Mê Thần Ký
-
Chương 22
Mấy ngày nay tâm tình Đinh tướng quân không được thoải
mái cho lắm.
Ông ta cảm thấy triều đình không coi mình ra gì, quan lại địa phương cũng chẳng coi mình ra sao, chỉ trừ có binh sĩ dưới trướng là không kẻ nào dám không coi ông ra gì.
Vì một câu bộp chộp lỗ mãng mà lão đã đắc tội với tể tướng, bị một đạo thánh chỉ đẩy tới tận miền tây bắc.
Bởi thế lão phải trèo đèo lội suối, vượt Phượng Tường, qua Lan Châu, tới cái xứ chó ăn đá gà ăn sỏi, tây hơn cả phía tây, bắc hơn cả mạn bắc này!
Ông ta lĩnh binh từ kinh thành xuất phát vượt ngàn dặm, còn chưa đi được nửa đường đã lại có một đạo thánh chỉ rót xuống, bắt ông ta thuận đường tiễu trừ thổ phỉ.
Nói là tiễu trừ thổ phỉ nhưng cũng chẳng phải phỉ gì lớn lắm, đã không phải thổ phỉ ở Thái Hành căn cơ thâm hậu, cũng không phải nghĩa quân chấn động triều cương gì, chỉ là mấy cái sơn trại nho nhỏ, một lũ ô hợp, thế mà định bắt đại quân của lão dừng ngang đường, lấy dao mổ trâu đi giết gà?
Trong lời kể sống động như thật của đám quan lại địa phương, sơn phỉ ở Thanh Lĩnh sơn cực kỳ hung hãn, ẩn nấp trong dãy núi hùng vĩ mây mù bao phủ, ra vào xuất quỷ nhập thần. Quan phủ đã bó tay, nhiều lần tiễu trừ mà không làm sao thành được. Đã có lúc một đám nhân mã vào núi, còn chưa dò ra được tung tích của sơn phỉ thì đã đầu một nơi mình một nẻo, hoặc là toàn bộ biệt tích.
Đương nhiên, đối với chuyện này, quan lại địa phương cũng chẳng phải là không cố gắng hết sức. Mười năm trước, bọn họ từng tập kết binh mã đánh giết lên Thanh Lĩnh, đại chiến một trận chín ngày chín đêm với sơn phỉ. Quan quân thương vong trầm trọng, sơn phỉ cũng chết không biết bao nhiêu mà kể. Sau một trận ấy, ai ai cũng cho rằng Thanh Lĩnh sơn từ đây đã trở thành mảnh đất yên bình rồi, để kỷ niệm công lao của mình, quan địa phương còn bỏ một khoản lớn sửa sang quan đạo trong núi, đặt sáu trạm, mỗi trạm đều có quân đồn trú. Con đường bộ thông đông tây bờ nam Trường Giang cuối cùng đã được khôi phục.
Đáng tiếc việc tốt thường không bền. Ba năm sau, Thanh Lĩnh lại thành ổ của cường đạo. Sự hung tàn lang độc so với sơn phỉ năm xưa chỉ hơn không kém. Quân binh đồn trú năm nào cũng giảm, lương thảo thì bị cướp, không sao sống được, binh sĩ được phái đi đều biết chuyến này là công tác một chiều có đi không có về, chẳng ít người dứt khoát vứt giáp lên núi, gia nhập thảo khấu.
Cho nên, Đinh tướng quân cầm quân đánh giặc tới nay cũng xem như thường thắng, nhưng tiễu phỉ lần này thì lại rất không thuận lợi.
Dùng hết mọi thủ đoạn, cuối cùng hắn cũng bắt được kẻ kia.
Mười cái sơn trại trên Thanh Lĩnh là mười nhóm sơn phỉ, mỗi cái đều có thủ lĩnh và cờ hiệu riêng, thường ngày ít khi qua lại, tới mùa làm ăn thì gầm gừ nhau như sói như hùm, chớ có nói gì tới tương trợ. Kẻ hắn muốn bắt lần đầu là lĩnh sơn phỉ ở Thần Thủy trại mạn nam Thanh Lĩnh. Dải đó địa thế cao dốc hiểm trở, sơn cốc thâm sâu, dã thú ẩn hiện, dễ thủ khó công, trong mười trại có tới bốn trại đều đặt sào huyệt của mình ở đây. Vì chỗ này mà các nhóm thổ phỉ đã nhiều lần động can qua với nhau.
Cho dù là gốc gác khác nhau, nhưng đám đầu lĩnh đều là những nhân vật thành danh trong giới lục lâm. Trong số đó, danh tiếng vang dội nhất chính là “Ngân đao Tiểu Sái”.
Tiểu Sái xuất đạo cực sớm, thành danh cũng rất nhanh. Trong mười tám vị đao khách nổi tiếng miền tây bắc, gã là lão đại, hồi trẻ từng dựa vào một thanh loan đao sắc bạc độc bá một phương. Khi đó gã làm ăn theo đường chính đạo, giết mã tặc, hộ thương đoàn, một chuyến trót lọt cũng kiếm được không ít ngân lượng. Dưới tay còn có mười mấy vị huynh đệ cốt cán, ai cũng là tay thiện nghệ. Về sau không biết tại sao lại lưu lạc tới trung nguyên, rồi đi hành nghề thảo khấu, trở thành trại chủ Thần Thủy trại.
Khi ấy Tiểu Sái đã chẳng “tiểu” nữa, tuổi đã hơn bốn chục nhưng hào khí chẳng thua năm xưa.
Tiểu Sái có nguyên tắc của Tiểu Sái.
Tiểu Sái không đi cướp phá làng mạc, cũng không động tới người đi đường hay thương đội nhỏ mà chỉ làm lớn. Thông thường làm một vụ nghỉ một năm.
Hắn chuyên môn cướp bạc trắng trên quan đạo. Quan ngân là mục tiêu chủ yếu, ví dụ như thuế đất, thuế muối, thuế quan áp tải lên kinh thành, gã còn xưng là bản thân làm thế để cướp của người giàu chia cho kẻ bần cùng.
Bách tính đói khổ xung quanh đúng là cũng nhận được từ hắn không ít điều tốt. Những người ăn không no, sống không nổi lũ lượt kéo nhau lên núi, coi Thần Thủy trại là nơi thiên đường.
Thế lực của Thần Thủy trại càng ngày càng lớn, các thủ lĩnh chín trại kia dần dần ngầm thừa nhận địa vị lão đại của hắn. Phàm là thứ Ngân đao Tiểu Sái xem trúng, những kẻ khác thường sẽ không động tâm.
Mặc kệ Ngân đao Tiểu Sái ở vùng tây bắc danh tiếng lừng lẫy một phương, trên Thanh Lĩnh sơn nói một là một, nói hai là hai thì tên hắn cũng tuyệt đối chẳng đủ vang dội tới mức có thể kinh động tới bước tiến của Đinh tướng quân, mà cũng chưa tới mức chuốc lấy cái họa bị diệt tuyệt. Nhưng mà, hắn đã làm một chuyện không nên làm.
Ba tháng trước, triều đình điều động mười tám vạn lượng quân lương từ trong kho của Lưỡng Chiết, sai Bổ Khố đại sứ Vệ Đông Thăng áp tải lên miền tây bắc dùng làm quân phí tu bổ vùng biên cương. Năm chục binh lính theo xe áp tải, dọc đường bình an vô sự. Không ngờ vào tới vùng Thanh Lĩnh, còn chưa qua núi đã bị Ngân đao Tiểu Sái đem người tới cướp sạch. Không những chín chục rương bạc trên chín cỗ xe ngựa bị lấy hết mà cả năm chục vệ binh cho tới chính bản thân Vệ Đông Thăng cũng bỏ mạng đương trường.
Sau khi xảy ra chuyện, quan viên địa phương từng phái quân vào núi, ý đồ muốn đoạt lại mười tám vạn lượng bạc đó, kết quả là bị Thần Thủy trại biết tin, chặn đánh nửa đường, giết cho tơi bời giáp trụ. Không biết làm sao, quan địa phương đành viết một bản tấu gửi về triều đình.
Đinh tướng quân chính vì thế mà nhận được ý chỉ “Thuận đường tiễu trừ thổ phỉ”.
Ông ta phái người tới kiểm tra di vật của Vệ Đông Thăng, phát hiện trên người hắn có một tờ giấy, bên trên viết“Núi này do ta mở, cây này do ta trồng, nếu muốn đi qua đây, phải lưu tiền mãi lộ”, bên dưới vẽ hình loan đao màu bạc.
Giữa tờ giấy còn có một cái lỗ do đao xuyên qua.
Ấn tượng đầu tiên của Đinh tướng quân là, gã Tiểu Sái này quá dung tục. Làm sơn phỉ bao nhiêu năm như thế, cướp được rồi thì cũng nên màu mè ra vẻ một chút, ai ngờ vẫn còn chơi trò cũ rích găm đao lưu thư, lại còn để lại bốn cái câu cổ lỗ ai nghe cũng ghét kia.
“Ài, hai năm trước, Tần tướng quân cũng từng xuất binh tới đây tiễu phỉ một trận, chỉ đáng tiếc cường long bất áp địa đầu xà[1]. Đám sơn phỉ mười trại ấy, ngày thường chẳng có chuyện gì còn xông vào đánh nhau, lần ấy bỗng dưng lại liên kết cùng nhau chống đối”, quan địa phương nhìn sắc mặt, biết ngay ông ta trong lòng buồn bực, không thích thú gì chuyến tiễu phỉ này, bèn cố ý nói.
[1] Cường long bất áp địa đầu xà: Nghĩa là rồng dù mạnh cũng không thể địch nổi bọn rắn địa phương, gần nghĩa với “phép vua còn thua lệ làng”.
Đinh tướng quân nghe thế, biết ngay hắn khích tướng, trong lòng càng thêm bực bội. Ông ta không tin nhất chính là cái câu “Cường long bất áp địa đầu xà” ấy, đấu không lại địa đầu xà chỉ có thể chứng minh con cường long kia không đủ mãnh. Thế nào cũng phải giở mấy chiêu lợi hại cho cái thằng quan nhép đầu hoẵng mắt chuột này mở mắt.
Lần đó tập kích nhanh như sét đánh không kịp bưng tai, ông ta vốn dự đoán sẽ phải khổ chiến một trận, ai ngờ cả quá trình lại dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều so với tưởng tượng.
Trong trường huyết chiến ấy, quan quân của ông ta giết được hơn hai trăm tên, tiêu diệt cả sơn trại. Trong tám mươi lăm người còn lại, trừ mấy tên đầu lĩnh cần phải bắt sống đợi thẩm vấn ra, quá nửa là đàn bà và trẻ nhỏ.
Đinh tướng quân tự mình đem người lên núi, lật tung cả cái Thần Thủy trại lên cũng không tìm thấy quân lương bị mất. Chớ nói tới xe vận tiêu, mà ngay cả một cái rương cũng chẳng thấy.
Tiểu Sái đương nhiên không thừa nhận, Đinh tướng quân có cách của Đinh tướng quân.
Ông ta chẳng nói nhiều, đem cực hình ra chiêu đãi.
Suốt hai ngày nghiêm hình tra khảo, trên người Tiểu Sái đã không còn chỗ nào lành lặn, nhưng gã vẫn nói không biết, thật sự không biết.
Đinh tướng quân nổi cơn thịnh nộ.
Lão lôi đứa con trái sáu tuổi của Tiểu Sái tới trước mặt hắn, đè bàn tay thằng bé lên bàn.
“Nói! Quân lương ở đâu?”
Đôi mắt đỏ lừ của Tiểu Sái cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, nhưng vẫn cứ lắc đầu.
Đinh tướng quân rút yêu đao, vung tay hạ đao. Ánh bạc loang loáng, ngón trỏ của đứa bé đã bắn tung lên không trung, máu tươi bắn lên mặt, lên miệng Tiểu Sái.
“Oa… cha ơi cứu con!!!”, đứa bé đau đớn giãy giụa, kêu khóc thảm thiết.
Gã liếm sạch máu con mình, cúi thấp đầu, toàn thân run bần bật, nhưng vẫn không nói gì.
“Ngươi nhận hay không?”, Đinh tướng quân híp mắt lại, mặt lộ sát khí.
“Tôi… tôi thực không biết!”, giọng Tiểu Sái khàn đi bởi thống khổ, gã quỳ xuống đất, mười ngón tay cào đến máu tươi ứa đầy.
Đao quang lại loáng lên, một ngón tay nữa bị chặt xuống.
Gã không còn dám nhìn mặt con, vội nhắm mắt lại.
Bản thân Đinh tướng quân cũng có mấy đứa con trai, đương nhiên ông ta biết một người cha trong tình cảnh này có cảm giác gì.
“Mọi người nói ngươi là thiết hán. Ta muốn xem xem thiết hán nhà ngươi rốt cuộc cứng rắn đến mức nào!”, hắn cười lạnh.
Tiểu Sái quả nhiên vô cùng cứng đầu, gã vẫn không chịu thừa nhận.
Lúc chặt tới ngón thứ ba, đứa nhỏ đã không còn sức khóc nữa, hai mắt trợn ngược, đau quá mà ngất đi.
Đinh tướng quân vẫn đè tay đứa bé, chẳng mảy may có ý định buông tha cho nó.
“Ngươi có biết cách tốt nhất để cầm máu là gì không?”, lão cười nhạt, chỉ vào bàn tay đầm đìa máu của đứa nhỏ: “Sắt nung. Dùng sắt nung đỏ đốt là máu sẽ ngừng chảy. Người đâu…”.
“Đừng, đừng! Tôi nhận! Tôi nhận! Xin ngày hãy tha cho nó đi!”
Tiểu Sái sắt đá lúc này khuôn mặt đã đẫm lệ, cuối cùng cũng phải mềm ra rồi. Gã nói gã đã nhờ một vị bằng hữu đáng tin đem quân lương giấu ở một chỗ tuyệt mật, đến chính gã cũng chẳng biết là ở đâu. Vị bằng hữu kia lại hành tung bất định, muốn tìm được cần có thời gian.
“Cần bao nhiêu thời gian?”, Đinh tướng quân hỏi.
“Ít nhất là một tháng.”
“Hạn cho ngươi trong vòng mười ngày phải tìm được”, Đinh tướng quân âm trầm nói: “Nếu không, ta xẻ con trai ngươi làm tám mảnh, đem toàn bộ tám mươi lăm người này băm thành tương thịt”.
Lão phế võ công của Tiểu Sái, cấp cho hắn một con ngựa rồi thả hắn ra. Sau đó sai người chuyển lời cho quan địa phương: “Sau mười ngày nữa tới nhận quân lương”.
Quan địa phương mừng ra mặt, tự mình tới cảm ơn, nói tướng quân ngài thật là thần dũng vô địch, nhờ ngài tiện thể đem chín cái trại còn lại quét cho sạch luôn đi.
Đinh tướng quân thầm mắng trong lòng, bổn tướng quân lại do ngươi sai khiến sao? Liền hừ lạnh một tiếng, kiêu căng nói: “Triều đình không có ý chỉ ấy”.
Ai ngờ hai ngày sau có người bảo với ông ta, cái vị Tôn tri phủ này là cháu của Tôn quý phi, ngàn vạn lần không thể đắc tội, đắc tội rồi, nửa đời còn lại của ông ta xác định ở lại luôn tây bắc đi, chớ có mong quay về nữa.
Ông ta hối hận, nhưng lời đã nói ra khó mà thu lại được. Cho nên khi Tôn tri phủ thông báo Sơ An trấn trước mặt xuất hiện ôn dịch, cầu ông ta phái binh “chi viện”, lão không dám cự tuyệt nữa.
“Cái trấn ấy có bao nhiêu người?”, lão hỏi.
“Hơn năm trăm người.”
“Chết mất bao nhiêu rồi?”
“Hơn hai trăm.”
“Hai trăm bao nhiêu?”
“Không rõ.”
“Không rõ?”
“Ôn dịch lan tràn cực nhanh. Có lẽ lúc tôi với ngài đang nói đây lại chết thêm mấy người.”
“Hả?”
“Cái trấn ấy ở không xa phía trước, cách thành Gia Khánh chỉ có hai chục dặm. Tôi đã phái quân lính thắt chặt hai đầu ra vào trấn, người bên ngoài chắc chắn không thể đi vào nhưng người trong ấy, bất luận có nhiễm bệnh hay chưa đều đang tìm cách thoát ra ngoài… Cũng khó trách, trong trấn ấy toàn là nông bộ, bây giờ đã thành một bãi tha ma. Ngoài đường, trong nhà toàn là người chết, không ai dám động vào, cũng không dám chôn. Tôi đây là quan phụ mẫu nhìn mà đau lòng, nhưng cũng không dám mạo hiểm sai người vào lo liệu, chỉ có thể đặt hai cái nồi lớn ở hai đầu, nấu chút thảo dược cho người còn sống, sau đó đều đặn tiếp chút lương gạo với nước sạch.”
“Thảo dược có tác dụng không?”
“Để vỗ an lòng người mà thôi. Lúc đầu tôi có mời một vị đại phu, ai ngờ hắn sống chết gì cũng không chịu vào đó. Tôi dọa hắn mấy câu, hắn bèn nói phải về nhà tra sách nghĩ phương thuốc, tới ngày hôm sau sẽ quay lại. Tôi cũng không chú ý, biết đâu được ngày hôm sau phái người tới tìm hắn, hắn đã đem cả nhà chạy biệt tăm biệt tích rồi.”
“Nói như vậy, hơn hai trăm người còn lại chỉ có thể đợi chết thôi à?”
“Gần như thế… Vào lúc thế này, không thể để bọn họ chạy loạn ra ngoài được. Chẳng may để dịch bệnh lan vào thành thì phiền phức lớn rồi. Ài, đây cũng là vì chẳng có cách gì”, Tôn tri phủ than thở.
“Nếu như có người liều xông ra thì sao?”
“Đây chính là lý do tôi phải mời tướng quân ngài giúp đỡ.”
Ý tứ của câu nói, Tôn tri phủ đã dùng ánh mắt ngầm biểu đạt rõ rồi.
“Ừm, hiểu rồi.”
Làm bậc quan phụ mẫu, vào lúc nguy cấp thế này mà không đích thân tới nơi thị sát tình hình dịch bệnh, an ủi vỗ về dân chúng đã là rất không ổn rồi, nếu lại xử lý quá tuyệt tình, chỉ sợ người người nguyền rủa, cho nên mới phải nhờ tới người ngoài ra mặt làm cứng.
Bởi thế, việc quân lương đang không có manh mối, Đinh tướng quân căn dặn mấy thủ hạ lưu lại đợi Tiểu Sái xong liền đem theo đội ngũ đi tới Sơ An trấn.
“Dù sao thì cũng thuận đường, Đinh tướng quân, khó nhọc ngài đi chuyến này rồi”, tri phủ nửa cười nửa không, rất khách khí ôm quyền vái lão.
Đinh tướng quân có thể nhìn ra chút bỡn cợt trong đó. Với thế lực sau lưng tên tri phủ này, lão chỉ có thể ôm giận vuốt râu, vuốt đứt mấy sợi râu của chính mình.
…
Đi tiệm thuốc bốc thuốc xong, Quách Khuynh Quỳ vội vàng trở về Dụ Long khách điếm.
Cho dù đã có Đường Hành ở đấy với Thẩm Khinh Thiền, hắn vẫn rất không an tâm. Hắn biết nhân mã của Thẩm gia đã tới hết Gia Khánh, bọn họ đang lùng bắt Quách Khuynh Trúc khắp nơi.
Hắn cũng biết, hắn và Thẩm Khinh Thiền đều đang trong sự giám sát của họ.
Còn như người nhà đó rốt cuộc có kế hoạch gì, vì sao tới giờ vẫn chần chừ chưa động thủ, hắn lại chẳng rõ chút nào.
Bầu trời đằng xa mây mù rợp mắt, một trận gió mưa sắp tới.
Trong lòng hắn nghĩ thầm, cái gì nên tới thì để nó tới nhanh một chút đi! Cái gì nên kết thúc cũng để nó nhanh nhanh kết thúc.
Xét cho cùng, cuộc đời này ngoài thù hận, còn những chuyện khác nữa phải làm. Còn rất nhiều, rất nhiều chuyện nữa.
Hắn muốn nói với đại ca suy nghĩ này, nhưng trong lòng hiểu rõ đại ca sẽ không thấu hiểu… Đại ca chỉ sống vì thù hận.
Đúng vào lúc ấy, một bàn tay không biết từ đâu thò ra, giữ lấy chân hắn suýt nữa khiến hắn ngã nhào.
Hắn cúi đầu nhìn xuống, đó là một gã ăn mày lê lết bên vệ đường.
Khuôn mặt người đó chẳng thể coi là mặt, khắp mặt mưng mủ máu me, trông rất đáng sợ.
Cho rằng người này muốn xin ăn, hắn vội rút trong người ra một mẩu bạc.
Người kia giọng khàn khàn, ú ớ hồi lâu mới thốt: “Lưu… Lưu đại hiệp?”.
Lâu lắm rồi hắn không nghe thấy có người gọi mình như thế!
Trong lòng chấn động, hắn nhìn kỹ lại người ăn mày, nhưng nhìn lâu lắm rồi mà vẫn không nhận ra.
“Chúng ta… có quen biết à?”, cuối cùng hắn hỏi.
“Ở tây bắc từng gặp mặt một lần… Tỷ đao đại hội.”
“Thứ cho tôi mắt kém…”
“Tôi là Tiểu Sái”, người kia nói: “Ngân đao Tiểu Sái”.
Quách Khuynh Quỳ giật mình biến sắc. Chỉ cần từng lăn lộn trong giới võ lâm tây bắc, không ai là không biết Ngân đao Tiểu Sái. Nếu như người lăn lộn chốn ấy lại tình cờ cũng luyện đao, thì chắc chắn không thể không nhận ra Ngân đao Tiểu Sái.
Quách Khuynh Quỳ kinh ngạc: “Ngân đao Tiểu Sái, huynh… huynh sao lại tới chỗ này?”.
“Nói ra dài lắm, không nói thì hơn”, người nọ động tác cứng ngắc, rõ ràng đã bị trọng thương, lúc nói chuyện cổ họng khò khè, giống như có đờm tắc lại: “Nể tình chúng ta có quen biết, huynh có thể giúp tôi một chuyện chăng?”.
Quách Khuynh Quỳ từng nghe nghe những truyền thuyết, thần thoại về nhân vật này. Ngân đao Tiểu Sái, lão đại của tây bắc thập bát đao khách, năm xưa là một nhân vật vang dội đến mức nào!
Hắn cúi xuống đỡ Tiểu Sái lên: “Giúp chuyện gì? Nói đi!”
“Tôi… không đi nổi, có thể phiền huynh đưa tôi tới chân núi Thanh Lĩnh không?”
“Yên tâm, huynh định bao giờ thì đi?”
“Bây… bây giờ được không?”
“Được. Hay là tôi đưa huynh tới khách điếm một chuyến? Tôi muốn đưa bằng hữu của mình cùng đi một thể?”, hắn đưa cho một gã bán hàng rong mấy đồng, nhờ hắn giúp gọi một cái kiệu.
“Đa tạ! Thanh Lĩnh sơn cách đây không xa.”
“Tôi biết. Huynh có chuyện gì phải làm ở đó sao?”
“Tôi muốn nhìn mặt con trai… lần cuối.”
Ăn một bữa cơm no, uống hai bát rượu mạnh, tinh thần của Tiểu Sái xem ra đã khôi phục không ít, chí ít thì đã không còn nói năng khàn khàn nữa. Đường Hành cười hỏi: “Mười năm trước, Sái đại ca là một nhân vật hô mưa gọi gió trên đao bảng, khi nào có thời gian rảnh chúng ta hẹn tỷ thí một trận chăng?”.
Chưa dứt lời, Thẩm Khinh Thiền đã đưa chân đạp hắn một cái dưới gầm bàn: “Để Sái đại ca kể cho chúng ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì đã.”
Tiểu Sái liền kể lại chuyện Đinh tướng quân xuất binh hủy diệt tận gốc Thần Thủy trại, trên mặt ba người kia đồng thời lộ vẻ thương xót.
“Gã họ Đinh kia nhất quyết cho rằng tôi đem người cướp mười tám vạn quân lương, thực ra hôm đó bọn tôi vốn không hề xuống núi”, Tiểu Sái nói.
“Nhưng mà rốt cuộc huynh có biết khoản tiền ấy đi qua đây không?”, Đường Hành hỏi.
“Nếu là ngày trước tôi chắc chắn biết. Nhưng lần đó, trong trại bọn tôi có mấy người không biết ăn phải cái gì, trong một đêm mắc phải bệnh lạ, toàn thân trên dưới nổi đầy mụn đỏ. Tiếp đó là sốt cao, lở loét. Mười ngày đầu đã chết mất năm vị huynh đệ. Dần dần người mắc bệnh càng lúc càng nhiều. Tôi vội vàng phái người xuống núi mời đại phu. Đại phu tới cũng không biết là bệnh gì, chỉ nói có lẽ là bệnh ngoài da. Cả tháng ấy tôi đang lo liệu chuyện này… Nếu không phải mọi người đều lâm bệnh, họ Đinh kia há có thể một đêm diệt sạch Thần Thủy trại sao?”, Tiểu Sái nện xuống bàn một quyền căm phẫn nói.
Quách Khuynh Quỳ hỏi: “Liệu có phải người trại khác làm không?”.
Tiểu Sái lắc đầu: “Trừ Thần Thủy trại, trong Thanh Lĩnh sơn chẳng ai có gan động tới đồ quan phủ. Ngay cả bọn tôi cũng phải cân nhắc kỹ được mất mới hạ thủ… Nói cho cùng cũng là số lượng lớn bạc nhà quan, quan phủ truy đến cùng ắt sẽ phái binh đoạt lại. Cướp bạc đương nhiên sảng khoái, nhưng phiền phức phía sau không sao lường hết. Huống chi muốn đem mười tám vạn lượng bạc thần không biết quỷ không hay vận chuyển lên núi tuyệt đối không phải chuyện dễ dàng, ít nhiều gì cũng sẽ bại lộ chút dấu vết”.
Đường Hành nói: “Nói như vậy, trước mắt huynh chẳng có chút đầu mối nào rồi”.
Tiểu Sái nói: “Một chút cũng không. Tôi chỉ đành thừa nhận là chúng tôi cướp, chẳng qua là đã nhờ bằng hữu đem giấu ở chỗ bí mật. Đinh tướng quân mới thả tôi ra, cho tôi mười ngày bắt tôi tìm bạc về”.
Thẩm Khinh Thiền hỏi: “Còn bao nhiêu ngày nữa thì đến hạn chót?”.
“Năm ngày.”
“Huynh xoay được bao nhiêu bạc rồi?”
“Không giấu mọi người, Đinh tướng quân đã chặt ba ngón tay đứa con trai sáu tuổi của tôi, còn tuyên bố sẽ đem tám mươi lăm người đàn bà, trẻ con còn lại băm thành tương thịt. Trong trại vốn còn mấy nghìn lượng bạc vụn sớm đã bị quan binh cướp sạch. Trong cơn tuyệt vọng, tôi bèn xuống núi cướp chi phiếu của một thương nhân, định đến Thiên Thuận tiền trang đổi ít bạc. Ai ngờ trong chi phiếu còn nhiều tiêu ký bảo mật tiền không tới được tay, thiếu chút nữa là bị người ta tóm. Một vị huynh đệ muốn giúp tôi, đêm đó một mình tới tiền trang ấy cướp bạc, bất hạnh bị bảo tiêu một đao chém trúng, bỏ mạng tại chỗ! Ngày hôm sau tôi nghe được tin ấy, muốn đi nhận lại xác”, hắn cười thảm: “Cho nên mới bị đánh thành ra thế này. Không những không xoay được bạc, thiếu chút nữa mạng cũng mất luôn. Mười tám vạn lượng bạc, con số lớn đến thế, muốn cướp cũng không cướp được, bảo tôi đi đâu xoay được đây?”.
Quách Khuynh Quỳ nghĩ một chút rồi nói: “Xem ra trước mắt chỉ còn một cách, chính là lén lút cứu tám mươi lăm người kia ra”.
Tiểu Sái cười khổ: “Ai giúp tôi cứu cơ chứ?”.
Quách Khuynh Quỳ đáp: “Tôi”.
Thẩm Khinh Thiền chỉ vào mũi mình nói: “Còn tôi nữa”.
Đường Hành cũng nói: “Đệ cũng đi”.
Môi Tiểu Sái máy động một lúc, rồi không nói gì, vành mắt đã ươn ướt, hồi lâu mới nói: “Các vị vốn chẳng quen biết tôi, chớ có đi uổng mạng”.
Quách Khuynh Quỳ vỗ vai gã, nói: “Ai nói là bọn ta sẽ uổng mạng? Chúng ta nhất định sẽ sống quay về! Con trai huynh cũng sẽ sống sót trở về!”.
…
Lúc bình minh lặng lẽ tới, Tô Phong Nghi vẫn chưa hề chợp mắt, nàng cứ đi miết về phía trước.
Nàng đã đi trọn một vòng thành Gia Khánh, hỏi thăm tung tích Tử Hân tứ xứ.
Đến chỗ nào, nàng cũng hỏi cùng một câu: “Xin hỏi lão tiên sinh, người có nhìn thấy một vị giang hồ lang trung đầu đội nón rộng vành, tay chống trượng không?”.
Có người nói không thấy, có người nói từng thấy qua.
Lần theo phương hướng vài người chỉ cho nàng, rôt cuộc nàng cũng tới được một ngã rẽ, cứ tới ngã rẽ nàng thường chẳng biết theo đường nào. Sau đó nàng sẽ lại giống như một con ruồi vo ve dò hỏi khắp nơi.
Trước lúc đi, Đường Hành hỏi nàng có cần hắn đi cùng không, Tô Phong Nghi nhảy dựng lên: “Không, không, không, không! Huynh chớ có đi cùng muội!”.
Đường Hành lo lắng nhìn nàng, than thở: “Được rồi, ta không đi với muội. Có điều muội có chịu nghe ta khuyên một câu không?”.
“Nói đi!”
“Gặp được Tử Hân thì đừng giải thích gì cả, cũng chớ có thừa nhận gì.”
“Nhưng mà…”
“Tin ta đi, như thế sẽ tốt cho muội hơn.”
“Được rồi, có điều”, trong mắt nàng nước mắt long lanh: “Muội còn có thể gặp được Tử Hân không? Huynh… huynh ấy vẫn sẽ… vẫn sẽ…”.
Đường Hành chăm chú nhìn nàng, nói: “Huynh ấy sẽ”.
Lúc ra đi tâm tình nàng hoảng loạn, vừa bước khỏi cổng thành, Vương Lộc Xuyên đã đuổi theo đằng sau.
Tô Phong Nghi mặt đầy nước mắt, nói: “Chớ có đi theo muội”.
“Muội bỏ quên cái hũ”, hắn cười, tay nâng nâng cái hũ đồng đen sì sì: “Muội vốn là người tỉ mỉ, sao bây giờ lại biến thành đãng trí thế?”.
Nàng bỏ cái hũ vào bọc vải trên lưng ngựa, nói: “Đa tạ”.
“Muội muốn đi đâu?”
“Huynh hỏi làm gì?”
“Ta đi cùng muội.”
“Đừng đi theo muội.”
“Trời tối rồi, bên ngoài rất loạn, ta không yên tâm”, hắn cười và nói tiếp: “Dù thế nào, hiện muội vẫn là vợ chưa cưới của ta”.
“Đừng đi theo muội! Không được đi theo muội!”, Tô Phong Nghi đột nhiên phát cáu, thét vào mặt hắn: “Không được đi theo muội!”.
“Chớ có nổi cáu lên thế”, hắn chẳng buồn nghe, cứ theo nàng như cũ.
Tô Phong Nghi hỏi thăm người qua đường tung tích của Tử Hân, Vương Lộc Xuyên thì đứng một bên lặng lẽ nhìn. Hỏi thăm xong xuôi, nàng lên đường, hắn liền theo ngay phía sau.
“Hắn là giang hồ lang trung, đi khắp giang hồ, muội làm thế nào tìm được hắn đây?”, thấy Tô Phong Nghi cứ đi mải về phía trước, hắn không nhịn được mà bực bội.
“Không liên quan tới huynh.”
“Sao lại không liên quan tới ta? Muội không tìm được hắn, vậy thì hôn sự của chúng ta có hy vọng rồi”, hắn đưa một bông xuân cúc lên ngậm vào môi, thoải mái nói: “Ta hận hắn chẳng vĩnh viễn biến mất luôn cho xong”.
Tô Phong Nghi ghì cương ngựa, quay sang nhấn từng chữ với hắn: “Chớ có hy vọng. Cho dù Tử Hân vĩnh viễn biến mất, muội cũng sẽ không gả cho huynh. Huynh không cần theo muội, muội sẽ không đổi ý đâu”.
Mặt Vương Lộc Xuyên tái xanh giận dữ: “Vì sao chứ? Trừ việc không cổ quái bằng hắn, huynh có chỗ nào không bằng thằng què ấy?”.
“Muội thích huynh ấy!”, Tô Phong Nghi lớn tiếng: “Muội thích Tử Hân!”.
Vương Lộc Xuyên quả thực muốn lôi nàng xuống ngựa, quăng xuống cống: “Muội thích cái gì ở hắn? Nói huynh nghe xem”.
“Cái gì cũng thích.”
“Thôi đi, cái muội thích chẳng qua là do muội tự mình tưởng tượng ra thôi. Đợi những thứ ấy biến mất hết, muội sẽ chán thôi.”
“Có lẽ huynh nói không sai”, nàng lạnh lùng, nói: “Nhưng muội ở cùng với huynh chính là thiếu thứ đó. Con người huynh không xấu, có điều dung tục không chịu nổi!”.
Vương Lộc Xuyên dừng ngựa, trầm mặt nói: “Từ nhỏ tới lớn ta đều nhường muội, muội càng ngày càng càn rỡ”.
“Ai cần huynh nhường muội? Muội ghét nhất chính là lần nào huynh cũng giả tình giả nghĩa nhường muội!”
Mặt Vương Lộc Xuyên đã tức đến đỏ lựng, đột nhiên túm lấy Tô Phong Nghi lôi xuống ngựa, gào lên: “Im miệng! Con đàn bà đáng chết này!”.
“Huynh xem, lộ nguyên hình rồi nhé!”
“Không sai!”, bàn tay to lớn của hắn nắm lấy cổ nàng, kéo mặt nàng tới sát mặt mình: “Ta quên mất, ta còn chưa hôn tân nương của mình đấy. Muội cố ý chọc ta là vì muội thích bị người khác ức hiếp, đúng không?”.
Nàng ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trong miệng hắn. Lần đầu tiên nàng phát hiện cánh tay người này to lớn đến thế, cứ như hai cái chân gấu. Bàn tay cũng to tựa chiếc quạt. Nàng lật tay tát cho hắn một bạt tay, giận dữ gào lên: “Không được chạm vào tôi! Vương Lộc Xuyên, huynh chớ có nghĩ muốn ép tôi làm cái gì! Huynh dám!”.
Khoảnh khắc ấy, nàng tay đấm chân đạp, thét lên như điên: “Huynh không biết sao? Từ nhỏ tôi đã bị ức hiếp quen rồi, đừng ai nghĩ tới chuyện ức hiếp tôi nữa!”.
Đột nhiên nàng lại nhớ tới cái đêm ấy, dưới ánh nến mờ mờ, bàn tay trắng trẻo thô lỗ, khuôn mặt gã, còn cái câu nói kia nữa:
Rót trà cho ta.
Rót trà cho ta. Rót trà cho ta. Rót trà cho ta…
…
“Này, này, chớ có điên lên được không?”, Vương Lộc Xuyên giữ lấy tay nàng, trên mặt hiện lên nụ cười khổ, khẩu khí hòa dịu lại: “Ai dám ức hiếp muội, huynh đánh chết hắn! Huynh chỉ muốn dọa muội tí thôi. Muội nói xem, huynh từng ức hiếp muội bao giờ chưa? Huynh sao dám chứ?”.
“Thế thì huynh về nhà đi, đi đi! Đi đi! Chớ có đi theo muội nữa!”
“Muội không biết trước khi hửng sáng chính là lúc trời đất tối nhất à? Hiện giờ trăng tỏ gió lớn, chính là lúc giết người phóng hỏa. Ta vẫn phải đi theo muội.”
Nàng không thèm nói lý với hắn, thấy trước mắt có người hái nấm bèn vung roi định đuổi theo hỏi thăm tung tích Tử Hân. Vương Lộc Xuyên chợt gọi nàng lại:
“Vừa rồi ta giúp muội hỏi thăm rồi… Hắn ở Sơ An trấn.”
…
Tiểu trấn cực kì yên tĩnh nhưng đèn đóm sáng trưng.
Tới gần xem, hóa ra chiếu sáng không phải là đèn mà là vô số đuốc. Không biết bao nhiêu quan binh vây chặt một khu đất rộng với nhà cửa xung quanh tới mức một giọt nước cũng chẳng thể lọt qua. Ở chính giữa khu đất đang đốt một đam 1ửa cháy phừng phừng, rất xa mà vẫn nghe thấy tiếng củi cháy lách tách. Không gian nồng nặc mùi khét khiến người ta khó thở.
Thấy bên cạnh có một thôn dân đang thò đầu quan sát, Tô Phong Nghi vội xuống ngựa tả lại hình dáng của Tử Hân. Quả nhiên, thôn dân kia gật đầu nói: “Người cô nương muốn hỏi có phải là Diêu đại phu không?”.
Tô Phong Nghi nghe thế mừng ra mặt: “Đúng rồi, đúng rồi! Đại thúc, người có biết huynh ấy ở đâu không?”.
Thôn dân chỉ vào giữa khu đất: “Vị ấy vào kia rồi… Đinh tướng quân mời đại phu khắp nơi, dọc dải này chỉ có duy một vị đại phu thì sớm đã bỏ chạy rồi. Vừa hay có vị giang hồ lang trung này ngẫu nhiên đi ngang qua, còn chẳng đợi Đinh tướng quân phái người tới mời đã tự mình đi vào. Đúng là một người tốt! Không giấu gì hai vị, từ khi ôn dịch phát tác tới nay, chỉ thấy người bên trong nghĩ cách thoát ra, chứ chưa có ai bên ngoài muốn vào cả”.
Nụ cười đông cứng trên mặt, Tô Phong Nghi kinh sợ hỏi: “Ôn dịch? Ôn dịch gì?”.
“Không rõ nữa. Đã chết hơn ba trăm người rồi. Những người còn lại phân nửa cũng sắp không xong”, thôn dân lắc đầu than thở: “Đều là nông dân thật thà lương thiện, cũng không biết kiếp trước gây ra nghiệp gì mà giờ mắc phải cái họa này…”.
“Đại thúc người có thấy Diêu đại phu đi ra chưa?”
“Cái gì mà đi ra?”
“Đi từ trong đó ra.”
“Cô nương tìm vị Diêu đại phu ấy có chuyện gì?”
“Cháu… cháu là bằng hữu của huynh ấy.”
“Diêu đại phu không thể đi ra đâu.”
Tô Phong Nghi trong lòng lạnh toát, vừa định hỏi tại sao thì chợt nghe trong đám người có tiếng xáo động, bên tai có tiếng tên bay vun vút, kiễng chân lên ngó thì thấy một người mình bận áo vải xanh trúng tên ngã dưới đất, máu chảy lênh láng, trong tay người đó còn nắm cây cuốc, đang chửi bới bằng tiếng địa phương. Hắn liều mạng muốn từ trong khu đất xông ra ngoài, sắp tới được rào chắn bao quanh thì bị binh sĩ thủ vệ bắn ngã. Mắng được một lúc, tiếng người nọ dần dần yếu đi, chân hướng lên trời đau đớn giãy vài cái rồi không cử động gì nữa.
Nước mắt Tô Phong Nghi bất tri bất giác trào ra, nàng đã hiểu tại sao Tử Hân không thể đi ra rồi.
Chân trời vỡ ra mấy chùm nắng.
Vầng dương vẫn đẹp đẽ như xưa.
Bình minh ở Sơ An trấn thì lại khói đen cuồn cuộn, không khí bức bối. Giếng nước khô cạn, mặt đất nứt nẻ, lửa hỏa táng người chết cháy ngày cháy đêm. Mặc kệ Đinh tướng quân đã ra lệnh người còn sống phải mau chóng đem thân nhân đã chết hỏa táng, không ít thôn dân vẫn tin theo tục thổ táng truyền lại từ xưa, thà để người chết trơ trọi giữa đường cũng không muốn ném họ vào lửa. Huống chi người chết toàn là do mắc bệnh, trừ người thân ra, chẳng ai dám động vào.
Dưới mặt trời đầu hè thiêu đốt, thây người biến chất sộc vào mũi không chỉ là mùi khói khét lẹt mà còn cả mùi thây người thối rữa.
Vậy mà lại có một nữ nhân còn sống đang nằm giữa đám thi thể thối rữa đó!
Mọi người nói, nàng tên là A Trân, một trinh nữ trong trấn này, mười lăm tuổi đã bắt đầu ở góa thủ tiết, tới nay hơn ba mươi. Từ khi người trong thôn chết đi quá nửa, nàng đã mất hết thân nhân nhưng bản thân lại không hề mắc bệnh.
Năm năm nay, nàng yên ổn trong phòng của mình, lấy nghề thêu thùa mưu sinh, cựu kỳ ít ra ngoài.
Nàng là một nữ nhân mỹ lệ, thần thái điềm đạm, dung mạo đẹp đẽ, thân hình mảnh khảnh, tuy không tới mức khuynh quốc khuynh thành nhưng cũng xứng để cả thôn lấy thế làm kiêu ngạo. Mọi người bảo vệ nàng như bảo vệ phúc thần của mình. Nhưng, lúc ôn dịch tràn đến, trong thôn hỗn loạn, người chết lia lịa, ai cũng tránh mặt nhau, sống chết mặc bây, thân nhân vứt bỏ thân nhân, bằng hữu chẳng ngó ngàng bằng hữu, nên cũng chẳng ai phiền tới nàng. Nam nhân trẻ tuổi mặc kệ có mắc bệnh hay chưa đều tầm hoan hưởng lạc thâu đêm, bọn họ cuồng hoan, hưởng lạc, tìm nữ nhân, muốn tận hưởng hết thời gian cuối cùng của đời người.
Vào cái ngày trận ôn dịch trầm trọng nhất, A Trân đột nhiên xuất hiện ở giữa khu đất, trước mắt chúng nhân cởi bỏ y phục, trần truồng nằm dưới đất.
Bất kể thôn dân khuyên thế nào, nàng cũng cự tuyệt mặc y phục, thà cứ thế này mà chết đi.
Sương đêm xuống, có người đưa cho nàng một tấm chăn liền bị nàng quẳng ra xa.
Nàng thậm chỉ còn tỏ rõ, nếu có người muốn tìm nàng hưởng lạc, nàng sẽ vui vẻ bồi tiếp. Nàng không ngại mắc bệnh, cũng chẳng sợ chết, càng không thèm để ý tới danh tiết.
Mọi người hỏi nàng rốt cuộc muốn gì, hoặc làm thế cuối cùng là vì cái gì, nàng nói:
“Tôi chẳng muốn gì, cũng chẳng vì cái gì.”
Nàng ngây thơ vô tội như một đứa trẻ, chỉ một ý nghĩ thoáng qua cũng có thể làm tổn thương nàng.
Lúc Tô Phong Nghi nhìn thấy A Trân, nàng đã trong cơn hấp hối. Có nam nhân tìm tới nàng, nàng theo hắn vào phòng mình, cuối cùng, lúc trở ra nàng cũng đã bị lây ôn dịch.
Vết ban đỏ từng nốt, từng nốt lan trên da nàng, ban đầu chỉ ở cổ, ở bụng, dần dần liền thành một mảng, sau đó mưng mủ lở loét.
Giang hồ lang trung kia đưa cho nàng thuốc giảm đau, nàng cự tuyệt uống, cũng từ chối trị bệnh. Sau đó nàng dần dần không nói được nữa, chỉ đưa đôi mắt đăm đăm nhìn vào bầu trời xanh trên đầu.
Nàng giữ tư thế ấy, nằm bất động đợi cái chết.
Phía đông khu đất chỗ lối ra vào có hai nồi lớn. Một nồi nấu cháo, một nồi đun thuốc. Mỗi khi tới giờ ăn, người còn sống từ trong nhà đi ra, Đinh tướng quân sẽ sai người nhân đó đếm người còn sống.
Trong một ngày, đây là lúc duy nhất Tô Phong Nghi có thể nhìn thấy Tử Hân.
“Vị lang trung này thật là lợi hại! Ngày đầu tiên đến, không biết làm thế nào đã thuyết phục được Đinh tướng quân đưa hơn chín chục người chưa mắc bệnh tới tăng xá của Tuệ An tự phía tây thôn. Nói là sau ba ngày sẽ kiểm tra lại một lượt, nếu thân thể những người này vẫn không có ban đỏ thì bọn họ hoàn toàn an toàn, có thể thả ra.. Bây giờ người trong đó đều nói Diêu đại phu là ân nhân cứu mạng của họ, còn nói muốn lập sinh từ[2] cho vị ấy đấy”, thôn dân tán tụng nói.
[2] Lập đền thờ sống để tỏ lòng kính trọng, biết ơn ai đó.
Từ buổi sáng, Tô Phong Nghi nhìn thấy từng thôn dân lần lượt đi ngang qua rào chắn, bưng về một bát đầy cháo loãng. Một mạch tới bữa tối nàng vẫn không thấy Tử Hân. Rào chắn đó và thôn dân ngoài này được ngăn cách bởi mấy hàng binh sĩ, thôn dân mắc bệnh mặt mày tiều tụy, ánh mắt đờ đẫn, Tô Phong Nghi ở bên kia rào chắn hỏi thăm bọn họ, một người trong số đó nói, Diêu đại phu bận chăm sóc người bệnh, không rảnh tới nhận bữa sáng. Cháo của đại phu đều do người khác lấy hộ.
Ngừng một chút, người kia lại hỏi: “Cô nương là bằng hữu của Diêu đại phu?”.
Tô Phong Nghi gật đầu.
“Xin hỏi, Diêu đại phu có phải thần tiên chăng?”
Tô Phong Nghi nói: “Không phải”.
“Sao đại phu rất ít ăn uống?... Đại phu gần như chẳng ăn gì cả, chỉ uống nước.”
Tô Phong Nghi hỏi: “Hôm nay phát cháo gì thế?”.
“Cháo lạc.”
“Hôm qua thì sao?”
“Bữa nào cũng là cháo lạc. Ở đây lạc rẻ.”
“Huynh ấy không ăn lạc.”
Người kia cảm thấy rất kì lạ: “Trên đời này còn có người không ăn lạc à? Chẳng trách trông vị ấy không còn sức lực, chăm sóc bệnh nhân mệt mỏi như thế, bản thân lại chẳng ăn thì làm sao được?”.
Tô Phong Nghi nghe thế liền cưỡi ngựa quay đầu phi đi, lúc quay lại bên người đã có thêm một cái làn trúc.
Vương Lộc Xuyên luôn lặng lẽ đi bên nàng, mi mày nhăn tít lại, chẳng nói năng gì. Được một lúc, cuối cùng cũng mở miệng: “Muội định vào sao?”.
Tô Phong Nghi gật đầu.
“Muội nhìn thấy cái người trúng tên kia chưa?”
“Thấy rồi.”
Mặt Vương Lộc Xuyên tái đi: “Bên trong rất nguy hiểm, rất có khả năng muội sẽ nhiễm bệnh”.
Tô Phong Nghi đáp: “Muội không sợ”.
Vương Lộc Xuyên trầm mặc nhìn nàng, lầm rầm hỏi: “Muội thích hắn đến thế sao?”.
Tô Phong Nghi cắn môi gật đầu.
Vương Lộc Xuyên đưa tay giữ lấy nàng: “Đưa cái làn cho ta, ta đưa vào giúp muội”.
“Không”, nàng kiên quyết lắc đầu, sau đó ôn hòa nhìn hắn nói: “Bảo trọng nhé, muội đi đây”.
Nói rồi thúc mạnh ngựa, phóng vọt qua đầu mọi người mà phi vào trong.
Ông ta cảm thấy triều đình không coi mình ra gì, quan lại địa phương cũng chẳng coi mình ra sao, chỉ trừ có binh sĩ dưới trướng là không kẻ nào dám không coi ông ra gì.
Vì một câu bộp chộp lỗ mãng mà lão đã đắc tội với tể tướng, bị một đạo thánh chỉ đẩy tới tận miền tây bắc.
Bởi thế lão phải trèo đèo lội suối, vượt Phượng Tường, qua Lan Châu, tới cái xứ chó ăn đá gà ăn sỏi, tây hơn cả phía tây, bắc hơn cả mạn bắc này!
Ông ta lĩnh binh từ kinh thành xuất phát vượt ngàn dặm, còn chưa đi được nửa đường đã lại có một đạo thánh chỉ rót xuống, bắt ông ta thuận đường tiễu trừ thổ phỉ.
Nói là tiễu trừ thổ phỉ nhưng cũng chẳng phải phỉ gì lớn lắm, đã không phải thổ phỉ ở Thái Hành căn cơ thâm hậu, cũng không phải nghĩa quân chấn động triều cương gì, chỉ là mấy cái sơn trại nho nhỏ, một lũ ô hợp, thế mà định bắt đại quân của lão dừng ngang đường, lấy dao mổ trâu đi giết gà?
Trong lời kể sống động như thật của đám quan lại địa phương, sơn phỉ ở Thanh Lĩnh sơn cực kỳ hung hãn, ẩn nấp trong dãy núi hùng vĩ mây mù bao phủ, ra vào xuất quỷ nhập thần. Quan phủ đã bó tay, nhiều lần tiễu trừ mà không làm sao thành được. Đã có lúc một đám nhân mã vào núi, còn chưa dò ra được tung tích của sơn phỉ thì đã đầu một nơi mình một nẻo, hoặc là toàn bộ biệt tích.
Đương nhiên, đối với chuyện này, quan lại địa phương cũng chẳng phải là không cố gắng hết sức. Mười năm trước, bọn họ từng tập kết binh mã đánh giết lên Thanh Lĩnh, đại chiến một trận chín ngày chín đêm với sơn phỉ. Quan quân thương vong trầm trọng, sơn phỉ cũng chết không biết bao nhiêu mà kể. Sau một trận ấy, ai ai cũng cho rằng Thanh Lĩnh sơn từ đây đã trở thành mảnh đất yên bình rồi, để kỷ niệm công lao của mình, quan địa phương còn bỏ một khoản lớn sửa sang quan đạo trong núi, đặt sáu trạm, mỗi trạm đều có quân đồn trú. Con đường bộ thông đông tây bờ nam Trường Giang cuối cùng đã được khôi phục.
Đáng tiếc việc tốt thường không bền. Ba năm sau, Thanh Lĩnh lại thành ổ của cường đạo. Sự hung tàn lang độc so với sơn phỉ năm xưa chỉ hơn không kém. Quân binh đồn trú năm nào cũng giảm, lương thảo thì bị cướp, không sao sống được, binh sĩ được phái đi đều biết chuyến này là công tác một chiều có đi không có về, chẳng ít người dứt khoát vứt giáp lên núi, gia nhập thảo khấu.
Cho nên, Đinh tướng quân cầm quân đánh giặc tới nay cũng xem như thường thắng, nhưng tiễu phỉ lần này thì lại rất không thuận lợi.
Dùng hết mọi thủ đoạn, cuối cùng hắn cũng bắt được kẻ kia.
Mười cái sơn trại trên Thanh Lĩnh là mười nhóm sơn phỉ, mỗi cái đều có thủ lĩnh và cờ hiệu riêng, thường ngày ít khi qua lại, tới mùa làm ăn thì gầm gừ nhau như sói như hùm, chớ có nói gì tới tương trợ. Kẻ hắn muốn bắt lần đầu là lĩnh sơn phỉ ở Thần Thủy trại mạn nam Thanh Lĩnh. Dải đó địa thế cao dốc hiểm trở, sơn cốc thâm sâu, dã thú ẩn hiện, dễ thủ khó công, trong mười trại có tới bốn trại đều đặt sào huyệt của mình ở đây. Vì chỗ này mà các nhóm thổ phỉ đã nhiều lần động can qua với nhau.
Cho dù là gốc gác khác nhau, nhưng đám đầu lĩnh đều là những nhân vật thành danh trong giới lục lâm. Trong số đó, danh tiếng vang dội nhất chính là “Ngân đao Tiểu Sái”.
Tiểu Sái xuất đạo cực sớm, thành danh cũng rất nhanh. Trong mười tám vị đao khách nổi tiếng miền tây bắc, gã là lão đại, hồi trẻ từng dựa vào một thanh loan đao sắc bạc độc bá một phương. Khi đó gã làm ăn theo đường chính đạo, giết mã tặc, hộ thương đoàn, một chuyến trót lọt cũng kiếm được không ít ngân lượng. Dưới tay còn có mười mấy vị huynh đệ cốt cán, ai cũng là tay thiện nghệ. Về sau không biết tại sao lại lưu lạc tới trung nguyên, rồi đi hành nghề thảo khấu, trở thành trại chủ Thần Thủy trại.
Khi ấy Tiểu Sái đã chẳng “tiểu” nữa, tuổi đã hơn bốn chục nhưng hào khí chẳng thua năm xưa.
Tiểu Sái có nguyên tắc của Tiểu Sái.
Tiểu Sái không đi cướp phá làng mạc, cũng không động tới người đi đường hay thương đội nhỏ mà chỉ làm lớn. Thông thường làm một vụ nghỉ một năm.
Hắn chuyên môn cướp bạc trắng trên quan đạo. Quan ngân là mục tiêu chủ yếu, ví dụ như thuế đất, thuế muối, thuế quan áp tải lên kinh thành, gã còn xưng là bản thân làm thế để cướp của người giàu chia cho kẻ bần cùng.
Bách tính đói khổ xung quanh đúng là cũng nhận được từ hắn không ít điều tốt. Những người ăn không no, sống không nổi lũ lượt kéo nhau lên núi, coi Thần Thủy trại là nơi thiên đường.
Thế lực của Thần Thủy trại càng ngày càng lớn, các thủ lĩnh chín trại kia dần dần ngầm thừa nhận địa vị lão đại của hắn. Phàm là thứ Ngân đao Tiểu Sái xem trúng, những kẻ khác thường sẽ không động tâm.
Mặc kệ Ngân đao Tiểu Sái ở vùng tây bắc danh tiếng lừng lẫy một phương, trên Thanh Lĩnh sơn nói một là một, nói hai là hai thì tên hắn cũng tuyệt đối chẳng đủ vang dội tới mức có thể kinh động tới bước tiến của Đinh tướng quân, mà cũng chưa tới mức chuốc lấy cái họa bị diệt tuyệt. Nhưng mà, hắn đã làm một chuyện không nên làm.
Ba tháng trước, triều đình điều động mười tám vạn lượng quân lương từ trong kho của Lưỡng Chiết, sai Bổ Khố đại sứ Vệ Đông Thăng áp tải lên miền tây bắc dùng làm quân phí tu bổ vùng biên cương. Năm chục binh lính theo xe áp tải, dọc đường bình an vô sự. Không ngờ vào tới vùng Thanh Lĩnh, còn chưa qua núi đã bị Ngân đao Tiểu Sái đem người tới cướp sạch. Không những chín chục rương bạc trên chín cỗ xe ngựa bị lấy hết mà cả năm chục vệ binh cho tới chính bản thân Vệ Đông Thăng cũng bỏ mạng đương trường.
Sau khi xảy ra chuyện, quan viên địa phương từng phái quân vào núi, ý đồ muốn đoạt lại mười tám vạn lượng bạc đó, kết quả là bị Thần Thủy trại biết tin, chặn đánh nửa đường, giết cho tơi bời giáp trụ. Không biết làm sao, quan địa phương đành viết một bản tấu gửi về triều đình.
Đinh tướng quân chính vì thế mà nhận được ý chỉ “Thuận đường tiễu trừ thổ phỉ”.
Ông ta phái người tới kiểm tra di vật của Vệ Đông Thăng, phát hiện trên người hắn có một tờ giấy, bên trên viết“Núi này do ta mở, cây này do ta trồng, nếu muốn đi qua đây, phải lưu tiền mãi lộ”, bên dưới vẽ hình loan đao màu bạc.
Giữa tờ giấy còn có một cái lỗ do đao xuyên qua.
Ấn tượng đầu tiên của Đinh tướng quân là, gã Tiểu Sái này quá dung tục. Làm sơn phỉ bao nhiêu năm như thế, cướp được rồi thì cũng nên màu mè ra vẻ một chút, ai ngờ vẫn còn chơi trò cũ rích găm đao lưu thư, lại còn để lại bốn cái câu cổ lỗ ai nghe cũng ghét kia.
“Ài, hai năm trước, Tần tướng quân cũng từng xuất binh tới đây tiễu phỉ một trận, chỉ đáng tiếc cường long bất áp địa đầu xà[1]. Đám sơn phỉ mười trại ấy, ngày thường chẳng có chuyện gì còn xông vào đánh nhau, lần ấy bỗng dưng lại liên kết cùng nhau chống đối”, quan địa phương nhìn sắc mặt, biết ngay ông ta trong lòng buồn bực, không thích thú gì chuyến tiễu phỉ này, bèn cố ý nói.
[1] Cường long bất áp địa đầu xà: Nghĩa là rồng dù mạnh cũng không thể địch nổi bọn rắn địa phương, gần nghĩa với “phép vua còn thua lệ làng”.
Đinh tướng quân nghe thế, biết ngay hắn khích tướng, trong lòng càng thêm bực bội. Ông ta không tin nhất chính là cái câu “Cường long bất áp địa đầu xà” ấy, đấu không lại địa đầu xà chỉ có thể chứng minh con cường long kia không đủ mãnh. Thế nào cũng phải giở mấy chiêu lợi hại cho cái thằng quan nhép đầu hoẵng mắt chuột này mở mắt.
Lần đó tập kích nhanh như sét đánh không kịp bưng tai, ông ta vốn dự đoán sẽ phải khổ chiến một trận, ai ngờ cả quá trình lại dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều so với tưởng tượng.
Trong trường huyết chiến ấy, quan quân của ông ta giết được hơn hai trăm tên, tiêu diệt cả sơn trại. Trong tám mươi lăm người còn lại, trừ mấy tên đầu lĩnh cần phải bắt sống đợi thẩm vấn ra, quá nửa là đàn bà và trẻ nhỏ.
Đinh tướng quân tự mình đem người lên núi, lật tung cả cái Thần Thủy trại lên cũng không tìm thấy quân lương bị mất. Chớ nói tới xe vận tiêu, mà ngay cả một cái rương cũng chẳng thấy.
Tiểu Sái đương nhiên không thừa nhận, Đinh tướng quân có cách của Đinh tướng quân.
Ông ta chẳng nói nhiều, đem cực hình ra chiêu đãi.
Suốt hai ngày nghiêm hình tra khảo, trên người Tiểu Sái đã không còn chỗ nào lành lặn, nhưng gã vẫn nói không biết, thật sự không biết.
Đinh tướng quân nổi cơn thịnh nộ.
Lão lôi đứa con trái sáu tuổi của Tiểu Sái tới trước mặt hắn, đè bàn tay thằng bé lên bàn.
“Nói! Quân lương ở đâu?”
Đôi mắt đỏ lừ của Tiểu Sái cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, nhưng vẫn cứ lắc đầu.
Đinh tướng quân rút yêu đao, vung tay hạ đao. Ánh bạc loang loáng, ngón trỏ của đứa bé đã bắn tung lên không trung, máu tươi bắn lên mặt, lên miệng Tiểu Sái.
“Oa… cha ơi cứu con!!!”, đứa bé đau đớn giãy giụa, kêu khóc thảm thiết.
Gã liếm sạch máu con mình, cúi thấp đầu, toàn thân run bần bật, nhưng vẫn không nói gì.
“Ngươi nhận hay không?”, Đinh tướng quân híp mắt lại, mặt lộ sát khí.
“Tôi… tôi thực không biết!”, giọng Tiểu Sái khàn đi bởi thống khổ, gã quỳ xuống đất, mười ngón tay cào đến máu tươi ứa đầy.
Đao quang lại loáng lên, một ngón tay nữa bị chặt xuống.
Gã không còn dám nhìn mặt con, vội nhắm mắt lại.
Bản thân Đinh tướng quân cũng có mấy đứa con trai, đương nhiên ông ta biết một người cha trong tình cảnh này có cảm giác gì.
“Mọi người nói ngươi là thiết hán. Ta muốn xem xem thiết hán nhà ngươi rốt cuộc cứng rắn đến mức nào!”, hắn cười lạnh.
Tiểu Sái quả nhiên vô cùng cứng đầu, gã vẫn không chịu thừa nhận.
Lúc chặt tới ngón thứ ba, đứa nhỏ đã không còn sức khóc nữa, hai mắt trợn ngược, đau quá mà ngất đi.
Đinh tướng quân vẫn đè tay đứa bé, chẳng mảy may có ý định buông tha cho nó.
“Ngươi có biết cách tốt nhất để cầm máu là gì không?”, lão cười nhạt, chỉ vào bàn tay đầm đìa máu của đứa nhỏ: “Sắt nung. Dùng sắt nung đỏ đốt là máu sẽ ngừng chảy. Người đâu…”.
“Đừng, đừng! Tôi nhận! Tôi nhận! Xin ngày hãy tha cho nó đi!”
Tiểu Sái sắt đá lúc này khuôn mặt đã đẫm lệ, cuối cùng cũng phải mềm ra rồi. Gã nói gã đã nhờ một vị bằng hữu đáng tin đem quân lương giấu ở một chỗ tuyệt mật, đến chính gã cũng chẳng biết là ở đâu. Vị bằng hữu kia lại hành tung bất định, muốn tìm được cần có thời gian.
“Cần bao nhiêu thời gian?”, Đinh tướng quân hỏi.
“Ít nhất là một tháng.”
“Hạn cho ngươi trong vòng mười ngày phải tìm được”, Đinh tướng quân âm trầm nói: “Nếu không, ta xẻ con trai ngươi làm tám mảnh, đem toàn bộ tám mươi lăm người này băm thành tương thịt”.
Lão phế võ công của Tiểu Sái, cấp cho hắn một con ngựa rồi thả hắn ra. Sau đó sai người chuyển lời cho quan địa phương: “Sau mười ngày nữa tới nhận quân lương”.
Quan địa phương mừng ra mặt, tự mình tới cảm ơn, nói tướng quân ngài thật là thần dũng vô địch, nhờ ngài tiện thể đem chín cái trại còn lại quét cho sạch luôn đi.
Đinh tướng quân thầm mắng trong lòng, bổn tướng quân lại do ngươi sai khiến sao? Liền hừ lạnh một tiếng, kiêu căng nói: “Triều đình không có ý chỉ ấy”.
Ai ngờ hai ngày sau có người bảo với ông ta, cái vị Tôn tri phủ này là cháu của Tôn quý phi, ngàn vạn lần không thể đắc tội, đắc tội rồi, nửa đời còn lại của ông ta xác định ở lại luôn tây bắc đi, chớ có mong quay về nữa.
Ông ta hối hận, nhưng lời đã nói ra khó mà thu lại được. Cho nên khi Tôn tri phủ thông báo Sơ An trấn trước mặt xuất hiện ôn dịch, cầu ông ta phái binh “chi viện”, lão không dám cự tuyệt nữa.
“Cái trấn ấy có bao nhiêu người?”, lão hỏi.
“Hơn năm trăm người.”
“Chết mất bao nhiêu rồi?”
“Hơn hai trăm.”
“Hai trăm bao nhiêu?”
“Không rõ.”
“Không rõ?”
“Ôn dịch lan tràn cực nhanh. Có lẽ lúc tôi với ngài đang nói đây lại chết thêm mấy người.”
“Hả?”
“Cái trấn ấy ở không xa phía trước, cách thành Gia Khánh chỉ có hai chục dặm. Tôi đã phái quân lính thắt chặt hai đầu ra vào trấn, người bên ngoài chắc chắn không thể đi vào nhưng người trong ấy, bất luận có nhiễm bệnh hay chưa đều đang tìm cách thoát ra ngoài… Cũng khó trách, trong trấn ấy toàn là nông bộ, bây giờ đã thành một bãi tha ma. Ngoài đường, trong nhà toàn là người chết, không ai dám động vào, cũng không dám chôn. Tôi đây là quan phụ mẫu nhìn mà đau lòng, nhưng cũng không dám mạo hiểm sai người vào lo liệu, chỉ có thể đặt hai cái nồi lớn ở hai đầu, nấu chút thảo dược cho người còn sống, sau đó đều đặn tiếp chút lương gạo với nước sạch.”
“Thảo dược có tác dụng không?”
“Để vỗ an lòng người mà thôi. Lúc đầu tôi có mời một vị đại phu, ai ngờ hắn sống chết gì cũng không chịu vào đó. Tôi dọa hắn mấy câu, hắn bèn nói phải về nhà tra sách nghĩ phương thuốc, tới ngày hôm sau sẽ quay lại. Tôi cũng không chú ý, biết đâu được ngày hôm sau phái người tới tìm hắn, hắn đã đem cả nhà chạy biệt tăm biệt tích rồi.”
“Nói như vậy, hơn hai trăm người còn lại chỉ có thể đợi chết thôi à?”
“Gần như thế… Vào lúc thế này, không thể để bọn họ chạy loạn ra ngoài được. Chẳng may để dịch bệnh lan vào thành thì phiền phức lớn rồi. Ài, đây cũng là vì chẳng có cách gì”, Tôn tri phủ than thở.
“Nếu như có người liều xông ra thì sao?”
“Đây chính là lý do tôi phải mời tướng quân ngài giúp đỡ.”
Ý tứ của câu nói, Tôn tri phủ đã dùng ánh mắt ngầm biểu đạt rõ rồi.
“Ừm, hiểu rồi.”
Làm bậc quan phụ mẫu, vào lúc nguy cấp thế này mà không đích thân tới nơi thị sát tình hình dịch bệnh, an ủi vỗ về dân chúng đã là rất không ổn rồi, nếu lại xử lý quá tuyệt tình, chỉ sợ người người nguyền rủa, cho nên mới phải nhờ tới người ngoài ra mặt làm cứng.
Bởi thế, việc quân lương đang không có manh mối, Đinh tướng quân căn dặn mấy thủ hạ lưu lại đợi Tiểu Sái xong liền đem theo đội ngũ đi tới Sơ An trấn.
“Dù sao thì cũng thuận đường, Đinh tướng quân, khó nhọc ngài đi chuyến này rồi”, tri phủ nửa cười nửa không, rất khách khí ôm quyền vái lão.
Đinh tướng quân có thể nhìn ra chút bỡn cợt trong đó. Với thế lực sau lưng tên tri phủ này, lão chỉ có thể ôm giận vuốt râu, vuốt đứt mấy sợi râu của chính mình.
…
Đi tiệm thuốc bốc thuốc xong, Quách Khuynh Quỳ vội vàng trở về Dụ Long khách điếm.
Cho dù đã có Đường Hành ở đấy với Thẩm Khinh Thiền, hắn vẫn rất không an tâm. Hắn biết nhân mã của Thẩm gia đã tới hết Gia Khánh, bọn họ đang lùng bắt Quách Khuynh Trúc khắp nơi.
Hắn cũng biết, hắn và Thẩm Khinh Thiền đều đang trong sự giám sát của họ.
Còn như người nhà đó rốt cuộc có kế hoạch gì, vì sao tới giờ vẫn chần chừ chưa động thủ, hắn lại chẳng rõ chút nào.
Bầu trời đằng xa mây mù rợp mắt, một trận gió mưa sắp tới.
Trong lòng hắn nghĩ thầm, cái gì nên tới thì để nó tới nhanh một chút đi! Cái gì nên kết thúc cũng để nó nhanh nhanh kết thúc.
Xét cho cùng, cuộc đời này ngoài thù hận, còn những chuyện khác nữa phải làm. Còn rất nhiều, rất nhiều chuyện nữa.
Hắn muốn nói với đại ca suy nghĩ này, nhưng trong lòng hiểu rõ đại ca sẽ không thấu hiểu… Đại ca chỉ sống vì thù hận.
Đúng vào lúc ấy, một bàn tay không biết từ đâu thò ra, giữ lấy chân hắn suýt nữa khiến hắn ngã nhào.
Hắn cúi đầu nhìn xuống, đó là một gã ăn mày lê lết bên vệ đường.
Khuôn mặt người đó chẳng thể coi là mặt, khắp mặt mưng mủ máu me, trông rất đáng sợ.
Cho rằng người này muốn xin ăn, hắn vội rút trong người ra một mẩu bạc.
Người kia giọng khàn khàn, ú ớ hồi lâu mới thốt: “Lưu… Lưu đại hiệp?”.
Lâu lắm rồi hắn không nghe thấy có người gọi mình như thế!
Trong lòng chấn động, hắn nhìn kỹ lại người ăn mày, nhưng nhìn lâu lắm rồi mà vẫn không nhận ra.
“Chúng ta… có quen biết à?”, cuối cùng hắn hỏi.
“Ở tây bắc từng gặp mặt một lần… Tỷ đao đại hội.”
“Thứ cho tôi mắt kém…”
“Tôi là Tiểu Sái”, người kia nói: “Ngân đao Tiểu Sái”.
Quách Khuynh Quỳ giật mình biến sắc. Chỉ cần từng lăn lộn trong giới võ lâm tây bắc, không ai là không biết Ngân đao Tiểu Sái. Nếu như người lăn lộn chốn ấy lại tình cờ cũng luyện đao, thì chắc chắn không thể không nhận ra Ngân đao Tiểu Sái.
Quách Khuynh Quỳ kinh ngạc: “Ngân đao Tiểu Sái, huynh… huynh sao lại tới chỗ này?”.
“Nói ra dài lắm, không nói thì hơn”, người nọ động tác cứng ngắc, rõ ràng đã bị trọng thương, lúc nói chuyện cổ họng khò khè, giống như có đờm tắc lại: “Nể tình chúng ta có quen biết, huynh có thể giúp tôi một chuyện chăng?”.
Quách Khuynh Quỳ từng nghe nghe những truyền thuyết, thần thoại về nhân vật này. Ngân đao Tiểu Sái, lão đại của tây bắc thập bát đao khách, năm xưa là một nhân vật vang dội đến mức nào!
Hắn cúi xuống đỡ Tiểu Sái lên: “Giúp chuyện gì? Nói đi!”
“Tôi… không đi nổi, có thể phiền huynh đưa tôi tới chân núi Thanh Lĩnh không?”
“Yên tâm, huynh định bao giờ thì đi?”
“Bây… bây giờ được không?”
“Được. Hay là tôi đưa huynh tới khách điếm một chuyến? Tôi muốn đưa bằng hữu của mình cùng đi một thể?”, hắn đưa cho một gã bán hàng rong mấy đồng, nhờ hắn giúp gọi một cái kiệu.
“Đa tạ! Thanh Lĩnh sơn cách đây không xa.”
“Tôi biết. Huynh có chuyện gì phải làm ở đó sao?”
“Tôi muốn nhìn mặt con trai… lần cuối.”
Ăn một bữa cơm no, uống hai bát rượu mạnh, tinh thần của Tiểu Sái xem ra đã khôi phục không ít, chí ít thì đã không còn nói năng khàn khàn nữa. Đường Hành cười hỏi: “Mười năm trước, Sái đại ca là một nhân vật hô mưa gọi gió trên đao bảng, khi nào có thời gian rảnh chúng ta hẹn tỷ thí một trận chăng?”.
Chưa dứt lời, Thẩm Khinh Thiền đã đưa chân đạp hắn một cái dưới gầm bàn: “Để Sái đại ca kể cho chúng ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì đã.”
Tiểu Sái liền kể lại chuyện Đinh tướng quân xuất binh hủy diệt tận gốc Thần Thủy trại, trên mặt ba người kia đồng thời lộ vẻ thương xót.
“Gã họ Đinh kia nhất quyết cho rằng tôi đem người cướp mười tám vạn quân lương, thực ra hôm đó bọn tôi vốn không hề xuống núi”, Tiểu Sái nói.
“Nhưng mà rốt cuộc huynh có biết khoản tiền ấy đi qua đây không?”, Đường Hành hỏi.
“Nếu là ngày trước tôi chắc chắn biết. Nhưng lần đó, trong trại bọn tôi có mấy người không biết ăn phải cái gì, trong một đêm mắc phải bệnh lạ, toàn thân trên dưới nổi đầy mụn đỏ. Tiếp đó là sốt cao, lở loét. Mười ngày đầu đã chết mất năm vị huynh đệ. Dần dần người mắc bệnh càng lúc càng nhiều. Tôi vội vàng phái người xuống núi mời đại phu. Đại phu tới cũng không biết là bệnh gì, chỉ nói có lẽ là bệnh ngoài da. Cả tháng ấy tôi đang lo liệu chuyện này… Nếu không phải mọi người đều lâm bệnh, họ Đinh kia há có thể một đêm diệt sạch Thần Thủy trại sao?”, Tiểu Sái nện xuống bàn một quyền căm phẫn nói.
Quách Khuynh Quỳ hỏi: “Liệu có phải người trại khác làm không?”.
Tiểu Sái lắc đầu: “Trừ Thần Thủy trại, trong Thanh Lĩnh sơn chẳng ai có gan động tới đồ quan phủ. Ngay cả bọn tôi cũng phải cân nhắc kỹ được mất mới hạ thủ… Nói cho cùng cũng là số lượng lớn bạc nhà quan, quan phủ truy đến cùng ắt sẽ phái binh đoạt lại. Cướp bạc đương nhiên sảng khoái, nhưng phiền phức phía sau không sao lường hết. Huống chi muốn đem mười tám vạn lượng bạc thần không biết quỷ không hay vận chuyển lên núi tuyệt đối không phải chuyện dễ dàng, ít nhiều gì cũng sẽ bại lộ chút dấu vết”.
Đường Hành nói: “Nói như vậy, trước mắt huynh chẳng có chút đầu mối nào rồi”.
Tiểu Sái nói: “Một chút cũng không. Tôi chỉ đành thừa nhận là chúng tôi cướp, chẳng qua là đã nhờ bằng hữu đem giấu ở chỗ bí mật. Đinh tướng quân mới thả tôi ra, cho tôi mười ngày bắt tôi tìm bạc về”.
Thẩm Khinh Thiền hỏi: “Còn bao nhiêu ngày nữa thì đến hạn chót?”.
“Năm ngày.”
“Huynh xoay được bao nhiêu bạc rồi?”
“Không giấu mọi người, Đinh tướng quân đã chặt ba ngón tay đứa con trai sáu tuổi của tôi, còn tuyên bố sẽ đem tám mươi lăm người đàn bà, trẻ con còn lại băm thành tương thịt. Trong trại vốn còn mấy nghìn lượng bạc vụn sớm đã bị quan binh cướp sạch. Trong cơn tuyệt vọng, tôi bèn xuống núi cướp chi phiếu của một thương nhân, định đến Thiên Thuận tiền trang đổi ít bạc. Ai ngờ trong chi phiếu còn nhiều tiêu ký bảo mật tiền không tới được tay, thiếu chút nữa là bị người ta tóm. Một vị huynh đệ muốn giúp tôi, đêm đó một mình tới tiền trang ấy cướp bạc, bất hạnh bị bảo tiêu một đao chém trúng, bỏ mạng tại chỗ! Ngày hôm sau tôi nghe được tin ấy, muốn đi nhận lại xác”, hắn cười thảm: “Cho nên mới bị đánh thành ra thế này. Không những không xoay được bạc, thiếu chút nữa mạng cũng mất luôn. Mười tám vạn lượng bạc, con số lớn đến thế, muốn cướp cũng không cướp được, bảo tôi đi đâu xoay được đây?”.
Quách Khuynh Quỳ nghĩ một chút rồi nói: “Xem ra trước mắt chỉ còn một cách, chính là lén lút cứu tám mươi lăm người kia ra”.
Tiểu Sái cười khổ: “Ai giúp tôi cứu cơ chứ?”.
Quách Khuynh Quỳ đáp: “Tôi”.
Thẩm Khinh Thiền chỉ vào mũi mình nói: “Còn tôi nữa”.
Đường Hành cũng nói: “Đệ cũng đi”.
Môi Tiểu Sái máy động một lúc, rồi không nói gì, vành mắt đã ươn ướt, hồi lâu mới nói: “Các vị vốn chẳng quen biết tôi, chớ có đi uổng mạng”.
Quách Khuynh Quỳ vỗ vai gã, nói: “Ai nói là bọn ta sẽ uổng mạng? Chúng ta nhất định sẽ sống quay về! Con trai huynh cũng sẽ sống sót trở về!”.
…
Lúc bình minh lặng lẽ tới, Tô Phong Nghi vẫn chưa hề chợp mắt, nàng cứ đi miết về phía trước.
Nàng đã đi trọn một vòng thành Gia Khánh, hỏi thăm tung tích Tử Hân tứ xứ.
Đến chỗ nào, nàng cũng hỏi cùng một câu: “Xin hỏi lão tiên sinh, người có nhìn thấy một vị giang hồ lang trung đầu đội nón rộng vành, tay chống trượng không?”.
Có người nói không thấy, có người nói từng thấy qua.
Lần theo phương hướng vài người chỉ cho nàng, rôt cuộc nàng cũng tới được một ngã rẽ, cứ tới ngã rẽ nàng thường chẳng biết theo đường nào. Sau đó nàng sẽ lại giống như một con ruồi vo ve dò hỏi khắp nơi.
Trước lúc đi, Đường Hành hỏi nàng có cần hắn đi cùng không, Tô Phong Nghi nhảy dựng lên: “Không, không, không, không! Huynh chớ có đi cùng muội!”.
Đường Hành lo lắng nhìn nàng, than thở: “Được rồi, ta không đi với muội. Có điều muội có chịu nghe ta khuyên một câu không?”.
“Nói đi!”
“Gặp được Tử Hân thì đừng giải thích gì cả, cũng chớ có thừa nhận gì.”
“Nhưng mà…”
“Tin ta đi, như thế sẽ tốt cho muội hơn.”
“Được rồi, có điều”, trong mắt nàng nước mắt long lanh: “Muội còn có thể gặp được Tử Hân không? Huynh… huynh ấy vẫn sẽ… vẫn sẽ…”.
Đường Hành chăm chú nhìn nàng, nói: “Huynh ấy sẽ”.
Lúc ra đi tâm tình nàng hoảng loạn, vừa bước khỏi cổng thành, Vương Lộc Xuyên đã đuổi theo đằng sau.
Tô Phong Nghi mặt đầy nước mắt, nói: “Chớ có đi theo muội”.
“Muội bỏ quên cái hũ”, hắn cười, tay nâng nâng cái hũ đồng đen sì sì: “Muội vốn là người tỉ mỉ, sao bây giờ lại biến thành đãng trí thế?”.
Nàng bỏ cái hũ vào bọc vải trên lưng ngựa, nói: “Đa tạ”.
“Muội muốn đi đâu?”
“Huynh hỏi làm gì?”
“Ta đi cùng muội.”
“Đừng đi theo muội.”
“Trời tối rồi, bên ngoài rất loạn, ta không yên tâm”, hắn cười và nói tiếp: “Dù thế nào, hiện muội vẫn là vợ chưa cưới của ta”.
“Đừng đi theo muội! Không được đi theo muội!”, Tô Phong Nghi đột nhiên phát cáu, thét vào mặt hắn: “Không được đi theo muội!”.
“Chớ có nổi cáu lên thế”, hắn chẳng buồn nghe, cứ theo nàng như cũ.
Tô Phong Nghi hỏi thăm người qua đường tung tích của Tử Hân, Vương Lộc Xuyên thì đứng một bên lặng lẽ nhìn. Hỏi thăm xong xuôi, nàng lên đường, hắn liền theo ngay phía sau.
“Hắn là giang hồ lang trung, đi khắp giang hồ, muội làm thế nào tìm được hắn đây?”, thấy Tô Phong Nghi cứ đi mải về phía trước, hắn không nhịn được mà bực bội.
“Không liên quan tới huynh.”
“Sao lại không liên quan tới ta? Muội không tìm được hắn, vậy thì hôn sự của chúng ta có hy vọng rồi”, hắn đưa một bông xuân cúc lên ngậm vào môi, thoải mái nói: “Ta hận hắn chẳng vĩnh viễn biến mất luôn cho xong”.
Tô Phong Nghi ghì cương ngựa, quay sang nhấn từng chữ với hắn: “Chớ có hy vọng. Cho dù Tử Hân vĩnh viễn biến mất, muội cũng sẽ không gả cho huynh. Huynh không cần theo muội, muội sẽ không đổi ý đâu”.
Mặt Vương Lộc Xuyên tái xanh giận dữ: “Vì sao chứ? Trừ việc không cổ quái bằng hắn, huynh có chỗ nào không bằng thằng què ấy?”.
“Muội thích huynh ấy!”, Tô Phong Nghi lớn tiếng: “Muội thích Tử Hân!”.
Vương Lộc Xuyên quả thực muốn lôi nàng xuống ngựa, quăng xuống cống: “Muội thích cái gì ở hắn? Nói huynh nghe xem”.
“Cái gì cũng thích.”
“Thôi đi, cái muội thích chẳng qua là do muội tự mình tưởng tượng ra thôi. Đợi những thứ ấy biến mất hết, muội sẽ chán thôi.”
“Có lẽ huynh nói không sai”, nàng lạnh lùng, nói: “Nhưng muội ở cùng với huynh chính là thiếu thứ đó. Con người huynh không xấu, có điều dung tục không chịu nổi!”.
Vương Lộc Xuyên dừng ngựa, trầm mặt nói: “Từ nhỏ tới lớn ta đều nhường muội, muội càng ngày càng càn rỡ”.
“Ai cần huynh nhường muội? Muội ghét nhất chính là lần nào huynh cũng giả tình giả nghĩa nhường muội!”
Mặt Vương Lộc Xuyên đã tức đến đỏ lựng, đột nhiên túm lấy Tô Phong Nghi lôi xuống ngựa, gào lên: “Im miệng! Con đàn bà đáng chết này!”.
“Huynh xem, lộ nguyên hình rồi nhé!”
“Không sai!”, bàn tay to lớn của hắn nắm lấy cổ nàng, kéo mặt nàng tới sát mặt mình: “Ta quên mất, ta còn chưa hôn tân nương của mình đấy. Muội cố ý chọc ta là vì muội thích bị người khác ức hiếp, đúng không?”.
Nàng ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trong miệng hắn. Lần đầu tiên nàng phát hiện cánh tay người này to lớn đến thế, cứ như hai cái chân gấu. Bàn tay cũng to tựa chiếc quạt. Nàng lật tay tát cho hắn một bạt tay, giận dữ gào lên: “Không được chạm vào tôi! Vương Lộc Xuyên, huynh chớ có nghĩ muốn ép tôi làm cái gì! Huynh dám!”.
Khoảnh khắc ấy, nàng tay đấm chân đạp, thét lên như điên: “Huynh không biết sao? Từ nhỏ tôi đã bị ức hiếp quen rồi, đừng ai nghĩ tới chuyện ức hiếp tôi nữa!”.
Đột nhiên nàng lại nhớ tới cái đêm ấy, dưới ánh nến mờ mờ, bàn tay trắng trẻo thô lỗ, khuôn mặt gã, còn cái câu nói kia nữa:
Rót trà cho ta.
Rót trà cho ta. Rót trà cho ta. Rót trà cho ta…
…
“Này, này, chớ có điên lên được không?”, Vương Lộc Xuyên giữ lấy tay nàng, trên mặt hiện lên nụ cười khổ, khẩu khí hòa dịu lại: “Ai dám ức hiếp muội, huynh đánh chết hắn! Huynh chỉ muốn dọa muội tí thôi. Muội nói xem, huynh từng ức hiếp muội bao giờ chưa? Huynh sao dám chứ?”.
“Thế thì huynh về nhà đi, đi đi! Đi đi! Chớ có đi theo muội nữa!”
“Muội không biết trước khi hửng sáng chính là lúc trời đất tối nhất à? Hiện giờ trăng tỏ gió lớn, chính là lúc giết người phóng hỏa. Ta vẫn phải đi theo muội.”
Nàng không thèm nói lý với hắn, thấy trước mắt có người hái nấm bèn vung roi định đuổi theo hỏi thăm tung tích Tử Hân. Vương Lộc Xuyên chợt gọi nàng lại:
“Vừa rồi ta giúp muội hỏi thăm rồi… Hắn ở Sơ An trấn.”
…
Tiểu trấn cực kì yên tĩnh nhưng đèn đóm sáng trưng.
Tới gần xem, hóa ra chiếu sáng không phải là đèn mà là vô số đuốc. Không biết bao nhiêu quan binh vây chặt một khu đất rộng với nhà cửa xung quanh tới mức một giọt nước cũng chẳng thể lọt qua. Ở chính giữa khu đất đang đốt một đam 1ửa cháy phừng phừng, rất xa mà vẫn nghe thấy tiếng củi cháy lách tách. Không gian nồng nặc mùi khét khiến người ta khó thở.
Thấy bên cạnh có một thôn dân đang thò đầu quan sát, Tô Phong Nghi vội xuống ngựa tả lại hình dáng của Tử Hân. Quả nhiên, thôn dân kia gật đầu nói: “Người cô nương muốn hỏi có phải là Diêu đại phu không?”.
Tô Phong Nghi nghe thế mừng ra mặt: “Đúng rồi, đúng rồi! Đại thúc, người có biết huynh ấy ở đâu không?”.
Thôn dân chỉ vào giữa khu đất: “Vị ấy vào kia rồi… Đinh tướng quân mời đại phu khắp nơi, dọc dải này chỉ có duy một vị đại phu thì sớm đã bỏ chạy rồi. Vừa hay có vị giang hồ lang trung này ngẫu nhiên đi ngang qua, còn chẳng đợi Đinh tướng quân phái người tới mời đã tự mình đi vào. Đúng là một người tốt! Không giấu gì hai vị, từ khi ôn dịch phát tác tới nay, chỉ thấy người bên trong nghĩ cách thoát ra, chứ chưa có ai bên ngoài muốn vào cả”.
Nụ cười đông cứng trên mặt, Tô Phong Nghi kinh sợ hỏi: “Ôn dịch? Ôn dịch gì?”.
“Không rõ nữa. Đã chết hơn ba trăm người rồi. Những người còn lại phân nửa cũng sắp không xong”, thôn dân lắc đầu than thở: “Đều là nông dân thật thà lương thiện, cũng không biết kiếp trước gây ra nghiệp gì mà giờ mắc phải cái họa này…”.
“Đại thúc người có thấy Diêu đại phu đi ra chưa?”
“Cái gì mà đi ra?”
“Đi từ trong đó ra.”
“Cô nương tìm vị Diêu đại phu ấy có chuyện gì?”
“Cháu… cháu là bằng hữu của huynh ấy.”
“Diêu đại phu không thể đi ra đâu.”
Tô Phong Nghi trong lòng lạnh toát, vừa định hỏi tại sao thì chợt nghe trong đám người có tiếng xáo động, bên tai có tiếng tên bay vun vút, kiễng chân lên ngó thì thấy một người mình bận áo vải xanh trúng tên ngã dưới đất, máu chảy lênh láng, trong tay người đó còn nắm cây cuốc, đang chửi bới bằng tiếng địa phương. Hắn liều mạng muốn từ trong khu đất xông ra ngoài, sắp tới được rào chắn bao quanh thì bị binh sĩ thủ vệ bắn ngã. Mắng được một lúc, tiếng người nọ dần dần yếu đi, chân hướng lên trời đau đớn giãy vài cái rồi không cử động gì nữa.
Nước mắt Tô Phong Nghi bất tri bất giác trào ra, nàng đã hiểu tại sao Tử Hân không thể đi ra rồi.
Chân trời vỡ ra mấy chùm nắng.
Vầng dương vẫn đẹp đẽ như xưa.
Bình minh ở Sơ An trấn thì lại khói đen cuồn cuộn, không khí bức bối. Giếng nước khô cạn, mặt đất nứt nẻ, lửa hỏa táng người chết cháy ngày cháy đêm. Mặc kệ Đinh tướng quân đã ra lệnh người còn sống phải mau chóng đem thân nhân đã chết hỏa táng, không ít thôn dân vẫn tin theo tục thổ táng truyền lại từ xưa, thà để người chết trơ trọi giữa đường cũng không muốn ném họ vào lửa. Huống chi người chết toàn là do mắc bệnh, trừ người thân ra, chẳng ai dám động vào.
Dưới mặt trời đầu hè thiêu đốt, thây người biến chất sộc vào mũi không chỉ là mùi khói khét lẹt mà còn cả mùi thây người thối rữa.
Vậy mà lại có một nữ nhân còn sống đang nằm giữa đám thi thể thối rữa đó!
Mọi người nói, nàng tên là A Trân, một trinh nữ trong trấn này, mười lăm tuổi đã bắt đầu ở góa thủ tiết, tới nay hơn ba mươi. Từ khi người trong thôn chết đi quá nửa, nàng đã mất hết thân nhân nhưng bản thân lại không hề mắc bệnh.
Năm năm nay, nàng yên ổn trong phòng của mình, lấy nghề thêu thùa mưu sinh, cựu kỳ ít ra ngoài.
Nàng là một nữ nhân mỹ lệ, thần thái điềm đạm, dung mạo đẹp đẽ, thân hình mảnh khảnh, tuy không tới mức khuynh quốc khuynh thành nhưng cũng xứng để cả thôn lấy thế làm kiêu ngạo. Mọi người bảo vệ nàng như bảo vệ phúc thần của mình. Nhưng, lúc ôn dịch tràn đến, trong thôn hỗn loạn, người chết lia lịa, ai cũng tránh mặt nhau, sống chết mặc bây, thân nhân vứt bỏ thân nhân, bằng hữu chẳng ngó ngàng bằng hữu, nên cũng chẳng ai phiền tới nàng. Nam nhân trẻ tuổi mặc kệ có mắc bệnh hay chưa đều tầm hoan hưởng lạc thâu đêm, bọn họ cuồng hoan, hưởng lạc, tìm nữ nhân, muốn tận hưởng hết thời gian cuối cùng của đời người.
Vào cái ngày trận ôn dịch trầm trọng nhất, A Trân đột nhiên xuất hiện ở giữa khu đất, trước mắt chúng nhân cởi bỏ y phục, trần truồng nằm dưới đất.
Bất kể thôn dân khuyên thế nào, nàng cũng cự tuyệt mặc y phục, thà cứ thế này mà chết đi.
Sương đêm xuống, có người đưa cho nàng một tấm chăn liền bị nàng quẳng ra xa.
Nàng thậm chỉ còn tỏ rõ, nếu có người muốn tìm nàng hưởng lạc, nàng sẽ vui vẻ bồi tiếp. Nàng không ngại mắc bệnh, cũng chẳng sợ chết, càng không thèm để ý tới danh tiết.
Mọi người hỏi nàng rốt cuộc muốn gì, hoặc làm thế cuối cùng là vì cái gì, nàng nói:
“Tôi chẳng muốn gì, cũng chẳng vì cái gì.”
Nàng ngây thơ vô tội như một đứa trẻ, chỉ một ý nghĩ thoáng qua cũng có thể làm tổn thương nàng.
Lúc Tô Phong Nghi nhìn thấy A Trân, nàng đã trong cơn hấp hối. Có nam nhân tìm tới nàng, nàng theo hắn vào phòng mình, cuối cùng, lúc trở ra nàng cũng đã bị lây ôn dịch.
Vết ban đỏ từng nốt, từng nốt lan trên da nàng, ban đầu chỉ ở cổ, ở bụng, dần dần liền thành một mảng, sau đó mưng mủ lở loét.
Giang hồ lang trung kia đưa cho nàng thuốc giảm đau, nàng cự tuyệt uống, cũng từ chối trị bệnh. Sau đó nàng dần dần không nói được nữa, chỉ đưa đôi mắt đăm đăm nhìn vào bầu trời xanh trên đầu.
Nàng giữ tư thế ấy, nằm bất động đợi cái chết.
Phía đông khu đất chỗ lối ra vào có hai nồi lớn. Một nồi nấu cháo, một nồi đun thuốc. Mỗi khi tới giờ ăn, người còn sống từ trong nhà đi ra, Đinh tướng quân sẽ sai người nhân đó đếm người còn sống.
Trong một ngày, đây là lúc duy nhất Tô Phong Nghi có thể nhìn thấy Tử Hân.
“Vị lang trung này thật là lợi hại! Ngày đầu tiên đến, không biết làm thế nào đã thuyết phục được Đinh tướng quân đưa hơn chín chục người chưa mắc bệnh tới tăng xá của Tuệ An tự phía tây thôn. Nói là sau ba ngày sẽ kiểm tra lại một lượt, nếu thân thể những người này vẫn không có ban đỏ thì bọn họ hoàn toàn an toàn, có thể thả ra.. Bây giờ người trong đó đều nói Diêu đại phu là ân nhân cứu mạng của họ, còn nói muốn lập sinh từ[2] cho vị ấy đấy”, thôn dân tán tụng nói.
[2] Lập đền thờ sống để tỏ lòng kính trọng, biết ơn ai đó.
Từ buổi sáng, Tô Phong Nghi nhìn thấy từng thôn dân lần lượt đi ngang qua rào chắn, bưng về một bát đầy cháo loãng. Một mạch tới bữa tối nàng vẫn không thấy Tử Hân. Rào chắn đó và thôn dân ngoài này được ngăn cách bởi mấy hàng binh sĩ, thôn dân mắc bệnh mặt mày tiều tụy, ánh mắt đờ đẫn, Tô Phong Nghi ở bên kia rào chắn hỏi thăm bọn họ, một người trong số đó nói, Diêu đại phu bận chăm sóc người bệnh, không rảnh tới nhận bữa sáng. Cháo của đại phu đều do người khác lấy hộ.
Ngừng một chút, người kia lại hỏi: “Cô nương là bằng hữu của Diêu đại phu?”.
Tô Phong Nghi gật đầu.
“Xin hỏi, Diêu đại phu có phải thần tiên chăng?”
Tô Phong Nghi nói: “Không phải”.
“Sao đại phu rất ít ăn uống?... Đại phu gần như chẳng ăn gì cả, chỉ uống nước.”
Tô Phong Nghi hỏi: “Hôm nay phát cháo gì thế?”.
“Cháo lạc.”
“Hôm qua thì sao?”
“Bữa nào cũng là cháo lạc. Ở đây lạc rẻ.”
“Huynh ấy không ăn lạc.”
Người kia cảm thấy rất kì lạ: “Trên đời này còn có người không ăn lạc à? Chẳng trách trông vị ấy không còn sức lực, chăm sóc bệnh nhân mệt mỏi như thế, bản thân lại chẳng ăn thì làm sao được?”.
Tô Phong Nghi nghe thế liền cưỡi ngựa quay đầu phi đi, lúc quay lại bên người đã có thêm một cái làn trúc.
Vương Lộc Xuyên luôn lặng lẽ đi bên nàng, mi mày nhăn tít lại, chẳng nói năng gì. Được một lúc, cuối cùng cũng mở miệng: “Muội định vào sao?”.
Tô Phong Nghi gật đầu.
“Muội nhìn thấy cái người trúng tên kia chưa?”
“Thấy rồi.”
Mặt Vương Lộc Xuyên tái đi: “Bên trong rất nguy hiểm, rất có khả năng muội sẽ nhiễm bệnh”.
Tô Phong Nghi đáp: “Muội không sợ”.
Vương Lộc Xuyên trầm mặc nhìn nàng, lầm rầm hỏi: “Muội thích hắn đến thế sao?”.
Tô Phong Nghi cắn môi gật đầu.
Vương Lộc Xuyên đưa tay giữ lấy nàng: “Đưa cái làn cho ta, ta đưa vào giúp muội”.
“Không”, nàng kiên quyết lắc đầu, sau đó ôn hòa nhìn hắn nói: “Bảo trọng nhé, muội đi đây”.
Nói rồi thúc mạnh ngựa, phóng vọt qua đầu mọi người mà phi vào trong.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook