Nguyên Soái Bất Đắc Dĩ
-
Chương 2: Lần đầu bỏ trốn
Trần Đường quay sang tôi, nói:
“Đại ca, huynh còn đang trọng thương cứ nghỉ ngơi cho bình phục. Bọn đệ ra ngoài xem thế nào”.
Tôi gật gật đầu. Đợi bọn họ đi rồi, tôi liền nhìn quanh phòng, xem có gì đáng giá để mang theo người không. Nhìn đi nhìn lại, chỉ thấy thanh kiếm là vật duy nhất có vẻ có giá trị. Thôi vậy, có còn hơn không. Đến thành trấn nào đấy tìm tiệm cầm đồ đổi lấy chút tiền rồi nghĩ biện pháp khác.
Tôi lục trong tủ tìm một bộ đồ sạch sẽ, loay hoay mặc lên người. Sau đó lén lút rời khỏi phòng, lén lút dắt con ngựa đang cột ở gốc cây gần cổng sau, lén lút mở cổng chuồn đi. Vốn không định mang theo ngựa, vì từ nhỏ đến lớn tôi đã cưỡi ngựa bao giờ. Nhưng không hiểu sao nhìn con ngựa này lại cảm thấy thân thiết như nhìn thấy bạn cũ. Sau đó lên ngựa, phóng đi… động tác thuần thục đến không ngờ. Có lẽ là bản năng của Trần Ngạn?
Chạy được non nửa canh giờ bỗng nghe thấy phía đằng sau có tiếng vó ngựa dồn dập đuổi theo. Tôi ngoái đầu nhìn lại thấy hai người Trần Đường và Trần Ninh thì hoảng hốt, liền thúc ngựa chạy nhanh hơn. Nhưng do trời tối, lại không quen đường, cuối cùng cũng bị bọn họ đuổi kịp. Đành phải ghìm cương đứng lại.
Trần Ninh xuống ngựa, chặn trước mặt tôi, hấp tấp nói:
“Đại ca! Huynh còn đang trọng thương lại một mình xông vào doanh trại địch là muốn đi tìm chết sao? Bọn đệ cũng căm hận Ngô Phi bỉ ổi, nhưng liều chết đi tìm hắn thì có tác dụng gì? Huynh mau cùng bọn đệ trở về, chúng ta từ từ nghĩ biện pháp”.
Đi tìm chết cái rắm. Tôi chữi thề trong bụng, lại ngớ ra, cậu ta vừa nói xông vào doanh trại địch? Không lẽ trước mặt là nơi đóng quân của Bắc Tề? Ông nội ơi, suýt chút thì toi cái mạng nhỏ. Vì trời tối không còn thấy mặt trời đâu nữa nên tôi cũng chả phân biệt được đâu là đông đâu là tây. Thấy mọi người tập trung một chỗ chỉ chỉ trỏ trỏ nên xác định đó là hướng dân chạy nạn đang tới, liền dứt khoát chạy về hướng ngược lại. Không ngờ lại chạy về hướng của quân Bắc Tề.
Trần Đường thấy tôi im lặng suy nghĩ thì mừng rỡ hỏi:
“Đại ca nhớ ra mọi chuyện rồi?”.
Tôi nhìn cậu ta lắc đầu.
Trần Ninh nghi hoặc nhìn tôi:
“Vậy đại ca một mình mang kiếm chạy đến chỗ Bắc Tề quân làm gì?”.
Tôi ngó xuống thanh kiếm trong tay mình. Chắc hai người bọn họ có vắt óc cũng không nghĩ ra được, tôi là định mang thanh kiếm này để đi cầm, lấy lộ phí bỏ trốn. Tôi nhìn bọn họ, lại ngước mắt nhìn về hướng vừa rồi còn định chạy đến. Có lẽ thấy tôi nhìn về hướng quân Bắc Tề ánh mắt tức giận, Trần Đường sợ tôi lại đi tìm Ngô Phi tính sổ, vội giục:
“Chúng ta quay về thành trước đã. Dân chạy nạn sáng mai mới đến, chúng ta còn một đêm để nghĩ đối sách”.
Tôi đúng là tức giận. Nhưng không phải tức quân Bắc Tề, mà giận bản thân số con rệp, chọn nhầm đường chạy trốn. Chỉ đành theo bọn họ trở về.
Trong phòng họp, à phòng nghị sự, có mấy người đàn ông đang đợi sẵn, nhìn thấy bọn tôi bước vào liền đứng dậy đón. Tôi có cảm giác như tổng giám đốc gặp cấp dưới vậy, thiếu chút nước là đưa tay phải bắt tay bọn họ rồi.
Trần Đường giới thiệu tên và chức vụ từng người trong phòng cho tôi. Người đàn ông tên Lý Đôn, khoảng trên dưới bốn mươi, là tướng thủ thành Bắc Bình, ngạc nhiên hỏi:
“Trần nguyên soái chẳng phải đã gặp qua thuộc hạ rồi mà?”.
Trần Đường thở dài giải thích:
“Nguyên soái bị trọng thương, tạm thời không nhớ được mọi chuyện”.
Các “đồng chí cấp dưới” tròn mắt nhìn sang. Tôi gật gật đầu.
Trần Ninh lên tiếng bất bình:
“Đều tại tên khốn Ngô Phi, đã hại đại ca trọng thương. Nay còn xua hai vạn dân từ các thành trấn nhỏ đến đây, muốn lợi dụng nạn dân để cho quân trà trộn công phá thành Bắc Bình”.
Lý Đôn hỏi:
“Không biết nguyên soái đã nghĩ ra biện pháp đối phó hay chưa?”.
Tôi suýt nữa đã buộc miệng nói “tẩu vi thượng sách”, may mà kịp nuốt lời vào bụng. Chỉ đành nói vài câu đối phó:
“Các vị tướng quân cho rằng nên làm thế nào?”.
Cách tốt nhất để lãng tránh câu hỏi của đối phương là đặt ra câu hỏi để đối phương phân tâm. Muốn tôi nghĩ ra biện pháp? Đùa chắc, tôi cũng không phải nguyên soái “hàng thật giá thật”.
Người đàn ông được gọi là Tống phó tướng, xem tướng mạo có vẻ là một kẻ nóng tính, nói:
“Trong thành có hơn một vạn dân chúng, gần hai vạn binh lính. Nếu để quân Bắc Tề phá cổng xông vào, thành này e không thể giữ được. Thành Bắc Bình là nơi trọng yếu, nếu bị phá sẽ dẫn đến hậu họa vô cùng. Biện pháp tốt nhất là đóng chặt cổng thành”.
Trần Đường lắc đầu:
“Cách này không ổn. Nếu nhốt bọn họ ngoài thành, với tính cách Ngô Phi nhất định cho quân giết chết dân chúng vô tội. Hai vạn nạn dân kia đều là dân chúng Đại Chu ta, trơ mắt nhìn bọn họ bị quân giặc tàn sát, chỉ e quân ta sẽ đánh mất sĩ khí. Cách này cũng không giải quyết được vấn đề”.
Dục quân sư dưới trướng Lý Đôn, là người lắm mưu nhiều kế, vuốt chòm râu dài nói:
“Nếu vậy chỉ còn cách di tản dân chúng trong thành, lại bí mật đem hai vạn quân của chúng ta ra ngoài, trong thành bố trí bẫy, đợi quân Bắc Tề vào thành thì hai mặt tấn công, hốt trọn một mẻ”.
Mọi người trầm mặc suy nghĩ. Hồi lâu, vẫn là Lý Đôn lên tiếng, nhưng không phải đưa ra biện pháp mà lại quay sang hỏi quyết định của tôi. Mẹ kiếp, lại chĩa mũi nhọn sang ông đây. Tôi không thể tiếp tục giả điếc, chỉ đành nói:
“Muốn đập tan âm mưu của Ngô Phi, phải tách quân Bắc Tề trà trộn trong nạn dân ra để tiêu diệt. Cho dù dùng kế “vườn không nhà trống” theo ý Dục quân sư, mà không thể phân biệt đâu là địch đâu là dân chúng thì cũng không thể tấn công được. Ngược lại chỉ khiến thành Bắc Bình hoàn toàn thất thủ”.
Lý Đôn vội hỏi:
“Vậy theo ý nguyên soái, làm thế nào để tiêu diệt quân địch mà không làm liên lụy dân chúng vô tội?”.
Tôi nghĩ nghĩ, đáp:
“Lúc nạn dân đến bên ngoài thành, Lý tướng quân cứ ở trên tường thành thông báo, bảo bọn họ chia nhóm để vào thành. Những người nào đến từ cùng một nơi thì hợp lại với nhau thành một nhóm. Bọn họ đều từ các thành trấn nhỏ, dân số mỗi nơi sẽ không quá vài trăm người đúng không? Thông báo cho bọn họ, mỗi người phải được những người khác trong nhóm nhận ra là có quen biết thì mới được ở chung một nhóm. Kẻ nào không có quen biết, chính là gian tế”.
Trần Đường lại hỏi:
“Đại ca, nếu vậy những kẻ gian tế nhất định hợp lại thành một nhóm, tự nhận quen biết nhau. Lúc đó chúng ta làm sao có thể biết nhóm nào địch, nhóm nào không phải?”.
Tôi cười:
“Đệ nói xem, một con vịt lạc trong bầy hạc khó giết, hay một bầy vịt tụ lại một chỗ khó giết? Chỉ cần bọn chúng tập hợp lại thành một nhóm, muốn xác định thân phận không khó. Nạn dân có già trẻ, nam nữ đủ cả. Nhưng gian tế thì không. Hơn nữa, ngoại hình, giọng nói của người Bắc Tề và Đại Chu không giống nhau. Trên người bọn chúng cũng nhất định có giấu binh khí”.
Mọi người đều gật đầu, khen kế hay. Tôi lại lắc đầu nói:
“Nhưng phân biệt được rồi cũng không nhất định ngăn được quân địch tấn công?”.
Lý Đôn nghe vậy lập tức hỏi:
“Ý nguyên soái là…?”.
Tôi uống một ngụm trà, thong thả nói:
“Ngô Phi đã muốn dùng nạn dân để công thành, nhất định sẽ kéo quân đến phía sau. Mà phân chia nạn dân theo nhóm để tìm gian tế cũng mất không ít thời gian. Chỉ e vừa đón nạn dân vào thành, quân địch đã đuổi đến nơi rồi”.
Trần Ninh gấp gáp hỏi:
“Vậy phải làm thế nào?”.
Tôi lại cười:
“Chúng ta phải chuẩn bị quà cho bọn chúng”.
Mọi người vẻ mặt mờ mịt. Tôi giải thích:
“Quân Bắc Tề hiện tại chia làm hai cánh, một đến từ phía tây, một đuổi theo sau nạn dân. Phía tây tập hợp đại quân Bắc Tề, quà dành cho bọn chúng nhất định phải lớn! Nhưng phía đông cũng không thể không chuẩn bị. Bẫy Dục quân sư định bố trí trong thành chuyển sang đón đường quân Bắc Tề từ hai cánh là được. Nhưng bẫy nhất định phải lớn, nếu không để bọn chúng mang đại quân đến đây, chúng ta chỉ sợ không kịp đưa nạn dân vào thành”.
Còn về phần chuẩn bị bẫy gì, bố trí ở đâu thích hợp, tôi để bọn họ tự ứng phó. Dù sao tôi cũng không rành nơi này.
Lý Đôn nghe xong mặt mày tươi tỉnh:
“Nguyên soái quả nhiên đa mưu túc trí. Thuộc hạ bội phục”.
Chà, cái trò vuốt mông ngựa đây mà. Tôi chẳng qua chỉ nói bừa, định bụng nhân lúc bọn họ chuẩn bị “quà” cho quân Bắc Tề, thì tìm cơ hội bỏ trốn, liền giục:
“Các vị tướng quân mau gấp rút bố trí bẫy, chậm trễ chỉ e không kịp”.
Mọi người nhanh chóng đứng dậy, chắp tay rồi rời khỏi phòng. Chỉ còn lại Trần Đường và Trần Ninh ở lại. Tôi cũng muốn bỏ đi lắm, nhưng hai người này cứ nhìn tôi chằm chằm thế này thì đi thế nào được. Thấy Trần Ninh vừa định mở miệng hỏi, tôi thừa biết cậu ta định hỏi câu gì, liền nói luôn:
“Tôi chưa có nhớ ra gì đâu”.
Trần Ninh khép miệng, nhìn tôi với ánh mắt tủi thân. Trần Đường cười nói:
“Không việc gì, từ từ rồi đại ca sẽ nhớ lại thôi. Dù thế nào đại ca vẫn là đại ca của bọn đệ, là đại nguyên soái của Đại Chu”.
Tôi gật đầu. Trong bụng lại chữi thề, mẹ nó, ông đây không muốn làm nguyên soái. Ông chỉ muốn trốn thôi.
“Đại ca, huynh còn đang trọng thương cứ nghỉ ngơi cho bình phục. Bọn đệ ra ngoài xem thế nào”.
Tôi gật gật đầu. Đợi bọn họ đi rồi, tôi liền nhìn quanh phòng, xem có gì đáng giá để mang theo người không. Nhìn đi nhìn lại, chỉ thấy thanh kiếm là vật duy nhất có vẻ có giá trị. Thôi vậy, có còn hơn không. Đến thành trấn nào đấy tìm tiệm cầm đồ đổi lấy chút tiền rồi nghĩ biện pháp khác.
Tôi lục trong tủ tìm một bộ đồ sạch sẽ, loay hoay mặc lên người. Sau đó lén lút rời khỏi phòng, lén lút dắt con ngựa đang cột ở gốc cây gần cổng sau, lén lút mở cổng chuồn đi. Vốn không định mang theo ngựa, vì từ nhỏ đến lớn tôi đã cưỡi ngựa bao giờ. Nhưng không hiểu sao nhìn con ngựa này lại cảm thấy thân thiết như nhìn thấy bạn cũ. Sau đó lên ngựa, phóng đi… động tác thuần thục đến không ngờ. Có lẽ là bản năng của Trần Ngạn?
Chạy được non nửa canh giờ bỗng nghe thấy phía đằng sau có tiếng vó ngựa dồn dập đuổi theo. Tôi ngoái đầu nhìn lại thấy hai người Trần Đường và Trần Ninh thì hoảng hốt, liền thúc ngựa chạy nhanh hơn. Nhưng do trời tối, lại không quen đường, cuối cùng cũng bị bọn họ đuổi kịp. Đành phải ghìm cương đứng lại.
Trần Ninh xuống ngựa, chặn trước mặt tôi, hấp tấp nói:
“Đại ca! Huynh còn đang trọng thương lại một mình xông vào doanh trại địch là muốn đi tìm chết sao? Bọn đệ cũng căm hận Ngô Phi bỉ ổi, nhưng liều chết đi tìm hắn thì có tác dụng gì? Huynh mau cùng bọn đệ trở về, chúng ta từ từ nghĩ biện pháp”.
Đi tìm chết cái rắm. Tôi chữi thề trong bụng, lại ngớ ra, cậu ta vừa nói xông vào doanh trại địch? Không lẽ trước mặt là nơi đóng quân của Bắc Tề? Ông nội ơi, suýt chút thì toi cái mạng nhỏ. Vì trời tối không còn thấy mặt trời đâu nữa nên tôi cũng chả phân biệt được đâu là đông đâu là tây. Thấy mọi người tập trung một chỗ chỉ chỉ trỏ trỏ nên xác định đó là hướng dân chạy nạn đang tới, liền dứt khoát chạy về hướng ngược lại. Không ngờ lại chạy về hướng của quân Bắc Tề.
Trần Đường thấy tôi im lặng suy nghĩ thì mừng rỡ hỏi:
“Đại ca nhớ ra mọi chuyện rồi?”.
Tôi nhìn cậu ta lắc đầu.
Trần Ninh nghi hoặc nhìn tôi:
“Vậy đại ca một mình mang kiếm chạy đến chỗ Bắc Tề quân làm gì?”.
Tôi ngó xuống thanh kiếm trong tay mình. Chắc hai người bọn họ có vắt óc cũng không nghĩ ra được, tôi là định mang thanh kiếm này để đi cầm, lấy lộ phí bỏ trốn. Tôi nhìn bọn họ, lại ngước mắt nhìn về hướng vừa rồi còn định chạy đến. Có lẽ thấy tôi nhìn về hướng quân Bắc Tề ánh mắt tức giận, Trần Đường sợ tôi lại đi tìm Ngô Phi tính sổ, vội giục:
“Chúng ta quay về thành trước đã. Dân chạy nạn sáng mai mới đến, chúng ta còn một đêm để nghĩ đối sách”.
Tôi đúng là tức giận. Nhưng không phải tức quân Bắc Tề, mà giận bản thân số con rệp, chọn nhầm đường chạy trốn. Chỉ đành theo bọn họ trở về.
Trong phòng họp, à phòng nghị sự, có mấy người đàn ông đang đợi sẵn, nhìn thấy bọn tôi bước vào liền đứng dậy đón. Tôi có cảm giác như tổng giám đốc gặp cấp dưới vậy, thiếu chút nước là đưa tay phải bắt tay bọn họ rồi.
Trần Đường giới thiệu tên và chức vụ từng người trong phòng cho tôi. Người đàn ông tên Lý Đôn, khoảng trên dưới bốn mươi, là tướng thủ thành Bắc Bình, ngạc nhiên hỏi:
“Trần nguyên soái chẳng phải đã gặp qua thuộc hạ rồi mà?”.
Trần Đường thở dài giải thích:
“Nguyên soái bị trọng thương, tạm thời không nhớ được mọi chuyện”.
Các “đồng chí cấp dưới” tròn mắt nhìn sang. Tôi gật gật đầu.
Trần Ninh lên tiếng bất bình:
“Đều tại tên khốn Ngô Phi, đã hại đại ca trọng thương. Nay còn xua hai vạn dân từ các thành trấn nhỏ đến đây, muốn lợi dụng nạn dân để cho quân trà trộn công phá thành Bắc Bình”.
Lý Đôn hỏi:
“Không biết nguyên soái đã nghĩ ra biện pháp đối phó hay chưa?”.
Tôi suýt nữa đã buộc miệng nói “tẩu vi thượng sách”, may mà kịp nuốt lời vào bụng. Chỉ đành nói vài câu đối phó:
“Các vị tướng quân cho rằng nên làm thế nào?”.
Cách tốt nhất để lãng tránh câu hỏi của đối phương là đặt ra câu hỏi để đối phương phân tâm. Muốn tôi nghĩ ra biện pháp? Đùa chắc, tôi cũng không phải nguyên soái “hàng thật giá thật”.
Người đàn ông được gọi là Tống phó tướng, xem tướng mạo có vẻ là một kẻ nóng tính, nói:
“Trong thành có hơn một vạn dân chúng, gần hai vạn binh lính. Nếu để quân Bắc Tề phá cổng xông vào, thành này e không thể giữ được. Thành Bắc Bình là nơi trọng yếu, nếu bị phá sẽ dẫn đến hậu họa vô cùng. Biện pháp tốt nhất là đóng chặt cổng thành”.
Trần Đường lắc đầu:
“Cách này không ổn. Nếu nhốt bọn họ ngoài thành, với tính cách Ngô Phi nhất định cho quân giết chết dân chúng vô tội. Hai vạn nạn dân kia đều là dân chúng Đại Chu ta, trơ mắt nhìn bọn họ bị quân giặc tàn sát, chỉ e quân ta sẽ đánh mất sĩ khí. Cách này cũng không giải quyết được vấn đề”.
Dục quân sư dưới trướng Lý Đôn, là người lắm mưu nhiều kế, vuốt chòm râu dài nói:
“Nếu vậy chỉ còn cách di tản dân chúng trong thành, lại bí mật đem hai vạn quân của chúng ta ra ngoài, trong thành bố trí bẫy, đợi quân Bắc Tề vào thành thì hai mặt tấn công, hốt trọn một mẻ”.
Mọi người trầm mặc suy nghĩ. Hồi lâu, vẫn là Lý Đôn lên tiếng, nhưng không phải đưa ra biện pháp mà lại quay sang hỏi quyết định của tôi. Mẹ kiếp, lại chĩa mũi nhọn sang ông đây. Tôi không thể tiếp tục giả điếc, chỉ đành nói:
“Muốn đập tan âm mưu của Ngô Phi, phải tách quân Bắc Tề trà trộn trong nạn dân ra để tiêu diệt. Cho dù dùng kế “vườn không nhà trống” theo ý Dục quân sư, mà không thể phân biệt đâu là địch đâu là dân chúng thì cũng không thể tấn công được. Ngược lại chỉ khiến thành Bắc Bình hoàn toàn thất thủ”.
Lý Đôn vội hỏi:
“Vậy theo ý nguyên soái, làm thế nào để tiêu diệt quân địch mà không làm liên lụy dân chúng vô tội?”.
Tôi nghĩ nghĩ, đáp:
“Lúc nạn dân đến bên ngoài thành, Lý tướng quân cứ ở trên tường thành thông báo, bảo bọn họ chia nhóm để vào thành. Những người nào đến từ cùng một nơi thì hợp lại với nhau thành một nhóm. Bọn họ đều từ các thành trấn nhỏ, dân số mỗi nơi sẽ không quá vài trăm người đúng không? Thông báo cho bọn họ, mỗi người phải được những người khác trong nhóm nhận ra là có quen biết thì mới được ở chung một nhóm. Kẻ nào không có quen biết, chính là gian tế”.
Trần Đường lại hỏi:
“Đại ca, nếu vậy những kẻ gian tế nhất định hợp lại thành một nhóm, tự nhận quen biết nhau. Lúc đó chúng ta làm sao có thể biết nhóm nào địch, nhóm nào không phải?”.
Tôi cười:
“Đệ nói xem, một con vịt lạc trong bầy hạc khó giết, hay một bầy vịt tụ lại một chỗ khó giết? Chỉ cần bọn chúng tập hợp lại thành một nhóm, muốn xác định thân phận không khó. Nạn dân có già trẻ, nam nữ đủ cả. Nhưng gian tế thì không. Hơn nữa, ngoại hình, giọng nói của người Bắc Tề và Đại Chu không giống nhau. Trên người bọn chúng cũng nhất định có giấu binh khí”.
Mọi người đều gật đầu, khen kế hay. Tôi lại lắc đầu nói:
“Nhưng phân biệt được rồi cũng không nhất định ngăn được quân địch tấn công?”.
Lý Đôn nghe vậy lập tức hỏi:
“Ý nguyên soái là…?”.
Tôi uống một ngụm trà, thong thả nói:
“Ngô Phi đã muốn dùng nạn dân để công thành, nhất định sẽ kéo quân đến phía sau. Mà phân chia nạn dân theo nhóm để tìm gian tế cũng mất không ít thời gian. Chỉ e vừa đón nạn dân vào thành, quân địch đã đuổi đến nơi rồi”.
Trần Ninh gấp gáp hỏi:
“Vậy phải làm thế nào?”.
Tôi lại cười:
“Chúng ta phải chuẩn bị quà cho bọn chúng”.
Mọi người vẻ mặt mờ mịt. Tôi giải thích:
“Quân Bắc Tề hiện tại chia làm hai cánh, một đến từ phía tây, một đuổi theo sau nạn dân. Phía tây tập hợp đại quân Bắc Tề, quà dành cho bọn chúng nhất định phải lớn! Nhưng phía đông cũng không thể không chuẩn bị. Bẫy Dục quân sư định bố trí trong thành chuyển sang đón đường quân Bắc Tề từ hai cánh là được. Nhưng bẫy nhất định phải lớn, nếu không để bọn chúng mang đại quân đến đây, chúng ta chỉ sợ không kịp đưa nạn dân vào thành”.
Còn về phần chuẩn bị bẫy gì, bố trí ở đâu thích hợp, tôi để bọn họ tự ứng phó. Dù sao tôi cũng không rành nơi này.
Lý Đôn nghe xong mặt mày tươi tỉnh:
“Nguyên soái quả nhiên đa mưu túc trí. Thuộc hạ bội phục”.
Chà, cái trò vuốt mông ngựa đây mà. Tôi chẳng qua chỉ nói bừa, định bụng nhân lúc bọn họ chuẩn bị “quà” cho quân Bắc Tề, thì tìm cơ hội bỏ trốn, liền giục:
“Các vị tướng quân mau gấp rút bố trí bẫy, chậm trễ chỉ e không kịp”.
Mọi người nhanh chóng đứng dậy, chắp tay rồi rời khỏi phòng. Chỉ còn lại Trần Đường và Trần Ninh ở lại. Tôi cũng muốn bỏ đi lắm, nhưng hai người này cứ nhìn tôi chằm chằm thế này thì đi thế nào được. Thấy Trần Ninh vừa định mở miệng hỏi, tôi thừa biết cậu ta định hỏi câu gì, liền nói luôn:
“Tôi chưa có nhớ ra gì đâu”.
Trần Ninh khép miệng, nhìn tôi với ánh mắt tủi thân. Trần Đường cười nói:
“Không việc gì, từ từ rồi đại ca sẽ nhớ lại thôi. Dù thế nào đại ca vẫn là đại ca của bọn đệ, là đại nguyên soái của Đại Chu”.
Tôi gật đầu. Trong bụng lại chữi thề, mẹ nó, ông đây không muốn làm nguyên soái. Ông chỉ muốn trốn thôi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook