Mê Hành Ký
-
Chương 8: Độc chứng chi mê
Nắng thu lười biếng chiếu vào.
Trên thư án cạnh cửa sổ có đặt một chậu hải đường đương nở rộ. Sắc tím của cánh hoa bao quyện sắc vàng nhạt của nhụy, phảng phất như một bầy bướm rập rờn. Có mấy bông rụng trên những chiếc lá lông tơ xanh mướt.
Chàng nhặt từng bông từng bông đã khô vàng tới gần như trong suốt lên, chôn xuống đất.
Vì bản thảo sách sắp hoàn thành này, chàng chuyên tâm ở trong thư phòng viết lách gần hai canh giờ, thấy có chút mệt mỏi cho nên mới buông bút, thu dọn những cánh hoa tàn trên bàn.
Mùa đông dai dẳng còn chưa bắt đầu nhưng chàng thường cảm thấy một nỗi buồn bực khó nói.
Điều chỉnh lại tâm tình đang hỗn loạn, chàng định tâm, nhấc bút, tiếp tục viết:
“Chướng khí, là khí độc núi non tích tụ. Lúc mùa xuân mùa hạ giao nhau thường lúc nóng lúc lạnh. Thứ khí ấy chợt nồng, chợt nhạt. Nếu không biết điều chỉnh áo quần đúng lúc thì dễ mắc cảm mạo. Những người mắc bệnh ở vùng này thì không biết, kẻ hành y lại không có sách mà tra… Chướng khí tuy là địa khí của núi sông, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện, nhưng cũng là thừa lúc con người thân thể yếu nhược mới có thể nhiễm bệnh… Mạch chướng, nếu hư thì to mà rỗng, nếu thực thì căng mà gấp… Lâu thì sẽ đổi, nhưng cũng là coi vô lực là hư, hữu lực là thực vậy”.
Nàng ở bên cạnh yên lặng bận bận rộn rộn.
Nhìn tấm lưng nàng, chàng lại cảm thấy áy náy, ngừng bút lại, dịu dàng nói: “Hà Y, đừng ở trong phòng cả ngày nữa, ra ngoài đi. Không phải hôm qua Tần cô nương tới tìm nàng sao?”
“Thiếp chẳng muốn đi đâu cả, chỉ thích ở đây bồi tiếp chàng”.
Chàng cười khổ.
Hà Y thò đầu tới, xem chữ chàng viết: “Chướng khí?... Là loại độc khí trong núi đó sao?”
“Đúng rồi”.
“Vậy thiếp muốn nghe xem, trên núi chỗ chúng ta có không?”
“Không có”.
“Ở đâu có?”
“Chướng khí có rất nhiều loại. Có Thử Thấp chướng, Độc Thủy chướng, Hoàng Mao chướng, Khổng Tước chướng, Quế Hoa chướng, Khưu Dẫn chướng, Nhiêm Xà chướng… Nàng hỏi loại nào?”
“Có nhiều loại thế cơ à? Loại nào là độc nhất?”
“Thế thì là Nhiêm Xà[1] chướng rồi. Mùa thu, trăn thường giao phối, lúc đó có một loại khí dơ bám đầy cây cỏ, rồi thuận thế ngấm xuống. Nếu người mà trúng độc này, ngực bụng trương đau dị thường, người thân thể yếu ớt thì không đến hai canh giờ là tử vong. Người thân thể tráng kiện cũng chỉ cầm cự không tới một ngày”.
[1] Nhiêm xà tức là trăn.
“Có cách cứu không?”
“Loại độc này đến cũng nhanh mà đi cũng chóng. Chạy khỏi rừng rậm, đến một nơi rộng rãi thoáng mát, độc tính lập tức thuyên giảm. Kịp thời uống đúng thuốc thì sẽ không việc gì cả”.
“Nói cho thiếp, loại chướng khí ấy có ở nơi nào, có chết thiếp cũng không tới đó đâu”, Hà Y thè lưỡi nói.
Mộ Dung Vô Phong bật cười, nói: “Nàng từng tới đó rồi”.
“Thiếp từng đi qua rồi?”, nàng sững người.
“Ngọn núi lớn phía sau Đường môn có loại chướng khí này, may mà nàng đi lúc ấy là mùa đông”.
“Sao người của Đường môn chẳng sao cả?”
“Loại chướng khí này không phải là năm nào cũng phát tác, với lại, Đường gia bảo nằm ở mặt nam của núi, đó là một khoảng đất rộng rãi thoáng đạt, hướng gió thường là thổi ngược về bắc nên không chịu ảnh hưởng lớn lắm. Huống chi bọn họ đã sớm có biện pháp phòng ngừa. Trong Đường môn có không ít đại phu cao minh”.
… Hà Y gật đầu, nhớ tới Tiết Văn.
Mộ Dung Vô Phong còn định nói thêm gì đó, Triệu Khiêm Hòa đã gõ cửa rồi tiến vào.
“Có việc gì vậy?”, chàng hỏi.
Triệu Khiêm Hòa ngập ngừng một lúc, nói: “Ngô đại phu và Trần đại phu mất tích rồi. Tạ tổng quản đoán, có lẽ bọn họ đã bị người của Đường môn bắt đi”.
Sắc mặt của Mộ Dung Vô Phong khẽ biến, hỏi: “Tạ tổng quản đang ở đâu?”
“Ông ấy đã phái người đi truy tìm bốn phía, có điều vẫn muốn hỏi một việc, liệu phu nhân có biết người của Đường môn có thể trốn ở nơi nào không”.
Mộ Dung Vô Phong thoáng nghĩ rồi nói: “Ta nhớ lần trước ông có nói, ở Thần Nông trấn Đường môn có hai sản nghiệp, tiếng là treo bảng hiệu quán rượu nhưng dùng thì toàn bộ là gia nhân của Đường môn”.
Lần trước Hà Y giết Đường Đại, tìm đến chính là một tửu quán tên là “Ngộ Tiên lầu” trong số đó.
“Không dám giấu cốc chủ, Ngộ Tiên lầu hôm qua đã đổi chủ rồi, người làm thuê từ trong ra ngoài đều đã đổi cả, trước mắt để Ông lão bản thay mặt quản lý. Để đảm bảo an toàn trong cốc, thủ đoạn của bọn thuộc hạ có hơi cứng rắn một chút”.
“Vẫn còn một nơi nữa, không phải sao?”
“Chỗ đó là ‘Tuyên Hoài lâu’, lão bản tuy là người của Đường môn, nhưng sản nghiệp lại treo tên của tri châu đại nhân. Chúng ta không thể mạo muội xông vào tìm người”.
“Lúc này rồi mà vẫn không mạo muội, vậy phải đợi tới lúc nào mới mạo muội?”, trong lòng chàng lo lắng, không nhịn được mà ho dữ dội một trận.
Triệu Khiêm Hòa đáp: “Vâng. Bọn thuộc hạ từng tìm người hóa trang thành thực khách từ ngoài tới, trà trộn vào kiểm tra mọi ngóc ngách một lượt. Tửu điếm đó không lớn, bên trong cũng chẳng có tới một nhân vật khả nghi”.
Hà Y hỏi: “Trong cốc đã điều đi rất nhiều người à?”
Triệu Khiêm Hòa gật đầu: “Đã cử đi non nửa, nửa kia ở lại thủ vệ. Cố Thập Tam, Sơn Thủy, Biểu Đệ, còn cả huynh đệ họ Diệp đều đi rồi”, ông ta ngừng một chút rồi nói tiếp: “Hai vị đại phu không phải mất tích trong cốc. Hôm nay trong trấn có y hội, trong cốc có không ít đại phu cũng tới tham dự. Ngô đại phu vốn không đi, không biết vì cớ gì sớm hôm nay lại theo xe Trần đại phu rời cốc… Bọn họ chính là bị bắt dọc đường”.
Trần Sách là học trò đầu tiên của Mộ Dung Vô Phong, chủ trì mọi y vụ ngoài cốc, chuyên về nội khoa và chấn thương. Ông ta vẫn thường rời cốc tới các y quán trong trấn thăm khám.
Hà Y nói: “Tối qua lúc tôi đi đón Ngô đại phu, cô ấy đang ở trong tay Đường Tiềm. Nếu không phải giữa đường có một đám động chủ của Ngũ Độc giáo đuổi giết tới, chỉ sợ Ngô đại phu đã sớm bị bắt tới Đường môn”.
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày hỏi: “Sao tối qua nàng không nói cho ta?”
“Thiếp đã cứu cô ấy về rồi, cho rằng cô ấy sẽ không có chuyện gì nữa”, không đợi chàng tiếp lời, nàng nói tiếp: “Chàng đừng lo, không phải vừa rồi chàng bảo thiếp ra ngoài chơi sao? Giờ thiếp đi đây”.
“Đợi đã!”, chàng định kéo nàng lại nhưng đã chậm mất, đành trơ mắt nhìn bóng áo nàng phiêu động, lướt ra ngoài cửa.
Triệu Khiêm Hòa cũng theo bước lui ra ngoài.
Một lúc sau, ngoài cửa vọng vào mấy tiếng ho, Triệu Khiêm Hòa đột nhiên quay lại.
“Còn có việc gì nữa?”, Mộ Dung Vô Phong ngả người vào lưng ghế, hỏi: “Sao gần đây mọi người đều ốm cả rồi, đến ông cũng ho sao?”
Triệu Khiêm Hòa nói: “Cốc chủ nói gì vậy? Thân già này sao bệnh được? Chẳng qua thời tiết này quả thật hơi lạnh, vừa ẩm vừa lạnh, thuộc hạ không khỏi mắc chứng ho mà thôi”.
“Vụ làm ăn với Tưởng gia hôm trước ở Thính Phong lâu đã đàm phán ổn chưa?”
“Ổn thỏa rồi, nói cái là được”.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nhìn ông ta thăm dò, đột nhiên nói: “Trước giờ vốn chẳng có cái gì là Tưởng gia, rốt cục các hạ là ai?”
Triệu Khiêm Hòa cười ha ha, thanh âm chợt biến thành cực kỳ chói tai: “Ai ai cũng nói thần y Mộ Dung là thiên tài, hôm nay quả nhiên ta đã được thấy!”, người này kéo mặt nạt xuống, lộ ra một khuôn mặt tròn tròn trắng trẻo với cặp mắt nhỏ lanh lợi, nói: “Tiểu đệ họ Đường, tên chỉ có một chữ ‘Dung’, nếu như ngài không nhớ nổi, thì cũng có thể gọi là Đường Thập Cửu”.
Người của Đường gia quá nhiều, cả gia tộc có tới mấy trăm người, chẳng ai có thể nhớ đủ hết tên từng người. Nhưng mấy chục người thường lộ diện trên giang hồ thì mọi người đều biết tên hết.
Mộ Dung Vô Phong thường được nghe Hà Y kể các câu chuyện trong giang hồ, nhớ tới một nhân vật “Thiên biến thần quân” Phạm Thạch Tông. Hà Y nói, người này từng bằng một bộ “Vô hình thần chưởng” mà độc bộ thiên hạ, cuối đời có thu nhận một con em Đường môn làm cao đồ, có được hết chân truyền của ông ta.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đường công tử muốn tới Vân Mộng cốc, báo một tiếng ở cửa lớn là được, cần gì phải lao tâm khổ tứ như thế?”
Thái độ chàng lạnh nhạt bình ổn, không chút biến sắc.
Đường Dung quét mắt qua thư án của chàng, nói: “Nghe bảo gần đây cốc chủ lại muốn viết một cuốn sách làm khó Đường gia, công bố một số lượng lớn công thức mật chế độc dược của Đường môn. Tên cuốn sách là…”, hắn đưa tay với một tập bản thảo, giở trang đầu, “Gọi là Vân Mộng nghiệm án thuyết tục biên chi độc chứng chi mê. Cái tên này thật dễ nghe, tiếc là hơi dài. Ta lấy về đọc trước cho vui, đuợc không?”
Miệng hắn thì rất khách khí nhưng không hề do dự đem tất cả bản thảo cuộn thành một bó, cất vào trong lòng.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nhìn hắn, nói: “Thì ra người của Đường môn cũng làm được những loại việc trộm cướp khiến người ta khinh bỉ”.
“Nếu không phải bởi cốc chủ cứ luôn đối đầu với Đường môn, khiến cho bọn ta gần như sụp đổ. Bọn ta cũng không đến nỗi sa đọa tới mức này”.
“Ngươi muốn như thế nào?”
“Chẳng muốn thế nào cả. Bây giờ bất kể ta đối phó với ngài như thế nào, đều có chút bất nhẫn trong lòng. Hay là cứ cho ngài một cái chết thống khoái có thể diện thì tốt hơn”.
Nói xong, hắn đột nhiên giơ tay siết chặt lấy cổ Mộ Dung Vô Phong.
Dưới bàn tay to lớn cứng như thép của Đường Dung, khuôn mặt chàng bắt đầu đỏ lên, kế đó thì chuyển sang tím, thân thể chàng đã cực kỳ yếu ớt, đến một chút sức phản kháng giãy giụa cũng không có. Rõ ràng Đường Dung có thể dễ dàng bẻ gãy cổ Mộ Dung Vô Phong nhưng hắn lại muốn xem cảnh người này co giật kịch liệt mà chết trong tay mình… Tuy hắn xếp thứ mười chín, nhưng Đường Ngũ vừa mới chết đi chính là anh ruột hắn.
Chính lúc ấy, sau lưng hắn chợt vang lên tiếng kiếm khí xé gió đâm tới. Mộ Dung Vô Phong đang ngồi, hắn đang đứng, nhát kiếm kia nhắm thẳng vào huyệt Thái Dương của hắn.
Đường Dung buông tay, rút từ eo một cây tam tiết côn, “choang” một tiếng, gạt thanh kiếm kia ra.
Quay đầu lại nhìn, trước ngực tấm áo xám của mình đã bị kiếm rạch một đường lớn, bản thảo rơi xuống đất hơn nửa.
Thanh kiếm kia đơn giản là không cho hắn thời gian nghĩ ngợi, nhanh như điện chớp gió giật cuốn tới, ép hắn lùi tới cửa sổ.
Đường Dung tung cước đạp mở nắp lò sưởi đồng, đem số bản thảo còn lại quăng vào trong lò.
Đây là loại giấy thượng hảo hạng, cực nhẹ cực mỏng, gặp lửa lập tức bùng cháy! Người áo tím thấy thế thì cực kỳ giận dữ, ào ạt tung mấy kiếm, gạt ra một đám giấy chưa kịp cháy, kiếm pháp càng lúc càng ngoan độc, chiêu chiêu đòi mạng, lộ rõ ý đồ liều mạng với hắn.
Đường Dung không biết làm sao, chỉ đành cướp đường trốn ra ngoài cửa sổ. Khinh công hắn cực giỏi, nhẹ nhàng nhảy lên mái phòng rồi thoắt cái đã không thấy đâu nữa.
Hà Y chẳng có lòng dạ đánh tiếp bèn quăng kiếm, đỡ Mộ Dung Vô Phong đang ngã dưới đất về giường, xoa bóp hồi lâu chàng mới mệt mỏi tỉnh lại.
“Sách của ta…”
“Bị hắn đốt mất một ít, đại khái là khoảng hai chục trang… chàng đừng lo”, thấy sắc mặt chàng vẫn tím tái như trước, nàng bèn đỡ chàng dậy để chàng tựa vào người mình.
“Hai chục trang… cũng không tính là quá nhiều. Ta vẫn nhớ lại được”, sắc mặt chàng rất đáng sợ nhưng đã gượng muốn ngồi dậy, “Nhân bây giờ vẫn còn nhớ được, ta phải lập tức viết bù mấy trang đó”.
“Trí nhớ của chàng trước giờ cực tốt”, nàng nhẹ nhàng giữ chàng lại: “Chớ nói nhiều nữa”.
Trên thư án cạnh cửa sổ có đặt một chậu hải đường đương nở rộ. Sắc tím của cánh hoa bao quyện sắc vàng nhạt của nhụy, phảng phất như một bầy bướm rập rờn. Có mấy bông rụng trên những chiếc lá lông tơ xanh mướt.
Chàng nhặt từng bông từng bông đã khô vàng tới gần như trong suốt lên, chôn xuống đất.
Vì bản thảo sách sắp hoàn thành này, chàng chuyên tâm ở trong thư phòng viết lách gần hai canh giờ, thấy có chút mệt mỏi cho nên mới buông bút, thu dọn những cánh hoa tàn trên bàn.
Mùa đông dai dẳng còn chưa bắt đầu nhưng chàng thường cảm thấy một nỗi buồn bực khó nói.
Điều chỉnh lại tâm tình đang hỗn loạn, chàng định tâm, nhấc bút, tiếp tục viết:
“Chướng khí, là khí độc núi non tích tụ. Lúc mùa xuân mùa hạ giao nhau thường lúc nóng lúc lạnh. Thứ khí ấy chợt nồng, chợt nhạt. Nếu không biết điều chỉnh áo quần đúng lúc thì dễ mắc cảm mạo. Những người mắc bệnh ở vùng này thì không biết, kẻ hành y lại không có sách mà tra… Chướng khí tuy là địa khí của núi sông, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện, nhưng cũng là thừa lúc con người thân thể yếu nhược mới có thể nhiễm bệnh… Mạch chướng, nếu hư thì to mà rỗng, nếu thực thì căng mà gấp… Lâu thì sẽ đổi, nhưng cũng là coi vô lực là hư, hữu lực là thực vậy”.
Nàng ở bên cạnh yên lặng bận bận rộn rộn.
Nhìn tấm lưng nàng, chàng lại cảm thấy áy náy, ngừng bút lại, dịu dàng nói: “Hà Y, đừng ở trong phòng cả ngày nữa, ra ngoài đi. Không phải hôm qua Tần cô nương tới tìm nàng sao?”
“Thiếp chẳng muốn đi đâu cả, chỉ thích ở đây bồi tiếp chàng”.
Chàng cười khổ.
Hà Y thò đầu tới, xem chữ chàng viết: “Chướng khí?... Là loại độc khí trong núi đó sao?”
“Đúng rồi”.
“Vậy thiếp muốn nghe xem, trên núi chỗ chúng ta có không?”
“Không có”.
“Ở đâu có?”
“Chướng khí có rất nhiều loại. Có Thử Thấp chướng, Độc Thủy chướng, Hoàng Mao chướng, Khổng Tước chướng, Quế Hoa chướng, Khưu Dẫn chướng, Nhiêm Xà chướng… Nàng hỏi loại nào?”
“Có nhiều loại thế cơ à? Loại nào là độc nhất?”
“Thế thì là Nhiêm Xà[1] chướng rồi. Mùa thu, trăn thường giao phối, lúc đó có một loại khí dơ bám đầy cây cỏ, rồi thuận thế ngấm xuống. Nếu người mà trúng độc này, ngực bụng trương đau dị thường, người thân thể yếu ớt thì không đến hai canh giờ là tử vong. Người thân thể tráng kiện cũng chỉ cầm cự không tới một ngày”.
[1] Nhiêm xà tức là trăn.
“Có cách cứu không?”
“Loại độc này đến cũng nhanh mà đi cũng chóng. Chạy khỏi rừng rậm, đến một nơi rộng rãi thoáng mát, độc tính lập tức thuyên giảm. Kịp thời uống đúng thuốc thì sẽ không việc gì cả”.
“Nói cho thiếp, loại chướng khí ấy có ở nơi nào, có chết thiếp cũng không tới đó đâu”, Hà Y thè lưỡi nói.
Mộ Dung Vô Phong bật cười, nói: “Nàng từng tới đó rồi”.
“Thiếp từng đi qua rồi?”, nàng sững người.
“Ngọn núi lớn phía sau Đường môn có loại chướng khí này, may mà nàng đi lúc ấy là mùa đông”.
“Sao người của Đường môn chẳng sao cả?”
“Loại chướng khí này không phải là năm nào cũng phát tác, với lại, Đường gia bảo nằm ở mặt nam của núi, đó là một khoảng đất rộng rãi thoáng đạt, hướng gió thường là thổi ngược về bắc nên không chịu ảnh hưởng lớn lắm. Huống chi bọn họ đã sớm có biện pháp phòng ngừa. Trong Đường môn có không ít đại phu cao minh”.
… Hà Y gật đầu, nhớ tới Tiết Văn.
Mộ Dung Vô Phong còn định nói thêm gì đó, Triệu Khiêm Hòa đã gõ cửa rồi tiến vào.
“Có việc gì vậy?”, chàng hỏi.
Triệu Khiêm Hòa ngập ngừng một lúc, nói: “Ngô đại phu và Trần đại phu mất tích rồi. Tạ tổng quản đoán, có lẽ bọn họ đã bị người của Đường môn bắt đi”.
Sắc mặt của Mộ Dung Vô Phong khẽ biến, hỏi: “Tạ tổng quản đang ở đâu?”
“Ông ấy đã phái người đi truy tìm bốn phía, có điều vẫn muốn hỏi một việc, liệu phu nhân có biết người của Đường môn có thể trốn ở nơi nào không”.
Mộ Dung Vô Phong thoáng nghĩ rồi nói: “Ta nhớ lần trước ông có nói, ở Thần Nông trấn Đường môn có hai sản nghiệp, tiếng là treo bảng hiệu quán rượu nhưng dùng thì toàn bộ là gia nhân của Đường môn”.
Lần trước Hà Y giết Đường Đại, tìm đến chính là một tửu quán tên là “Ngộ Tiên lầu” trong số đó.
“Không dám giấu cốc chủ, Ngộ Tiên lầu hôm qua đã đổi chủ rồi, người làm thuê từ trong ra ngoài đều đã đổi cả, trước mắt để Ông lão bản thay mặt quản lý. Để đảm bảo an toàn trong cốc, thủ đoạn của bọn thuộc hạ có hơi cứng rắn một chút”.
“Vẫn còn một nơi nữa, không phải sao?”
“Chỗ đó là ‘Tuyên Hoài lâu’, lão bản tuy là người của Đường môn, nhưng sản nghiệp lại treo tên của tri châu đại nhân. Chúng ta không thể mạo muội xông vào tìm người”.
“Lúc này rồi mà vẫn không mạo muội, vậy phải đợi tới lúc nào mới mạo muội?”, trong lòng chàng lo lắng, không nhịn được mà ho dữ dội một trận.
Triệu Khiêm Hòa đáp: “Vâng. Bọn thuộc hạ từng tìm người hóa trang thành thực khách từ ngoài tới, trà trộn vào kiểm tra mọi ngóc ngách một lượt. Tửu điếm đó không lớn, bên trong cũng chẳng có tới một nhân vật khả nghi”.
Hà Y hỏi: “Trong cốc đã điều đi rất nhiều người à?”
Triệu Khiêm Hòa gật đầu: “Đã cử đi non nửa, nửa kia ở lại thủ vệ. Cố Thập Tam, Sơn Thủy, Biểu Đệ, còn cả huynh đệ họ Diệp đều đi rồi”, ông ta ngừng một chút rồi nói tiếp: “Hai vị đại phu không phải mất tích trong cốc. Hôm nay trong trấn có y hội, trong cốc có không ít đại phu cũng tới tham dự. Ngô đại phu vốn không đi, không biết vì cớ gì sớm hôm nay lại theo xe Trần đại phu rời cốc… Bọn họ chính là bị bắt dọc đường”.
Trần Sách là học trò đầu tiên của Mộ Dung Vô Phong, chủ trì mọi y vụ ngoài cốc, chuyên về nội khoa và chấn thương. Ông ta vẫn thường rời cốc tới các y quán trong trấn thăm khám.
Hà Y nói: “Tối qua lúc tôi đi đón Ngô đại phu, cô ấy đang ở trong tay Đường Tiềm. Nếu không phải giữa đường có một đám động chủ của Ngũ Độc giáo đuổi giết tới, chỉ sợ Ngô đại phu đã sớm bị bắt tới Đường môn”.
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày hỏi: “Sao tối qua nàng không nói cho ta?”
“Thiếp đã cứu cô ấy về rồi, cho rằng cô ấy sẽ không có chuyện gì nữa”, không đợi chàng tiếp lời, nàng nói tiếp: “Chàng đừng lo, không phải vừa rồi chàng bảo thiếp ra ngoài chơi sao? Giờ thiếp đi đây”.
“Đợi đã!”, chàng định kéo nàng lại nhưng đã chậm mất, đành trơ mắt nhìn bóng áo nàng phiêu động, lướt ra ngoài cửa.
Triệu Khiêm Hòa cũng theo bước lui ra ngoài.
Một lúc sau, ngoài cửa vọng vào mấy tiếng ho, Triệu Khiêm Hòa đột nhiên quay lại.
“Còn có việc gì nữa?”, Mộ Dung Vô Phong ngả người vào lưng ghế, hỏi: “Sao gần đây mọi người đều ốm cả rồi, đến ông cũng ho sao?”
Triệu Khiêm Hòa nói: “Cốc chủ nói gì vậy? Thân già này sao bệnh được? Chẳng qua thời tiết này quả thật hơi lạnh, vừa ẩm vừa lạnh, thuộc hạ không khỏi mắc chứng ho mà thôi”.
“Vụ làm ăn với Tưởng gia hôm trước ở Thính Phong lâu đã đàm phán ổn chưa?”
“Ổn thỏa rồi, nói cái là được”.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nhìn ông ta thăm dò, đột nhiên nói: “Trước giờ vốn chẳng có cái gì là Tưởng gia, rốt cục các hạ là ai?”
Triệu Khiêm Hòa cười ha ha, thanh âm chợt biến thành cực kỳ chói tai: “Ai ai cũng nói thần y Mộ Dung là thiên tài, hôm nay quả nhiên ta đã được thấy!”, người này kéo mặt nạt xuống, lộ ra một khuôn mặt tròn tròn trắng trẻo với cặp mắt nhỏ lanh lợi, nói: “Tiểu đệ họ Đường, tên chỉ có một chữ ‘Dung’, nếu như ngài không nhớ nổi, thì cũng có thể gọi là Đường Thập Cửu”.
Người của Đường gia quá nhiều, cả gia tộc có tới mấy trăm người, chẳng ai có thể nhớ đủ hết tên từng người. Nhưng mấy chục người thường lộ diện trên giang hồ thì mọi người đều biết tên hết.
Mộ Dung Vô Phong thường được nghe Hà Y kể các câu chuyện trong giang hồ, nhớ tới một nhân vật “Thiên biến thần quân” Phạm Thạch Tông. Hà Y nói, người này từng bằng một bộ “Vô hình thần chưởng” mà độc bộ thiên hạ, cuối đời có thu nhận một con em Đường môn làm cao đồ, có được hết chân truyền của ông ta.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đường công tử muốn tới Vân Mộng cốc, báo một tiếng ở cửa lớn là được, cần gì phải lao tâm khổ tứ như thế?”
Thái độ chàng lạnh nhạt bình ổn, không chút biến sắc.
Đường Dung quét mắt qua thư án của chàng, nói: “Nghe bảo gần đây cốc chủ lại muốn viết một cuốn sách làm khó Đường gia, công bố một số lượng lớn công thức mật chế độc dược của Đường môn. Tên cuốn sách là…”, hắn đưa tay với một tập bản thảo, giở trang đầu, “Gọi là Vân Mộng nghiệm án thuyết tục biên chi độc chứng chi mê. Cái tên này thật dễ nghe, tiếc là hơi dài. Ta lấy về đọc trước cho vui, đuợc không?”
Miệng hắn thì rất khách khí nhưng không hề do dự đem tất cả bản thảo cuộn thành một bó, cất vào trong lòng.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nhìn hắn, nói: “Thì ra người của Đường môn cũng làm được những loại việc trộm cướp khiến người ta khinh bỉ”.
“Nếu không phải bởi cốc chủ cứ luôn đối đầu với Đường môn, khiến cho bọn ta gần như sụp đổ. Bọn ta cũng không đến nỗi sa đọa tới mức này”.
“Ngươi muốn như thế nào?”
“Chẳng muốn thế nào cả. Bây giờ bất kể ta đối phó với ngài như thế nào, đều có chút bất nhẫn trong lòng. Hay là cứ cho ngài một cái chết thống khoái có thể diện thì tốt hơn”.
Nói xong, hắn đột nhiên giơ tay siết chặt lấy cổ Mộ Dung Vô Phong.
Dưới bàn tay to lớn cứng như thép của Đường Dung, khuôn mặt chàng bắt đầu đỏ lên, kế đó thì chuyển sang tím, thân thể chàng đã cực kỳ yếu ớt, đến một chút sức phản kháng giãy giụa cũng không có. Rõ ràng Đường Dung có thể dễ dàng bẻ gãy cổ Mộ Dung Vô Phong nhưng hắn lại muốn xem cảnh người này co giật kịch liệt mà chết trong tay mình… Tuy hắn xếp thứ mười chín, nhưng Đường Ngũ vừa mới chết đi chính là anh ruột hắn.
Chính lúc ấy, sau lưng hắn chợt vang lên tiếng kiếm khí xé gió đâm tới. Mộ Dung Vô Phong đang ngồi, hắn đang đứng, nhát kiếm kia nhắm thẳng vào huyệt Thái Dương của hắn.
Đường Dung buông tay, rút từ eo một cây tam tiết côn, “choang” một tiếng, gạt thanh kiếm kia ra.
Quay đầu lại nhìn, trước ngực tấm áo xám của mình đã bị kiếm rạch một đường lớn, bản thảo rơi xuống đất hơn nửa.
Thanh kiếm kia đơn giản là không cho hắn thời gian nghĩ ngợi, nhanh như điện chớp gió giật cuốn tới, ép hắn lùi tới cửa sổ.
Đường Dung tung cước đạp mở nắp lò sưởi đồng, đem số bản thảo còn lại quăng vào trong lò.
Đây là loại giấy thượng hảo hạng, cực nhẹ cực mỏng, gặp lửa lập tức bùng cháy! Người áo tím thấy thế thì cực kỳ giận dữ, ào ạt tung mấy kiếm, gạt ra một đám giấy chưa kịp cháy, kiếm pháp càng lúc càng ngoan độc, chiêu chiêu đòi mạng, lộ rõ ý đồ liều mạng với hắn.
Đường Dung không biết làm sao, chỉ đành cướp đường trốn ra ngoài cửa sổ. Khinh công hắn cực giỏi, nhẹ nhàng nhảy lên mái phòng rồi thoắt cái đã không thấy đâu nữa.
Hà Y chẳng có lòng dạ đánh tiếp bèn quăng kiếm, đỡ Mộ Dung Vô Phong đang ngã dưới đất về giường, xoa bóp hồi lâu chàng mới mệt mỏi tỉnh lại.
“Sách của ta…”
“Bị hắn đốt mất một ít, đại khái là khoảng hai chục trang… chàng đừng lo”, thấy sắc mặt chàng vẫn tím tái như trước, nàng bèn đỡ chàng dậy để chàng tựa vào người mình.
“Hai chục trang… cũng không tính là quá nhiều. Ta vẫn nhớ lại được”, sắc mặt chàng rất đáng sợ nhưng đã gượng muốn ngồi dậy, “Nhân bây giờ vẫn còn nhớ được, ta phải lập tức viết bù mấy trang đó”.
“Trí nhớ của chàng trước giờ cực tốt”, nàng nhẹ nhàng giữ chàng lại: “Chớ nói nhiều nữa”.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook