Mê Hiệp Ký
-
Quyển 2 - Chương 28
Ánh mắt Đỗ Tử Vi mơ màng, tựa như đã lại đắm mình vào ký ức:
“Lúc ấy, suối nước nóng ở đây nằm trơ trọi sau nhà, vẫn chưa xây phủ lên thành
ra trong nhà như bây giờ. Có một hôm ta lấy quần áo đang định tới đó tắm rửa
thì lại phát hiện ra sớm có một nam nhân không mảnh vải che thân đang ngâm mình
trong đó. Nước màu đỏ tươi cho nên chàng tuy… tuy không mặc đồ nhưng… nhưng
cũng không thấy gì cả. Quần áo của chàng cùng với một đôi nạng để ngay ngắn sau
lưng. Chàng khoan khoái ngâm mình trong nước, ngắm nhìn đỉnh núi phía xa tới xuất
thần, trên tay còn đang cầm một chén rượu, dáng vẻ thoải mái nhàn hạ cứ như
đang ngồi ở vườn sau của nhà mình phơi nắng”.
Hà Y nói: “Nam nhân này hẳn cũng cực kỳ anh tuấn”.
“Trước nay ta chưa từng gặp nam nhân nào anh tuấn đến thế, chỉ mới nhìn chàng một cái, ta đã hồn xiêu phách lạc rồi. Thú vị nhất là, lúc nhìn thấy ta, chàng lại chẳng lấy làm xấu hổ tẹo nào, cũng không có ý định đứng dậy nhường chỗ, đã vậy lại còn chào hỏi ta. Chàng nói: ‘Xin chào! Hoan nghênh tới đây!’, lúc ấy ta bị bộ dạng tùy tiện của chàng chọc tức, ta nói: ‘Đây là suối nước nóng của ta’. Chàng cười bảo: ‘Đây hình như là suối nước nóng thiên nhiên’. Ta đáp: ‘Suối nước nóng thiên nhiên, trên Thiên Sơn này có rất nhiều, nhưng chỉ có một cái này là của ta’. Chàng nói: ‘Xem ra ta tới nhầm chỗ rồi. May mà ta cũng ngâm mình đủ lâu, cũng nên về rồi. Ta đang ở trần, làm phiền cô quay người lại’. Ta tức lắm, lại sợ chàng nhân lúc ta quay người sẽ lén tập kích, bèn nói: ‘Ngươi đẹp đẽ lắm sao? Ta cứ không quay người đấy!’.”
Hà Y nói: “Nếu ta là cô, ta cũng tuyệt đối không xoay người. Thân thể của nam nhân anh tuấn, không phải người nào cũng có may mắn được ngắm nhìn”.
“Chàng cũng chẳng thèm giận, liền chống nạng đứng dậy ngay trước mặt ta! Ta sợ quá vội vàng nhắm mắt lại. Đến lúc mở mắt ra, chàng đã mặc xong một bộ đồ màu xám. Đôi chân của chàng có vẻ như đã tàn phế từ lâu, còn gầy gò yếu ớt hơn cả đôi vai chàng, hơn nữa lại hoàn toàn không thể cử động. Nhưng bộ dạng chàng thì vẫn rất thản nhiên, tựa hồ chẳng cảm thấy buồn cho bản thân chút nào. Chàng còn quay đầu nhìn ta, khẽ cười nói: ‘Nhường chỗ cho cô nương rồi đấy, thong thả dùng nhé. Rượu cũng còn nửa bình, để lại cho cô luôn’, nói xong chàng khẽ chống đầu nạng xuống đất một cái đã nhẹ nhàng lướt vút đi. Ta vốn nghĩ rằng bộ dạng của chàng khi đi lại sẽ cực kỳ khó coi, ngờ đâu thân pháp của chàng quá linh hoạt, lại có vẻ như không tốn sức chút nào, tốc độ cũng cực nhanh, còn nhanh hơn ta đi đường nhiều.”
Hà Y nhẹ nhàng nói: “Khinh công của người ấy nhất định không tồi”, nói xong lại cảm thấy những điều cô ta kể thật quá mức khó tin. Chí ít nàng cũng đã từng thấy dáng vẻ của Mộ Dung Vô Phong khi chàng đi lại. Một người cùng với đôi chân như thế, dù có luyện khinh công gì cũng khó như lên trời.
“Cho nên ta liền gọi với theo lưng chàng, nói: ‘Ngươi nói không sai, suối nước nóng này đúng là của tự nhiên. Lúc nào ngươi tới cũng được’.”
Hà Y bĩu môi cười: “Cô đổi thái độ cũng thật nhanh đấy”.
“Con người đến lúc ấy rồi há còn có thể tiếp tục ngu ngốc sao? Tự nhiên có một nam nhân tốt nhảy tới trước mặt cô như một chú thỏ hoang, nếu cô không lập tức túm lấy nó, thoáng cái là sẽ không thấy nó đâu nữa rồi.”
“Sau này người ấy có quay lại nữa không?”
“Không. Ta ở đấy đợi chàng mười ngày, đến cái bóng của chàng cũng chẳng thấy đâu. Cuối cùng, ta chỉ đành đi tìm chàng khắp núi. Ta đã đặt chân tới tất cả các suối nước nóng ở đây, cả Thiên Trì, Hỏa Long Động cũng tới rồi, nhưng vẫn không gặp chàng. Một tháng sau, một hôm, cuối cùng ta cũng gặp lại chàng trên đỉnh một ngọn núi.”
“Hắn ta ở trên đấy làm gì?”
“Ta không biết. Chàng ngồi trên một phiến đá lớn, nhìn xa xăm tới xuất thần, tâm tình tựa như đang bay tới chân trời khác. Nhưng khi ta lặng lẽ tiến lại gần, chàng lập tức phát hiện ra, quay đầu lại, chỉ vào đỉnh núi ấy nói: ‘Sao nào? Đỉnh núi này cũng là của cô nương à?’, ta bèn tới trò chuyện với chàng vài câu. Ta hỏi chàng là người nơi nào, chàng liền hát cho ta nghe một khúc ca ngắn: ‘Vô phong thủy diện lưu li hoạt, Bất giác thuyền di, Vi động liên y, Kinh khởi sa cầm lược ngạn phi[1]’, nhờ vậy mà ta biết được chàng là người Tây Hồ.”
[1] Khúc dưới bài từ Thái tang tử – Khinh chu đoản trạo Tây Hồ hảo của Âu Dương Tu (1007-1072) , đại ý:
Gió im mặt nước lung linh mượt,
Bất giác thuyền lay,
Sóng gợn miên man,
Kinh động chim bờ hoảng hốt bay.
Đỗ Tử Vi ngâm nga hát lại khúc ca ấy, âm điệu uyển chuyển êm dịu, du dương trầm bổng, nghe rất hay.
Hà Y không nhịn được hỏi: “Đây chỉ là một khúc ca ngắn, làm sao cô biết được người ấy là người Tây Hồ?”.
“Cho nên mới nói, nếu cô không đọc sách, những lúc như thế liền bó tay rồi”, Đỗ Tử Vi có chút đắc ý nói.
Hà Y hỏi: “Người ấy… người ấy tên là gì?”.
“Vô Phong.”
Trong lòng Hà Y chợt xao động, hỏi: “Vô trong hữu vô? Đây cũng là họ sao?”.
Đỗ Tử Vi hơi nhíu mày, nói: “Sao lại là ‘vô trong hữu vô’? Đương nhiên là khẩu thiên – Ngô[2] rồi”.
[2] Chữ Ngô 吴 (họ) và chữ Vô无 (trong Mộ Dung Vô Phong) trong tiếng Trung có âm đọc giống nhau nên lúc đầu Đỗ Tử Vi gọi Ngô Phong, Hà Y và Mộ Dung Vô Phong đều cho rằng cô ta gọi Vô Phong. Chữ Ngô 吴 có tự hình là bộ khẩu口nằm trên chữ thiên 天, cho nên Đỗ Tử Vi tả là “khẩu thiên – Ngô”.
Hà Y hồi hộp, tim đập thình thịch, hỏi: “Người ấy đang ở đâu? Ông ấy còn sống không?”.
Vẻ mặt Đỗ Tử Vi lại lập tức hiện ra thần sắc mơ màng, buồn bã nói: “Ban nãy ta vừa nhìn thấy chàng… chàng bị thương rồi, đang nằm trên giường, ta phải đi chăm sóc chàng”, nói xong định đi vào phòng Mộ Dung Vô Phong.
Hà Y hoảng sợ, biết thần trí cô ta lại trở nên mơ hồ, liền vội vàng ngăn lại, nói: “Người đó… người đó đã đi rồi, xuống núi rồi”.
“Chàng bị thương thành ra như vậy, còn đi đâu được đây?”, Đỗ Tử Vi nhẹ than một tiếng, khuôn mặt toát ra vẻ thương yêu: “Nhất định… nhất định là kẻ khác mang chàng đi rồi. Nói cho ta biết, là ai? Là ai đã mang chàng đi?”.
Hà Y nói: “Là Lục Tiệm Phong. Ông ta mang người ấy tới núi Côn Lôn. Người ấy bị thương rất nặng, cô phải nhanh nhanh mà đuổi theo, nếu không… nếu không…”.
Nàng còn định nói thêm hai chữ “nếu không” một lượt nữa, thân hình Đỗ Tử Vi đã chớp động, thoáng cái không thấy đâu nữa.
Nơi đây là đỉnh Thiên Sơn vốn vắng bóng người, những dấu vết của trận đấu vừa rồi loáng cái đã bị cuồng phong, tuyết đổ quét sạch.
Thoáng chốc, cứ như chưa từng có chuyện gì xảy ra, trời đất lại quay về vẻ yên tĩnh.
Gió thổi càng lúc càng lớn, tuyết lại bắt đầu rơi dày đặc.
Hà Y lội tuyết, trở vào trong nhà, chợt nghe thấy có tiếng ho khẽ vọng tới từ một góc hành lang. Mượn ánh đèn leo lét, nàng lờ mờ có thể nhìn ra một bóng trắng cuộn mình ở một góc khuất gió. Tiếng ho này, nàng đương nhiên rất quen thuộc, chỉ là không dám tin người đang bệnh tới mức không dậy nổi khỏi giường kia lại có thể lê mình bò ra đây.
Đến khi nàng đi tới, quả nhiên phát hiện Mộ Dung Vô Phong cuốn mình trong một lớp áo lông dày ngồi dựa vào tường bên cạnh cửa, rõ ràng chàng đã một mực đợi nàng ở đây.
Hà Y hoảng hốt, vội vàng chạy lại, quỳ xuống hỏi: “Chàng ngồi đây đợi thiếp à?”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, gật đầu.
“Nơi đây quá lạnh!”, nàng kêu lên, áp đôi tay ấm áp của mình sưởi ấm cho khuôn mặt đã lạnh như băng của chàng.
“Ta mặc đủ y phục rồi, với lại, nàng đừng cười, ta bò rất lâu rồi, vừa mới bò ra đây, hiện giờ mình mẩy toàn mồ hôi đấy”, chàng tự trào phúng bản thân: “Nàng có để ý không? Vừa rồi tuyết ngừng rơi một lúc, ánh trăng lại ló dạng. Ngắm trăng trên đỉnh núi tuyết, đây không phải là điều ai cũng có cơ hội gặp qua”.
Tâm tình của chàng đúng là không giống với người khác!
Hà Y không nhịn được bật cười: “Còn không nhanh vào phòng, thời tiết lạnh thế này, không đóng băng chàng mới lạ đấy”.
Chàng nhìn nàng rất lâu mới than một tiếng: “Xin lỗi, mỗi lần xảy ra chuyện, nàng đều phải một mình lo liệu. Ta… không sao giúp được nàng”.
Nói tới đây, đôi mắt chàng cụp xuống, âm điệu có chút thương cảm.
Trong lòng Hà Y chua xót, nước mắt chực trào ra rồi lại miễn cưỡng ngăn lại, cười nói: “Chàng không tin vào võ công của thiếp? Sợ thiếp thua sao?”.
Vừa hỏi, nàng vừa đưa chàng trở lại giường.
Chàng ngả người trên giường nói: “Tới đây, để ta xem vết thương cho nàng”.
Nàng ngoan ngoãn cởi áo cho chàng xem.
“Mụ đàn bà đáng ghét đó!”, nhìn vết roi tựa như trầy da lóc thịt ấy, chàng không nhịn được buột miệng rủa.
Chàng rửa tay rồi nhẹ nhàng dán cao thuốc lên vết thương cho nàng. Tay của chàng chỉ chạm rất nhẹ lên mà Hà Y đã “ai da” kêu toáng.
“Đau lắm hả?”, chàng hoảng hốt hỏi.
“Đương nhiên đau rồi!”, nàng kêu lớn: “Thiếp bị trúng Bắc Minh Thần Công của cô ta đấy!”.
Mộ Dung Vô Phong biết nàng sợ đau, dù chỉ đau có chút thôi là cũng kêu toáng lên rồi, ở sơn thôn ngày trước cũng như thế. Chàng chỉ đành điểm các huyệt giảm đau trên người nàng.
“Cái gì mà Bắc Minh Thần Công? Cô ta lừa nàng đấy. Nàng chẳng qua chỉ bị quất cho một roi mà thôi. Đây là ngoại thương, thoa lên kim sang dược của ta sẽ mau chóng lành lặn trở lại.”
“Sao cơ?! Thật vậy sao? Cô ta dám lừa thiếp! Sao vừa rồi lưng thiếp tê dại vậy?”
“Lưng của nàng bị người ta quất cho một roi, không thấy tê chẳng lẽ lại thấy ngứa?”, chàng cười nói.
“A, Mộ Dung Vô Phong, chàng nghiêm túc chút đi! Làm sao chàng biết thiếp không trúng Bắc Minh Thần Công?”, bị chàng trêu chọc, nàng tức tối hỏi.
“Bởi vì ta là đại phu. Tuy không hiểu lắm về cách thi triển các loại võ công, nhưng việc khi chúng đánh lên người khác sẽ có thương tích như thế nào thì ta có chút nghiên cứu. Còn viết một cuốn sách chuyên nói về việc này nữa.”
“Oa, thiếp biết rồi! Cuốn sách đó gọi là Vân Mộng thương khoa tạp luận, thiếp từng nhìn thấy cuốn ấy trong thư phòng của sư phụ thiếp rồi. Lúc sư phụ thụ thương, mấy vị sư huynh của thiếp suốt ngày lấy cuốn ấy ra để nghiên cứu. Cuốn sách vừa rách vừa cũ, sớm đã bị giở tới nát bươm, xem ra đúng là rất có tác dụng”, nàng ngoảnh lại, cụng đầu vào mặt chàng, nét mặt vui cười nói.
“Hình như nàng đang nịnh ta”, chàng khẽ cười.
“Đâu có, là thiếp đang tự dương dương đắc ý. Nhãn lực của thiếp thật là tốt”, nàng vênh váo nói.
Chàng vỗ vỗ đầu nàng, nói: “Người có nhãn lực tốt, liệu có thể đi pha cho ta chén trà không?”.
Nàng đứng dậy, pha cho chàng một chén trà nóng, hai tay bưng tới, trêu đùa: “Tướng công, mời từ từ thưởng thức”.
“Cảm ơn nhé!”
Nàng thay một bộ y phục khác rồi chui vào trong chăn, nằm sát lại bên chàng, tựa đầu vào lòng chàng.
“Nàng khóa cửa chưa?”
“Rồi. Lần này cho dù là ông Trời mò tới, thiếp cũng không mở cửa đâu”, Hà Y nói.
Ánh nến nhỏ như hạt đậu. Đêm đã rất khuya. Hai người dựa sát vào nhau, vì chuyện vừa xảy ra mà không sao ngủ được.
“Vô Phong, chàng có biết tên của chàng là do ai đặt không?”, Hà Y đột nhiên hỏi.
“Không biết. Lẽ nào không phải do ông ngoại ta đặt?”
“Tình lang của nữ nhân kia tên gọi là Ngô Phong, là khẩu thiên – Ngô, cùng âm đọc với tên của chàng.”
“Trên đời này người cùng tên cùng họ rất nhiều”, chàng nhạt giọng nói.
“Nhưng mà người này… tướng mạo người này với chàng hẳn rất giống nhau, với lại cũng… cũng…”, nàng vốn định nói “cũng là người hai chân tàn phế”, nhưng cuối cùng cảm thấy câu này không thể nói ra được.
“Đấy chỉ là trùng hợp mà thôi”, chàng nhấp một ngụm trà, từ từ nói.
“Liệu có phải chàng còn một vị ca ca?”, nàng đoán mò.
“Hà Y, ngủ đi”, chàng bắt đầu bực mình.
“Nữ nhân kia xem ra cũng chỉ mới hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, tình lang của cô ta lớn tuổi hơn một chút, nếu là ca ca chàng, tuổi tác cũng thích hợp”, nàng không để ý tới thái độ của chàng, vẫn lẩm nhẩm phỏng đoán.
“Cái gì mà hai bảy, hai tám. Người ta đã bốn mươi hai rồi”, chàng trừng mắt nhìn nàng.
“Bốn mươi hai, chàng làm sao biết?”, Hà Y nhướng mày.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta là đại phu, nhìn một cái là biết”.
Hà Y véo tay chàng, hỏi: “Vậy chàng nói xem, thiếp bao nhiêu tuổi?”.
Mộ Dung Vô Phong vội vàng nói: “Không biết”.
“Chàng lừa thiếp?”
“Không hề.”
“Nói đi, thiếp muốn xem chàng nhìn có chuẩn hay không”, Hà Y nói.
“Ta thật sự không biết”, chàng nói.
“Thế thì lạ rồi. Tại sao chàng nhìn người khác lại rõ ràng như thế, còn nhìn thiếp lại không ra?”
“Nàng là trường hợp đặc biệt.”
“Lẽ nào thiếp là quái nhân, xương cốt nhiều hơn người bình thường?”
“Quái nhân thì không phải, chỉ là ta cứ nhìn nàng là liền bị hồ đồ.”
“Chàng thật sự không chịu nói hả?”
“Không biết thì nói sao đây?”, chàng chết cũng không chịu nói.
Hà Y vừa tức vừa buồn cười, nhìn chàng bất lực, tiếp tục nói: “Nói như vậy, người đó rất có khả năng là phụ thân chàng. Ít nhất thiếp cũng biết ông ấy là người Dư Hàng. Quê của chàng, chính là ở Dư Hàng rồi”.
“Việc này nàng lại nghe từ đâu thế?”
“Nữ nhân kia nói, ông ấy thường hát một khúc dân ca, là khúc ‘Vô phong í a thủy diện a, Lưu a í lưu li hoạt… tình tang cái gì đó tình tang, tang tính cái gì đó tình tang…’”, nàng quên béng mất mấy từ phía sau, liền tùy tiện ghép bừa thêm mấy điệu dân ca mà hồi nhỏ trong lúc mãi nghệ ven đường thường hát.
“Ha ha ha…”, Mộ Dung Vô Phong nghe thấy mà cười lăn cười lộn, tí nữa thì lao đầu ngã khỏi giường.
“Chàng cười cái gì. Lúc ấy đúng là cô ta hát thế mà”, Hà Y liền giữ chặt lấy thân thể đang lăn lộn của chàng.
“Nàng còn hát được gì nữa, mau hát thêm mấy bài đi, hay chết đi được”, khó khăn lắm chàng mới nhịn được cười.
“Đúng là hay hả?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thiếp hát cho chàng nghe bài sở trường nhé”, nàng hắng giọng, yểu điệu hát lên:
Túc tích bất sơ đầu
Ty phát bị lưỡng kiên,
Uyển thân lang tất thượng,
Hà xứ bất khả liên.
Triêu đăng lương đài thượng,
Tịch túc lan trì lý,
Thừa nguyệt thái phù dung,
Dạ dạ đắc liên tử.
Uyển băng hậu tam xích,
Tố tuyết phúc thiên lý.
Ngã tâm như tùng bách,
Quân tình phục hà tự.
Đô sáp vô nhân hành,
Mạo hàn vãng tương mịch.
Nhược bất tín nùng thời,
Đãn khan tuyết thượng tích.
Thán lư khước dạ hàn,
Trùng bão tọa điệp nhục.
Dữ lang đôi hoa tháp,
Huyền ca bỉnh lan chúc.
(Đêm xưa chẳng chải đầu,
Tóc buông xõa hai vai.
Dịu dàng gối chân chàng,
Chỗ nào không đáng yêu?
Sớm lên hiên mát ngồi,
Tối về ao lan nghỉ,
Cưỡi trăng hái phù dung,
Tối tối hoa sen nở.
Vực băng dày ba thước,
Tuyết phủ trắng bao la,
Lòng thiếp như tùng bách,
Tình chàng thì thế nào?
Đường trơn chẳng ai bước,
Chẳng quản lạnh tìm nhau.
Nếu không tin lời thiếp,
Trên tuyết dấu còn in.
Lò than trong đêm lạnh,
Ngồi cuộn mình trong chăn.
Giường hoa chàng với thiếp,
Đàn ca dưới nến lan.)
Khúc ca này có mấy chục câu, toàn là lúc nhỏ nàng theo sư phụ mãi nghệ ven đường mà học được. Nàng hát bằng giọng đất Ngô, uyển chuyển mỹ lệ, lại đúng chữ chuẩn nhịp. Chỉ là khi nàng hát bài này, trong sự u oán vốn có lại thêm vào mấy phần nhu mì, vui vẻ. Mộ Dung Vô Phong nghe tới mức trợn mắt há miệng, hồi lâu mới than: “Bài Tử Dạ tứ thời ca[3] này ta mới chỉ đọc qua trong sách. Phối với khúc điệu dễ nghe thế này, hát lên ý vị thật khác hẳn”.
[3] Tử Dạ ca là ca khúc trong Nhạc phủ thời Lục Triều, thuộc phần Ngô ca (ca khúc đất Ngô), tương truyền do một người con gái tên gọi là Tử Dạ tạo ra.
Hà Y nói: “Sư phụ thiếp bảo, đây là Ngô ca. Thiếp vẫn tưởng đây là khúc ca thôn dã, không ngờ trong sách cũng có ghi. Đúng rồi, cái câu ‘Vô phong thủy diện’ rốt cuộc là điển cố nào?”.
“Câu đó nằm trong một khúc từ ngắn, gọi là Thái tang tử. Tổng cộng có mười câu, toàn tả cảnh sắc Tây Hồ”, Mộ Dung Vô Phong nói.
“Cho nên, ông ấy là người Dư hàng phải không?”, Hà Y đoán hỏi.
“Không phải. Đấy không phải là Tây Hồ ở Dư Hàng, mà là Tây Hồ ở Dĩnh Châu. Phong cảnh cũng rất đẹp.”
“Chàng từng tới rồi?”
“Chưa đâu. Chỉ là có thể từ mười câu từ ấy tưởng tượng ra được.”
“Nói như vậy, cuối cùng cũng coi như chàng đã biết được quê gốc của mình ở đâu. Hì hì, vẫn còn hơn thiếp”, nàng tự chạnh lòng về thân thế của mình, không kìm được mà than.
“Quê gốc cái gì? Hai người đó vốn không có liên quan gì với ta. Tất cả những việc ấy chẳng qua chỉ là trùng hợp thôi”, chàng lãnh đạm nói.
“Nhưng mà…”
“Hà Y, ta mệt rồi”, chàng quay đầu sang hướng khác, rúc vào trong chăn, không màng tới nàng nữa.
“Giận rồi à? Thiếp chỉ đoán thôi mà”, nàng vươn tay ôm lấy eo chàng, thì thầm bên tai chàng: “Chàng không thích thì thiếp sẽ không nói nữa”.
Chàng không nói gì.
“Ngày mai chúng ta xuống núi nhé, được không?”, thấy chàng hồi lâu không trả lời, Hà Y không nhịn được lại lay lay chàng.
Chàng vẫn nằm nghiêng một bên, không nói năng gì.
“Vô Phong?”
Nàng liền cầm lấy tay chàng bắt mạch, chàng đã không nói năng nổi nữa, bắt đầu gắng sức hít thở, hai tay níu chặt tấm khăn trải giường.
Hà Y vội đổ thuốc ra bát đưa vào miệng chàng, rồi nhẹ nhàng vuốt ngực cho chàng. Sau một nén hương, hô hấp của chàng cuối cùng đã bình thường trở lại, chàng cũng mê man dần dần chìm vào giấc ngủ.
Hà Y thì bị dọa cho sợ toát hết mồ hôi.
Đêm ấy, nàng lo ngay ngáy mà túc trực bên chàng, chỉ sợ bệnh tim của chàng lại tái phát, một tay bắt mạch cho chàng, cứ cách nửa canh giờ lại tới nghe tiếng tim chàng đập, không dám chợp mắt chút nào.
Hà Y nói: “Nam nhân này hẳn cũng cực kỳ anh tuấn”.
“Trước nay ta chưa từng gặp nam nhân nào anh tuấn đến thế, chỉ mới nhìn chàng một cái, ta đã hồn xiêu phách lạc rồi. Thú vị nhất là, lúc nhìn thấy ta, chàng lại chẳng lấy làm xấu hổ tẹo nào, cũng không có ý định đứng dậy nhường chỗ, đã vậy lại còn chào hỏi ta. Chàng nói: ‘Xin chào! Hoan nghênh tới đây!’, lúc ấy ta bị bộ dạng tùy tiện của chàng chọc tức, ta nói: ‘Đây là suối nước nóng của ta’. Chàng cười bảo: ‘Đây hình như là suối nước nóng thiên nhiên’. Ta đáp: ‘Suối nước nóng thiên nhiên, trên Thiên Sơn này có rất nhiều, nhưng chỉ có một cái này là của ta’. Chàng nói: ‘Xem ra ta tới nhầm chỗ rồi. May mà ta cũng ngâm mình đủ lâu, cũng nên về rồi. Ta đang ở trần, làm phiền cô quay người lại’. Ta tức lắm, lại sợ chàng nhân lúc ta quay người sẽ lén tập kích, bèn nói: ‘Ngươi đẹp đẽ lắm sao? Ta cứ không quay người đấy!’.”
Hà Y nói: “Nếu ta là cô, ta cũng tuyệt đối không xoay người. Thân thể của nam nhân anh tuấn, không phải người nào cũng có may mắn được ngắm nhìn”.
“Chàng cũng chẳng thèm giận, liền chống nạng đứng dậy ngay trước mặt ta! Ta sợ quá vội vàng nhắm mắt lại. Đến lúc mở mắt ra, chàng đã mặc xong một bộ đồ màu xám. Đôi chân của chàng có vẻ như đã tàn phế từ lâu, còn gầy gò yếu ớt hơn cả đôi vai chàng, hơn nữa lại hoàn toàn không thể cử động. Nhưng bộ dạng chàng thì vẫn rất thản nhiên, tựa hồ chẳng cảm thấy buồn cho bản thân chút nào. Chàng còn quay đầu nhìn ta, khẽ cười nói: ‘Nhường chỗ cho cô nương rồi đấy, thong thả dùng nhé. Rượu cũng còn nửa bình, để lại cho cô luôn’, nói xong chàng khẽ chống đầu nạng xuống đất một cái đã nhẹ nhàng lướt vút đi. Ta vốn nghĩ rằng bộ dạng của chàng khi đi lại sẽ cực kỳ khó coi, ngờ đâu thân pháp của chàng quá linh hoạt, lại có vẻ như không tốn sức chút nào, tốc độ cũng cực nhanh, còn nhanh hơn ta đi đường nhiều.”
Hà Y nhẹ nhàng nói: “Khinh công của người ấy nhất định không tồi”, nói xong lại cảm thấy những điều cô ta kể thật quá mức khó tin. Chí ít nàng cũng đã từng thấy dáng vẻ của Mộ Dung Vô Phong khi chàng đi lại. Một người cùng với đôi chân như thế, dù có luyện khinh công gì cũng khó như lên trời.
“Cho nên ta liền gọi với theo lưng chàng, nói: ‘Ngươi nói không sai, suối nước nóng này đúng là của tự nhiên. Lúc nào ngươi tới cũng được’.”
Hà Y bĩu môi cười: “Cô đổi thái độ cũng thật nhanh đấy”.
“Con người đến lúc ấy rồi há còn có thể tiếp tục ngu ngốc sao? Tự nhiên có một nam nhân tốt nhảy tới trước mặt cô như một chú thỏ hoang, nếu cô không lập tức túm lấy nó, thoáng cái là sẽ không thấy nó đâu nữa rồi.”
“Sau này người ấy có quay lại nữa không?”
“Không. Ta ở đấy đợi chàng mười ngày, đến cái bóng của chàng cũng chẳng thấy đâu. Cuối cùng, ta chỉ đành đi tìm chàng khắp núi. Ta đã đặt chân tới tất cả các suối nước nóng ở đây, cả Thiên Trì, Hỏa Long Động cũng tới rồi, nhưng vẫn không gặp chàng. Một tháng sau, một hôm, cuối cùng ta cũng gặp lại chàng trên đỉnh một ngọn núi.”
“Hắn ta ở trên đấy làm gì?”
“Ta không biết. Chàng ngồi trên một phiến đá lớn, nhìn xa xăm tới xuất thần, tâm tình tựa như đang bay tới chân trời khác. Nhưng khi ta lặng lẽ tiến lại gần, chàng lập tức phát hiện ra, quay đầu lại, chỉ vào đỉnh núi ấy nói: ‘Sao nào? Đỉnh núi này cũng là của cô nương à?’, ta bèn tới trò chuyện với chàng vài câu. Ta hỏi chàng là người nơi nào, chàng liền hát cho ta nghe một khúc ca ngắn: ‘Vô phong thủy diện lưu li hoạt, Bất giác thuyền di, Vi động liên y, Kinh khởi sa cầm lược ngạn phi[1]’, nhờ vậy mà ta biết được chàng là người Tây Hồ.”
[1] Khúc dưới bài từ Thái tang tử – Khinh chu đoản trạo Tây Hồ hảo của Âu Dương Tu (1007-1072) , đại ý:
Gió im mặt nước lung linh mượt,
Bất giác thuyền lay,
Sóng gợn miên man,
Kinh động chim bờ hoảng hốt bay.
Đỗ Tử Vi ngâm nga hát lại khúc ca ấy, âm điệu uyển chuyển êm dịu, du dương trầm bổng, nghe rất hay.
Hà Y không nhịn được hỏi: “Đây chỉ là một khúc ca ngắn, làm sao cô biết được người ấy là người Tây Hồ?”.
“Cho nên mới nói, nếu cô không đọc sách, những lúc như thế liền bó tay rồi”, Đỗ Tử Vi có chút đắc ý nói.
Hà Y hỏi: “Người ấy… người ấy tên là gì?”.
“Vô Phong.”
Trong lòng Hà Y chợt xao động, hỏi: “Vô trong hữu vô? Đây cũng là họ sao?”.
Đỗ Tử Vi hơi nhíu mày, nói: “Sao lại là ‘vô trong hữu vô’? Đương nhiên là khẩu thiên – Ngô[2] rồi”.
[2] Chữ Ngô 吴 (họ) và chữ Vô无 (trong Mộ Dung Vô Phong) trong tiếng Trung có âm đọc giống nhau nên lúc đầu Đỗ Tử Vi gọi Ngô Phong, Hà Y và Mộ Dung Vô Phong đều cho rằng cô ta gọi Vô Phong. Chữ Ngô 吴 có tự hình là bộ khẩu口nằm trên chữ thiên 天, cho nên Đỗ Tử Vi tả là “khẩu thiên – Ngô”.
Hà Y hồi hộp, tim đập thình thịch, hỏi: “Người ấy đang ở đâu? Ông ấy còn sống không?”.
Vẻ mặt Đỗ Tử Vi lại lập tức hiện ra thần sắc mơ màng, buồn bã nói: “Ban nãy ta vừa nhìn thấy chàng… chàng bị thương rồi, đang nằm trên giường, ta phải đi chăm sóc chàng”, nói xong định đi vào phòng Mộ Dung Vô Phong.
Hà Y hoảng sợ, biết thần trí cô ta lại trở nên mơ hồ, liền vội vàng ngăn lại, nói: “Người đó… người đó đã đi rồi, xuống núi rồi”.
“Chàng bị thương thành ra như vậy, còn đi đâu được đây?”, Đỗ Tử Vi nhẹ than một tiếng, khuôn mặt toát ra vẻ thương yêu: “Nhất định… nhất định là kẻ khác mang chàng đi rồi. Nói cho ta biết, là ai? Là ai đã mang chàng đi?”.
Hà Y nói: “Là Lục Tiệm Phong. Ông ta mang người ấy tới núi Côn Lôn. Người ấy bị thương rất nặng, cô phải nhanh nhanh mà đuổi theo, nếu không… nếu không…”.
Nàng còn định nói thêm hai chữ “nếu không” một lượt nữa, thân hình Đỗ Tử Vi đã chớp động, thoáng cái không thấy đâu nữa.
Nơi đây là đỉnh Thiên Sơn vốn vắng bóng người, những dấu vết của trận đấu vừa rồi loáng cái đã bị cuồng phong, tuyết đổ quét sạch.
Thoáng chốc, cứ như chưa từng có chuyện gì xảy ra, trời đất lại quay về vẻ yên tĩnh.
Gió thổi càng lúc càng lớn, tuyết lại bắt đầu rơi dày đặc.
Hà Y lội tuyết, trở vào trong nhà, chợt nghe thấy có tiếng ho khẽ vọng tới từ một góc hành lang. Mượn ánh đèn leo lét, nàng lờ mờ có thể nhìn ra một bóng trắng cuộn mình ở một góc khuất gió. Tiếng ho này, nàng đương nhiên rất quen thuộc, chỉ là không dám tin người đang bệnh tới mức không dậy nổi khỏi giường kia lại có thể lê mình bò ra đây.
Đến khi nàng đi tới, quả nhiên phát hiện Mộ Dung Vô Phong cuốn mình trong một lớp áo lông dày ngồi dựa vào tường bên cạnh cửa, rõ ràng chàng đã một mực đợi nàng ở đây.
Hà Y hoảng hốt, vội vàng chạy lại, quỳ xuống hỏi: “Chàng ngồi đây đợi thiếp à?”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, gật đầu.
“Nơi đây quá lạnh!”, nàng kêu lên, áp đôi tay ấm áp của mình sưởi ấm cho khuôn mặt đã lạnh như băng của chàng.
“Ta mặc đủ y phục rồi, với lại, nàng đừng cười, ta bò rất lâu rồi, vừa mới bò ra đây, hiện giờ mình mẩy toàn mồ hôi đấy”, chàng tự trào phúng bản thân: “Nàng có để ý không? Vừa rồi tuyết ngừng rơi một lúc, ánh trăng lại ló dạng. Ngắm trăng trên đỉnh núi tuyết, đây không phải là điều ai cũng có cơ hội gặp qua”.
Tâm tình của chàng đúng là không giống với người khác!
Hà Y không nhịn được bật cười: “Còn không nhanh vào phòng, thời tiết lạnh thế này, không đóng băng chàng mới lạ đấy”.
Chàng nhìn nàng rất lâu mới than một tiếng: “Xin lỗi, mỗi lần xảy ra chuyện, nàng đều phải một mình lo liệu. Ta… không sao giúp được nàng”.
Nói tới đây, đôi mắt chàng cụp xuống, âm điệu có chút thương cảm.
Trong lòng Hà Y chua xót, nước mắt chực trào ra rồi lại miễn cưỡng ngăn lại, cười nói: “Chàng không tin vào võ công của thiếp? Sợ thiếp thua sao?”.
Vừa hỏi, nàng vừa đưa chàng trở lại giường.
Chàng ngả người trên giường nói: “Tới đây, để ta xem vết thương cho nàng”.
Nàng ngoan ngoãn cởi áo cho chàng xem.
“Mụ đàn bà đáng ghét đó!”, nhìn vết roi tựa như trầy da lóc thịt ấy, chàng không nhịn được buột miệng rủa.
Chàng rửa tay rồi nhẹ nhàng dán cao thuốc lên vết thương cho nàng. Tay của chàng chỉ chạm rất nhẹ lên mà Hà Y đã “ai da” kêu toáng.
“Đau lắm hả?”, chàng hoảng hốt hỏi.
“Đương nhiên đau rồi!”, nàng kêu lớn: “Thiếp bị trúng Bắc Minh Thần Công của cô ta đấy!”.
Mộ Dung Vô Phong biết nàng sợ đau, dù chỉ đau có chút thôi là cũng kêu toáng lên rồi, ở sơn thôn ngày trước cũng như thế. Chàng chỉ đành điểm các huyệt giảm đau trên người nàng.
“Cái gì mà Bắc Minh Thần Công? Cô ta lừa nàng đấy. Nàng chẳng qua chỉ bị quất cho một roi mà thôi. Đây là ngoại thương, thoa lên kim sang dược của ta sẽ mau chóng lành lặn trở lại.”
“Sao cơ?! Thật vậy sao? Cô ta dám lừa thiếp! Sao vừa rồi lưng thiếp tê dại vậy?”
“Lưng của nàng bị người ta quất cho một roi, không thấy tê chẳng lẽ lại thấy ngứa?”, chàng cười nói.
“A, Mộ Dung Vô Phong, chàng nghiêm túc chút đi! Làm sao chàng biết thiếp không trúng Bắc Minh Thần Công?”, bị chàng trêu chọc, nàng tức tối hỏi.
“Bởi vì ta là đại phu. Tuy không hiểu lắm về cách thi triển các loại võ công, nhưng việc khi chúng đánh lên người khác sẽ có thương tích như thế nào thì ta có chút nghiên cứu. Còn viết một cuốn sách chuyên nói về việc này nữa.”
“Oa, thiếp biết rồi! Cuốn sách đó gọi là Vân Mộng thương khoa tạp luận, thiếp từng nhìn thấy cuốn ấy trong thư phòng của sư phụ thiếp rồi. Lúc sư phụ thụ thương, mấy vị sư huynh của thiếp suốt ngày lấy cuốn ấy ra để nghiên cứu. Cuốn sách vừa rách vừa cũ, sớm đã bị giở tới nát bươm, xem ra đúng là rất có tác dụng”, nàng ngoảnh lại, cụng đầu vào mặt chàng, nét mặt vui cười nói.
“Hình như nàng đang nịnh ta”, chàng khẽ cười.
“Đâu có, là thiếp đang tự dương dương đắc ý. Nhãn lực của thiếp thật là tốt”, nàng vênh váo nói.
Chàng vỗ vỗ đầu nàng, nói: “Người có nhãn lực tốt, liệu có thể đi pha cho ta chén trà không?”.
Nàng đứng dậy, pha cho chàng một chén trà nóng, hai tay bưng tới, trêu đùa: “Tướng công, mời từ từ thưởng thức”.
“Cảm ơn nhé!”
Nàng thay một bộ y phục khác rồi chui vào trong chăn, nằm sát lại bên chàng, tựa đầu vào lòng chàng.
“Nàng khóa cửa chưa?”
“Rồi. Lần này cho dù là ông Trời mò tới, thiếp cũng không mở cửa đâu”, Hà Y nói.
Ánh nến nhỏ như hạt đậu. Đêm đã rất khuya. Hai người dựa sát vào nhau, vì chuyện vừa xảy ra mà không sao ngủ được.
“Vô Phong, chàng có biết tên của chàng là do ai đặt không?”, Hà Y đột nhiên hỏi.
“Không biết. Lẽ nào không phải do ông ngoại ta đặt?”
“Tình lang của nữ nhân kia tên gọi là Ngô Phong, là khẩu thiên – Ngô, cùng âm đọc với tên của chàng.”
“Trên đời này người cùng tên cùng họ rất nhiều”, chàng nhạt giọng nói.
“Nhưng mà người này… tướng mạo người này với chàng hẳn rất giống nhau, với lại cũng… cũng…”, nàng vốn định nói “cũng là người hai chân tàn phế”, nhưng cuối cùng cảm thấy câu này không thể nói ra được.
“Đấy chỉ là trùng hợp mà thôi”, chàng nhấp một ngụm trà, từ từ nói.
“Liệu có phải chàng còn một vị ca ca?”, nàng đoán mò.
“Hà Y, ngủ đi”, chàng bắt đầu bực mình.
“Nữ nhân kia xem ra cũng chỉ mới hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, tình lang của cô ta lớn tuổi hơn một chút, nếu là ca ca chàng, tuổi tác cũng thích hợp”, nàng không để ý tới thái độ của chàng, vẫn lẩm nhẩm phỏng đoán.
“Cái gì mà hai bảy, hai tám. Người ta đã bốn mươi hai rồi”, chàng trừng mắt nhìn nàng.
“Bốn mươi hai, chàng làm sao biết?”, Hà Y nhướng mày.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta là đại phu, nhìn một cái là biết”.
Hà Y véo tay chàng, hỏi: “Vậy chàng nói xem, thiếp bao nhiêu tuổi?”.
Mộ Dung Vô Phong vội vàng nói: “Không biết”.
“Chàng lừa thiếp?”
“Không hề.”
“Nói đi, thiếp muốn xem chàng nhìn có chuẩn hay không”, Hà Y nói.
“Ta thật sự không biết”, chàng nói.
“Thế thì lạ rồi. Tại sao chàng nhìn người khác lại rõ ràng như thế, còn nhìn thiếp lại không ra?”
“Nàng là trường hợp đặc biệt.”
“Lẽ nào thiếp là quái nhân, xương cốt nhiều hơn người bình thường?”
“Quái nhân thì không phải, chỉ là ta cứ nhìn nàng là liền bị hồ đồ.”
“Chàng thật sự không chịu nói hả?”
“Không biết thì nói sao đây?”, chàng chết cũng không chịu nói.
Hà Y vừa tức vừa buồn cười, nhìn chàng bất lực, tiếp tục nói: “Nói như vậy, người đó rất có khả năng là phụ thân chàng. Ít nhất thiếp cũng biết ông ấy là người Dư Hàng. Quê của chàng, chính là ở Dư Hàng rồi”.
“Việc này nàng lại nghe từ đâu thế?”
“Nữ nhân kia nói, ông ấy thường hát một khúc dân ca, là khúc ‘Vô phong í a thủy diện a, Lưu a í lưu li hoạt… tình tang cái gì đó tình tang, tang tính cái gì đó tình tang…’”, nàng quên béng mất mấy từ phía sau, liền tùy tiện ghép bừa thêm mấy điệu dân ca mà hồi nhỏ trong lúc mãi nghệ ven đường thường hát.
“Ha ha ha…”, Mộ Dung Vô Phong nghe thấy mà cười lăn cười lộn, tí nữa thì lao đầu ngã khỏi giường.
“Chàng cười cái gì. Lúc ấy đúng là cô ta hát thế mà”, Hà Y liền giữ chặt lấy thân thể đang lăn lộn của chàng.
“Nàng còn hát được gì nữa, mau hát thêm mấy bài đi, hay chết đi được”, khó khăn lắm chàng mới nhịn được cười.
“Đúng là hay hả?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thiếp hát cho chàng nghe bài sở trường nhé”, nàng hắng giọng, yểu điệu hát lên:
Túc tích bất sơ đầu
Ty phát bị lưỡng kiên,
Uyển thân lang tất thượng,
Hà xứ bất khả liên.
Triêu đăng lương đài thượng,
Tịch túc lan trì lý,
Thừa nguyệt thái phù dung,
Dạ dạ đắc liên tử.
Uyển băng hậu tam xích,
Tố tuyết phúc thiên lý.
Ngã tâm như tùng bách,
Quân tình phục hà tự.
Đô sáp vô nhân hành,
Mạo hàn vãng tương mịch.
Nhược bất tín nùng thời,
Đãn khan tuyết thượng tích.
Thán lư khước dạ hàn,
Trùng bão tọa điệp nhục.
Dữ lang đôi hoa tháp,
Huyền ca bỉnh lan chúc.
(Đêm xưa chẳng chải đầu,
Tóc buông xõa hai vai.
Dịu dàng gối chân chàng,
Chỗ nào không đáng yêu?
Sớm lên hiên mát ngồi,
Tối về ao lan nghỉ,
Cưỡi trăng hái phù dung,
Tối tối hoa sen nở.
Vực băng dày ba thước,
Tuyết phủ trắng bao la,
Lòng thiếp như tùng bách,
Tình chàng thì thế nào?
Đường trơn chẳng ai bước,
Chẳng quản lạnh tìm nhau.
Nếu không tin lời thiếp,
Trên tuyết dấu còn in.
Lò than trong đêm lạnh,
Ngồi cuộn mình trong chăn.
Giường hoa chàng với thiếp,
Đàn ca dưới nến lan.)
Khúc ca này có mấy chục câu, toàn là lúc nhỏ nàng theo sư phụ mãi nghệ ven đường mà học được. Nàng hát bằng giọng đất Ngô, uyển chuyển mỹ lệ, lại đúng chữ chuẩn nhịp. Chỉ là khi nàng hát bài này, trong sự u oán vốn có lại thêm vào mấy phần nhu mì, vui vẻ. Mộ Dung Vô Phong nghe tới mức trợn mắt há miệng, hồi lâu mới than: “Bài Tử Dạ tứ thời ca[3] này ta mới chỉ đọc qua trong sách. Phối với khúc điệu dễ nghe thế này, hát lên ý vị thật khác hẳn”.
[3] Tử Dạ ca là ca khúc trong Nhạc phủ thời Lục Triều, thuộc phần Ngô ca (ca khúc đất Ngô), tương truyền do một người con gái tên gọi là Tử Dạ tạo ra.
Hà Y nói: “Sư phụ thiếp bảo, đây là Ngô ca. Thiếp vẫn tưởng đây là khúc ca thôn dã, không ngờ trong sách cũng có ghi. Đúng rồi, cái câu ‘Vô phong thủy diện’ rốt cuộc là điển cố nào?”.
“Câu đó nằm trong một khúc từ ngắn, gọi là Thái tang tử. Tổng cộng có mười câu, toàn tả cảnh sắc Tây Hồ”, Mộ Dung Vô Phong nói.
“Cho nên, ông ấy là người Dư hàng phải không?”, Hà Y đoán hỏi.
“Không phải. Đấy không phải là Tây Hồ ở Dư Hàng, mà là Tây Hồ ở Dĩnh Châu. Phong cảnh cũng rất đẹp.”
“Chàng từng tới rồi?”
“Chưa đâu. Chỉ là có thể từ mười câu từ ấy tưởng tượng ra được.”
“Nói như vậy, cuối cùng cũng coi như chàng đã biết được quê gốc của mình ở đâu. Hì hì, vẫn còn hơn thiếp”, nàng tự chạnh lòng về thân thế của mình, không kìm được mà than.
“Quê gốc cái gì? Hai người đó vốn không có liên quan gì với ta. Tất cả những việc ấy chẳng qua chỉ là trùng hợp thôi”, chàng lãnh đạm nói.
“Nhưng mà…”
“Hà Y, ta mệt rồi”, chàng quay đầu sang hướng khác, rúc vào trong chăn, không màng tới nàng nữa.
“Giận rồi à? Thiếp chỉ đoán thôi mà”, nàng vươn tay ôm lấy eo chàng, thì thầm bên tai chàng: “Chàng không thích thì thiếp sẽ không nói nữa”.
Chàng không nói gì.
“Ngày mai chúng ta xuống núi nhé, được không?”, thấy chàng hồi lâu không trả lời, Hà Y không nhịn được lại lay lay chàng.
Chàng vẫn nằm nghiêng một bên, không nói năng gì.
“Vô Phong?”
Nàng liền cầm lấy tay chàng bắt mạch, chàng đã không nói năng nổi nữa, bắt đầu gắng sức hít thở, hai tay níu chặt tấm khăn trải giường.
Hà Y vội đổ thuốc ra bát đưa vào miệng chàng, rồi nhẹ nhàng vuốt ngực cho chàng. Sau một nén hương, hô hấp của chàng cuối cùng đã bình thường trở lại, chàng cũng mê man dần dần chìm vào giấc ngủ.
Hà Y thì bị dọa cho sợ toát hết mồ hôi.
Đêm ấy, nàng lo ngay ngáy mà túc trực bên chàng, chỉ sợ bệnh tim của chàng lại tái phát, một tay bắt mạch cho chàng, cứ cách nửa canh giờ lại tới nghe tiếng tim chàng đập, không dám chợp mắt chút nào.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook