưng từ trong lòng anh ta nhìn lại, tôi nhìn thấy thiếu nữ độ tuổi xuân xanh đang mỉm cười rạng rỡ. Khuôn mặt nam thiếu niên bên cạnh bị khuất sau cành hoa, tôi không nhìn thấy cậu ấy. Thế nhưng tôi vẫn luôn cho rằng người thiếu nữ đó là một trong những ma nhân xinh đẹp nhất mà tôi từng nhìn thấy.
Sau này tôi không còn nhớ rõ về cuộc gặp gỡ tình cờ đó, thế nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn chưa gặp qua ma nhân nào xinh đẹp hơn thiếu nữ kia.
Vì mấy mảnh ký ức vụn vặt đó hiện lên giữa lúc tôi vô cùng rảnh rỗi, tôi bèn sai cung nữ căng một bức vải trắng, bản thân ngồi vẽ lại khung cảnh trong đầu. Sở thích vẽ tranh này tôi kế thừa từ mẹ hồ ly của mình. Thế nhưng khác với mẹ tôi vốn thích màu thanh nhã, tôi thường thích nhiều màu sắc nổi bật trong tranh.
Sau một lúc, khung cảnh tươi đẹp dần dần hiện ra. Một rừng hoa đỏ rực, đôi thiếu niên áo đen nắm tay nhau bước đi sau màn hoa. Tôi đang vẽ tới khuôn mặt cô gái, một giọng nói từ sau lưng vọng lên: “Cô đang vẽ gì vậy?”
Tôi giật thót mình, quay lại nhìn. Tuệ Gia đứng ngay sau tôi, hơi chau mày. Đây vốn là chuyện lạ, vì trước giờ tuy anh ta vẫn tùy ý ra vào Lệ Tâm cung của tôi, Tuệ Gia chưa bao giờ tỏ ra quan tâm tôi ở đâu, làm gì.
Tôi cho là bức tranh của mình khiến anh ta nảy ý tò mò, liền khàn khàn trả lời: “Nhìn thấy mấy nhánh hoa đỏ rực, lại nhớ một cảnh lúc nhỏ.” Tuệ Gia im lặng nhìn bức tranh một lát, chợt giơ tay xé bức tranh. Tôi sửng sốt, anh ta liền đáp: “Trước giờ tôi vẫn luôn mặc đồ đen. Cô định để bệ hạ hiểu lầm tôi sao?”
Tôi càng sửng sốt hơn nữa. Đừng nói chuyện tôi vẽ một bức tranh thì có liên quan gì tới việc anh ta mặc đồ đen, trong hoàng cung này người thích mặc đồ đen, hoặc bị ép buộc mặc đồ đen (vệ lâm quân) còn xếp hàng dài kia. Hơn nữa nếu anh ta sợ Lê ca bệ hạ hiểu lầm, vài ba hôm lại vác xác tới Lệ Tâm cung của tôi ăn vạ làm gì? Vấn đề quan trọng là, Tuệ Gia hôm nay lại quan tâm tới loại chuyện này sao?
Sau một hồi suy nghĩ, tôi đưa ra kết luận rằng hôm nay là ngày anh ta đặc biệt khó chịu, vì thế mới có sự việc trên. Mẹ tôi từng dạy rằng con người hay thần thiên đều sẽ có lúc thất thường, vốn dĩ họ cũng chẳng mong muốn như thế. Đối với những kẻ đang lúc khó ở, tỏ vẻ rộng lượng cho qua mới là thượng sách. Vì thế, tôi cũng rất nhanh chóng quên sự kỳ lạ của Tuệ Gia hôm ấy.
Đương lúc tôi không để ý, đã mấy năm ròng rã trôi qua. Thế nhưng lúc ngoảnh đầu nhìn lại, mấy năm này trong ký ức cũng chỉ là một mảnh mơ hồ. Nếu có gì đặc biệt, phải kể đến việc Đức phi có một dạo được Lê ca ân sủng, mấy tháng liền không đến gặp tôi. Sau đó nàng đột ngột được phong Hậu, tôi cùng mấy phi tần khác cùng lóc cóc đến cung điện mới của nàng hành lễ chúc mừng. Từ trên cao nhìn xuống, ánh mắt của nàng dành cho tôi pha lẫn chút thương hại cùng áy náy. Từ đó về sau, nàng cũng chẳng bao giờ còn là Đức phi nói nhiều, thích quấn lấy tôi nữa.
Tôi vốn luôn nghĩ, những thứ tình cảm phàm trần không thể nào động tới một thần tiên lòng dạ hẹp hòi như tôi. Thế nhưng sau này lại có người nói với tôi, kẻ hẹp hòi thật ra chính là kẻ yếu đuối nhất. Bởi họ luôn luôn sợ hãi đánh mất những thứ mình trân trọng, từ đó mới nảy sinh lòng ngờ vực đối với mọi sự xung quanh. Nói tới đây, tôi quả thật thấy mình có chút đáng thương.
Lại nói về Đức phi lúc này đã được phong Hậu, cũng may sau này nàng cũng không bắt tôi ngày ngày đến hành lễ. Nàng không làm khó tôi, có lẽ vì vẫn nhớ chút giao tình lúc xưa. Chỉ có điều nàng cũng không bao giờ để tôi nhìn thấy mình nữa. Bản thân tôi cũng luôn cật lực biến bản thân thành một cái bóng trong hoàng cung phương Bắc, mà trong phương diện này tôi đặc biệt thành công. Mấy năm sau này, ngay cả Tuệ Gia thỉnh thoảng đến mượn không gian vắng vẻ cũng đột ngột biệt tăm. Điều kỳ lạ là, chẳng ai biết anh ta đi đâu, thậm chí cũng chẳng có ai ngạc nhiên vì sự biến mất của pháp sư đương triều.
Thêm một vài năm nữa, không còn ai đoái hoài đến người ở Lệ Tâm cung là tôi. Đôi lúc tôi cũng bắt gặp ngự giá của Lê ca trên đường đi, thế nhưng mỗi lần như vậy tôi đều rẽ lối khác. Mấy cung nữ theo hầu một nửa vẫn trung thành, một nửa tìm đường sống ở chủ nhân khác, thế nhưng tôi cũng không bận tâm lắm. Có thể vì trừ một số người đặc biệt, tôi chưa từng để ý nhiều đến hoàng cung phương bắc này. Cũng có thể đúng như lời Phụng ca lúc còn sống từng nói, tôi là kẻ có tính tình lạnh nhạt.
Nếu hoàng cung phương bắc để lại cho tôi chút ấn tượng trong quãng thời gian này, phải kể đến ngày tôi chết. Hôm đó, chẳng hiểu vì sao mấy cây Long Đề trong sân đồng loạt nở hoa, sau từng cánh hoa lại lả tả rụng rơi theo gió. Tôi tựa người bên cửa sổ, ánh mắt mải dõi theo vũ điệu cánh hoa đỏ rực có chút rã rời. Cầm cự ở cõi trần những ngày tháng đằng đẵng như thế, tôi cũng đã đến cực hạn của mình. Cô đơn là một con quái vật còn nguy hiểm gấp mấy nghìn lần nỗi sợ hãi: nó gặm nhấm từng mảnh nhỏ ngày tháng của tôi, tấn công niềm kiêu hãnh của tôi, tước đoạt niềm vui của tôi, và khi làm tất cả những việc đó, nó lại chẳng mảy may để tôi đo đếm được mình đang chịu đau đớn hay tuyệt vọng đến cỡ nào.
Lúc tôi nhận ra mình sắp rời khỏi nanh vuốt của nó, triều đình phương bắc lại đang mở tiệc mừng sinh nhật của hoàng đế. Lê ca mà tôi hầu như quên mặt đang mải miết ôm ấp con cháu của mình, say mê với rượu thịt và những vũ điệu lả lướt. Có một đoạn nhạc êm ái lọt vào Lệ Tâm cung già cỗi của tôi như thế này:
Năm tháng rụng rơi chốn chân tường
Một mảnh trời vàng ngã vấn vương
Nhớ một ngày nắng, một ngày nắng
Gió hồng nhẹ phất cánh hoa sương.
Giai điệu da diết này đánh thức rất nhiều hồi ức ngọt ngào thuở nhỏ (ở cõi thần tiên), khiến tôi chưa bao giờ mong muốn trở về như lúc này. Tôi vừa mơ màng vừa kinh ngạc nghĩ, khúc hát ở cõi trần này không ngờ lại hợp với hoàn cảnh của tôi.
Cảm giác mệt mỏi rã rời của thân thể già nua biến mất, trước mắt tôi hiện ra vầng sáng mông lung. Tôi dường như đã nhìn thấy cánh cửa đá của động Hồ ly tại Thanh Khâu trước mặt mình. Thế nhưng ngay lúc này tâm trí của tôi lại sực nhớ ra rằng bản thân đã quên điều gì đó. Suy nghĩ của tôi không ngừng rơi vào trạng thái lửng lơ, thế nhưng tôi nghĩ mãi, nghĩ mãi cũng chẳng nhớ đã quên điều gì.
Tôi đã quên điều gì?
Tôi đã quên điều gì?
...
Tôi cũng không hiểu vì sao bản thân lại bất an như vậy. Giữa lúc tôi chưa kịp phát hiện ra, thần thức đã trở về tiên thể đặt ở Thanh Khâu.
Giấc mơ dài mà buồn bã ấy, cuối cùng cũng đã kết thúc rồi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook