Mariana
-
Chương 28
“Được rồi, mẹ ơi, con biết rồi.” Tôi gác ống nghe điện thoại lên vai và vươn tay để chỉnh lại chiếc khung ảnh bị nghiêng trên bức tường cạnh cầu thang. “Anh Tom đã nói hết với con chiều nay rồi. Con nghĩ việc này là một bất ngờ đáng yêu với cả cha và mẹ.”
“Ừm.” Giọng mẹ tôi lơ đãng và có vẻ không hoàn toàn bị thuyết phục cho lắm. “Thể nào cha con cũng sẽ tiếp tục tham gia các cuộc thi giải ô chữ, nên mẹ chỉ còn cách chờ thôi. Dù mẹ không cho rằng kỳ nghỉ cuối tuần ở Brighton là một giải thưởng thực sự lớn lao gì cho cam. Nhưng mà”, bà nói, chọn một thái độ tích cực hơn, “cha con cũng thích điên lên rồi. Nếu nghe ông ấy nói thể nào con cũng nghĩ bố mẹ cứ như chưa được đi nghỉ bao giờ ấy, chúng ta sẽ đi vắng tận một tháng liền”.
Tuy nhiên bà không thể giấu nổi niềm vui trong giọng nói. Cả hai chúng tôi đều biết chính là chiến thắng, chứ không phải giải thưởng, đã khiến ông phấn khích - ý nghĩ đoạt được gì đó chẳng để làm gì cả.
“Cha có nhà không mẹ?”
“Không, ông ấy đi mua quần bơi rồi. Cứ tưởng tượng”, bà cười khúc khích, “với đôi chân của ông ấy xem! Mẹ sẽ phải đi cách mười bước sau lưng ông ấy và đeo một cái kính đen để không ai nghĩ mẹ với ông ấy đi cùng nhau”.
Tôi cười tinh quái. “Họ có vụ tắm khỏa thân ở Brighton đúng không mẹ nhỉ?”
“Con đang khuyến khích hay dọa mẹ sợ chết khiếp đấy?”
“Ôi, mẹ sẽ vui lắm, mẹ à. Và chỉ có một tuần thôi. Khi nào mẹ đi?”
“Thứ bảy tuần sau. Cha mẹ sẽ nghỉ đêm tại nhà Tom ở Elderwel, cha mẹ cũng nghĩ nếu không bận gì hôm đó, con có thể sẽ muốn lái xe xuống đây cùng ăn tối - làm một cuộc họp mặt gia đình.”
“Con rất tiếc.” Tôi lắc đầu. “Con không đi được mẹ ạ. Thứ Bảy tuần sau thì không được. Đám cưới của Rachel sẽ tổ chức vào hôm ấy, cô ấy sẽ thất vọng lắm nếu con không ở đó.”
“Rachel?”, giọng nói bối rối của mẹ ngăn tôi lại, tay tôi siết chặt quanh ống nghe khi nhận ra ý nghĩa của những điều mình vừa nói.
“Rachel Evers”, tôi bịa, giữ giọng nói của mình sao cho thật bình thường. “Bạn thân ở trường cũ.”
“Ồ.”
Từ sự im lặng kéo dài theo sau, tôi biết mẹ tôi đang lục tìm trong ký ức để tìm cho ra một khuôn mặt khớp với cái tên, tôi vội vã đổi chủ đề. “Tom bảo cha lại gặp vấn đề với vai”, tôi nhắc và thả lỏng cả người khi mẹ tôi sa vào hướng mới. Bà luôn luôn hạnh phúc khi được thảo luận về các vấn đề sức khỏe của cha tôi - theo ý kiến của bà, chủ yếu là do quá nhiều đêm ông uống rượu và chơi bi a ở câu lạc bộ.
Phần còn lại của cuộc nói chuyện, tôi chỉ lơ đãng lắng nghe có một nửa, còn lại thì lấp đầy những khoảng ngừng trong bài tường thuật của mẹ tôi với những âm thanh đồng ý hay thông cảm phù hợp.
“Con có chắc là vẫn khỏe đấy chứ?” Bà hỏi tôi, vào lúc kết thúc câu chuyện đặc biệt dài.
“Đương nhiên rồi ạ. Sao thế mẹ?”
“Con không nói quá hai từ trong suốt mười phút.”
“Vậy sao? Con xin lỗi. Sáng nay con dậy hơi sớm và dường như nó bắt đầu ảnh hưởng đến con rồi.”
“Ừ, con xem thế nào rồi nghỉ sớm đi”, mẹ tôi khuyên. “Và ăn đầy đủ nữa. Phải đảm bảo lọ vitamin của con được bổ sung cả sắt nữa nhé. Con vẫn uống vitamin đấy chứ? Tốt. Giờ con không muốn bị ốm đâu, đúng không?”
“Con thấy khỏe mà mẹ”, tôi lại nói, dường như đã lặp đến cả trăm lần trong hôm nay rồi. Đó là một câu nói dối, tôi tự thừa nhận thế khi cúp máy. Tôi đã nói câu đó với Geoff vào ban sáng, với Tom vào buổi chiều và giờ là với mẹ tôi, nhưng nó vẫn chỉ là một câu nói dối. Tôi không thấy khỏe một chút nào. Thực tế, tôi có cảm giác rất suy nhược và biết chỉ một người duy nhất trong ngôi làng này sẽ thấu hiểu lý do tại sao.
Ngôi nhà của bà Hutherson là căn thứ hai qua tòa cha sở bằng gạch đỏ trên đường Thượng. Nó thực sự trông giống một căn nhà ở miền quê, nhỏ nhắn, vuông vắn và hơi lún xuống bên dưới do sức nặng của mái ngói cổ. Lối đi được trồng hoa oải hương và những bông hoa thả xuống từ bệ cửa sổ giữa những cánh cửa chóp sơn màu xanh tươi mát. Ngay cả khi Alfreda Hutherson không lúi húi ở một bên mé rào, chăm sóc những hàng cà chua trĩu quả, tôi cũng biết ngôi nhà này là của bà.
Bà đứng thẳng người khi tôi đi qua cánh cổng thấp, mở được cả hai chiều, chào đón tôi với nụ cười ân cần và thấu hiểu.
“Ta đã mong cháu sẽ đến sớm hơn”, bà nói.
“Nhưng ta nghĩ cháu vừa có một ngày bận rộn. Cháu thất vọng là tự nhiên thôi mà.”
Không cần giải thích mới tuyệt làm sao. “Vâng ạ.”
“Cháu muốn nhiều hơn nữa.”
“Cháu muốn cái kết của một câu chuyện cổ tích”, tôi thừa nhận với nụ cười ủ rũ. “Cháu mới ngu ngốc làm sao.”
“Không hề”, bà quả quyết đáp. “Nhưng ngay cả những cặp tình nhân trong các câu chuyện cổ tích cũng gặp phải những thời điểm khó khăn, trước khi đến được cái kết mãi-mãi-về-sau. Cho nó chút thời gian đi cháu. Hãy tin tưởng cả quá trình, khi kết thúc tất cả sẽ đâu ra đấy. Cháu đã dùng bữa chưa?”
“Chưa ạ.” Tôi lắc đầu. “Cháu không đói.”
“Vào trong đi cháu. Cháu sẽ thấy khỏe hơn nếu có chút gì đó để ăn.”
Bên trong ngôi nhà cũng ấm cúng như bên ngoài, tươi vui với những chiếc ghế hoa căng phồng, những bức tường trắng và tấm rèm ren thả, những dải nắng cuối cùng của ánh mặt trời trong ngày rớt qua khung cửa sổ hai cánh hình vuông. Tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy một con mèo nằm trên bệ cửa sổ; điều khiến tôi bất ngờ, một cách khá ngây thơ, là con mèo có màu vàng rộm, chứ không phải màu đen. Và sau cùng, dựa theo suy nghĩ của tôi, tôi nhận ra chẳng có gì phải bất ngờ đến thế cả…
“Cháu tin đã nhìn thấy con mèo nhà bác một lần”, tôi bình luận, “khi nó băng qua con đường gần nhà cháu”.
“Không khiến ta bất ngờ. Anh chàng này vẫn thường hay đi lang thang lắm. Mẹ của nó lại là kiểu suốt-ngày-ru-rú-trong-nhà, nhưng nó thì giống ông nó, ta e là vậy.”
Dẫn tôi vào trong một căn bếp nhỏ, bà Hutherson bận rộn bày biện nào bánh sandwich, nào bánh mặn và một ấm trà đang ủ như mọi khi. Nếu không thể cho tôi những câu trả lời, thì dường như ít nhất bà cũng xác định sẽ cho tôi cảm giác thoải mái và hạn chế đến tối đa những vết cứa sắc nhọn từ nỗi thất vọng của tôi.
“Người ta nhìn thấy trong chuồng ngựa với Geoff và Iain có phải anh trai cháu không?” Bà đột nhiên hỏi tôi.
Tôi gật đầu. “Cháu nghĩ họ đưa anh ấy đi tham quan một vòng.”
“Cậu ta có vẻ ngoài rất giống cháu. Vivien kể cậu ta là một mục sư.”
“Anh ấy sống ở Hampshire. Lần tới anh ấy đến cháu sẽ giới thiệu với bác”, tôi hứa. “Cứ vài tuần anh ấy lại ghé qua kiểm tra cháu một lần.”
“Ta nghĩ cậu ta lo cho cháu.” Bà nghiêng đầu, cẩn thận nghiên cứu gương mặt tôi. “Phải chăng cậu ta có lý do để làm thế?”
Tôi gạt qua một bên ý kiến ấy. “Không, không đâu… Cháu ổn mà, thật đấy.” Bên dưới đòi hỏi dịu dàng từ đôi mắt bà, thái độ của tôi dịu đi. “Cháu đang gặp một chút rắc rối với sự kiểm soát, nếu bác nhất quyết muốn biết. Không phải lúc nào cháu cũng được lựa chọn thời gian thực hiện chuyến quay về quá khứ, đôi khi cháu bị lôi tuột đi mà không có lý do nào cả.”
“Bây giờ cháu đều quay lại mỗi ngày phải không?”
“Gần như thế.” Tỏi gật đầu. “Thật khó để không làm như vậy. Bác thấy đấy, cháu rất quan tâm đến họ. Cháu quan tâm điều gì sẽ xảy đến với họ và tất cả họ đều quá thật…”
“Có lẽ còn thật hơn cả chúng ta nữa phải không?” Biểu cảm của tôi đã trả lời hộ tôi, bà gật đầu. “Phải, ta hiểu rồi. Một khi quá khứ lắng lại, sẽ có đủ thời gian cho hiện tại. Nhưng cháu không được để mất kết nối với hiện tại. Julia ạ”, bà cảnh báo tôi. “Quá khứ có thể dạy cho chúng ta nhiều điều, có thể nuôi dưỡng chúng ta, nhưng không bao giờ là nơi chứng minh sự tồn tại của chúng ta cả. Khi bản chất của cuộc sống thay đổi thì chúng ta phải tiếp tục dấn thân lên trước, không thì linh hồn sẽ héo tàn rồi chết đi.”
Tôi dành ra vài ngày tiếp theo để làm việc một mình trong im lặng, giữa khu vườn nơi những nhành hồng leo đang e ấp hé nở dọc theo bức tường đổ nát. Khi nụ hồng đầu tiên xòe cánh, tôi âu yếm cắt lấy nó và cắm vào chiếc bình bên cạnh bàn vẽ của mình. Một cách cẩn thận, tôi sao chép từng cánh hoa thanh mảnh lên trang giấy và đồ bóng bức tranh với chủ ý chính xác đến từng chi tiết. Trong những bức tranh minh họa của tôi, nó sẽ trở thành đóa hồng hoàn hảo, độc nhất mà Giai Nhân đã đánh cắp từ khu vườn của Quái Vật. Trên giấy, đóa hoa sẽ trở nên bất tử. Trong xưởng vẽ cũ kỹ, cánh hoa rụng hết chỉ trong vòng ba ngày.
Tôi tận dụng trạng thái ẩn dật nửa vời để đọc nốt tập thông tin Tom thu lượm từ người bạn làm thủ thư về chủ đề đầu thai. Các trang tài liệu trải dài từ phong trào Kỷ Nguyên Mới[1] u ám cho đến những học thuyết hàn lâm khô khốc, Nhưng cả tập tài liệu này dù sao cũng rất hấp dẫn. Tôi đặc biệt bị thu hút bởi các cách thức khác nhau mà con người nhớ lại được kiếp trước của họ.
[1] Nguyên tác: New Age, một phong trào sống và suy nghĩ phát triển vào cuối những năm 1980.
Với vài người, giống như tôi, chuyện này xảy ra một cách khá bất ngờ, hoàn toàn không thể dự liệu. Với những người khác, như những đứa trẻ chẳng hạn, lại có cách nhận thức đầy sinh động về kiếp trước của chúng và chúng chỉ mất đi những ký ức đó khi lớn lên. Thi thoảng phải cần đến một chấn thương nghiêm trọng hoặc tình trạng thôi miên trước khi những ký ức được gợi lên. Và vài người… vài người thì không bao giờ nhớ lại…
“Anh chẳng cảm nhận được gì cả”, Geoff thất vọng nói, khi một tuần sắp kết thúc. Chúng tôi đứng trong sân sau, nhìn chằm chằm xuống phiến bia mộ màu trắng đã được quét dọn sạch sẽ. Đám cỏ hỗn độn đã rạp xuống dưới chiếc máy cắt cỏ chuyên dụng của Iain, lộ ra những vạt cỏ xanh dìu dịu cùng vài bông hoa dại mọc thấp hơn ôm quanh khu đất bảo vệ. Geoff thọc hai bàn tay vào túi quần và nhìn trừng trừng, trán nhăn lại. “Chắc chắn anh sẽ cảm nhận được gì đó…”
Chúng tôi nói rất ít về những gì đã xảy ra vào tuần trước. Geoff dường như đã lật tung tất cả mọi thứ trong đầu, thăm dò chính những suy nghĩ và cảm nhận của bản thân những lúc rảnh rang. Nhìn bề ngoài, chúng tôi vẫn y hệt như trước đây. Ngày của chúng tôi vẫn trọn vẹn và đụng chạm của anh vẫn ấm áp như thế, đôi mắt anh vẫn mỉm cười mỗi khi nhìn vào mắt tôi, nhưng không hiểu sao phần nào đó trong anh đã cách xa tôi. Tôi bỏ qua, bởi chắc chắn phần ấy sẽ quay lại, và sự ám ảnh mỗi lúc một lớn, cuộc đời Mariana Farr đã che phủ hết những vấn đề lặt vặt của chính tôi.
Vào cái ngày diễn ra lễ cưới của Rachel, không cần đặt câu hỏi về khả năng giao du của tôi. Trước khi dải nắng yếu ớt đầu tiên của bình mình len lén chiếu xuống, tôi đã bật dậy và mặc quần áo, nhấc điện thoại khỏi giá treo và để bản thân mình được thư giãn chờ đợi những điều chắc chắn sẽ xảy ra.
Tình trạng này kéo dài khá lâu. Ngày mới đã bắt đầu, ánh mặt trời cuối hè sớm thứ Bảy rải khắp bên dưới bầu trời xanh ngắt hiếm có, nhưng khi nhiều giờ trôi qua, những đám mây bắt đầu thu lại, mặt trời dần dần tắt nắng và được thay thế bởi tấm màn xám ảm đạm. Bóng tối sẽ bao trùm ngay lưng chừng chiều, gió nhẹ nhàng thổi qua những khung cửa sổ của tôi cùng tiếng khóc lóc khe khẽ của một người phụ nữ.
Tôi phát hiện Rachel trong phòng ngủ chật hẹp phía trước mà cách đây không lâu đã trở thành phòng ngủ của cô ấy. Chiếc giường hẹp bị lột trần và trơ trọi, không có dấu hiệu nào cho thấy cô ấy đã ngủ trên đấy. Đêm tân hôn của cô ấy sẽ diễn ra trong căn phòng tương đối sang trọng trong góc, trên chiếc giường bốn cọc đồ sộ từng là phòng ngủ của ông bà tôi. Đây là đêm cuối cùng cô ấy ngủ trong căn nhà này.
Tôi không biết mình sẽ sống sót như thế nào nếu không có cô ấy, ý nghĩ đó đè lên trái tim tôi nặng trĩu. Tôi biết những suy nghĩ của cô ấy thậm chí còn nặng nề hơn cả tôi, dù cho cô ấy không hề chia sẻ chúng. Cô ấy dùng bàn tay kiên định chạm lên cửa sổ, nhìn chằm chằm về phía con đường mờ mịt. “Khi màn đêm buông xuống, trời sẽ đổ mưa”, cô ấy nói, nhận ra tôi đang đứng nơi khung cửa. “Các vị khách của chúng ta sẽ bị ướt mất."
“Dù thích hay không thì họ cũng chẳng để ý đâu.” Tôi bước vào phòng, đóng cánh cửa lại sau lưng để ngăn chặn tiếng ồn ào từ âm nhạc và cuộc hội hè bên dưới. “Mặc cho sự chê trách của bác tôi, họ đã uống hết hai thùng bia ông chuẩn bị rồi.”
Cô ấy thoáng cười trước tin tức đó. Rachel mặc chiếc váy đẹp nhất làm từ lụa hồng nhạt, trang trí những đường diềm, sắc màu sặc sỡ tương phản với bộ quần áo tăm tối của chồng cô ấy. Elias Webb đã chứng tỏ mình là một chú rể khắc khổ. Và trong nhà thờ sáng nay, chính mục sư cùng phải ngập ngừng suốt buổi hành lễ, như thể ông cũng gặp khó khăn khi phải kết hợp một thiếu nữ trẻ trung và sôi nổi với người đàn ông thế này.
“Tôi đảm bảo chồng tôi sẽ không quá chén”. Rachel nói. “Ông ấy có thói quen như người theo đạo Thanh giáo vậy. Cô biết mấy giờ rồi không?”
Tôi lắc đầu. “Gần đến bữa tối rồi. Nhưng tôi không biết chính xác là giờ nào. Cô sẽ nhanh chóng đi xuống chứ?”
“Hiện tại tôi…” Cô ấy đột ngột ngắt quãng, rồi áp lòng bàn tay lên khung cửa kính. Tôi đứng gần ngay sát sau lưng cô ấy, đủ gần để nhìn thấy điều cô ấy cũng thấy. Một con ngựa xám to lớn và người cưỡi ngựa không lẫn đi đâu được. Bên cạnh là Evan Gilroy ngồi hiên ngang và quả quyết trên con chiến mã hồng mao, dẫn theo đằng sau một con ngựa cái màu đen sống động, dường như họ đang khiêu vũ trên con đường mòn.
“Anh ấy đã đến”. Rachel thở hắt ra, một tiếng thở dài rã rời. “Anh ấy thực sự đã đến.” Cô ấy quay lại đối diện với tôi, đôi mắt tỏa sáng dữ dội không sao hiểu nổi. “Hãy chộp lấy hạnh phúc của mình bằng cả hai tay, Mariana ạ”, cô ấy khuyên, đôi môi run rẩy, “và giữ lấy nó thật chặt, bởi chị không thể biết lúc nào mình có thể sẽ đánh mất nó”.
Tôi muốn ôm lấy, vỗ về cô ấy, nhưng trước khi cánh tay tôi có thể cử động thì cô ấy đã lao vụt qua tôi với đôi mắt cúi xuống tuyệt vọng, và tôi không còn nghe được gì ngoại trừ âm thanh vang vọng từ những bước chân chạy xuống cầu thang. Dưới khoảnh sân bên dưới, Navarre hất mái đầu xám khi Richard xuống ngựa. Evan dẫn cả ba con ngựa về phía cây lê oằn mình nằm ở bức tường phía nam, và buộc chúng vào đó. Dưới tầng, âm thanh hội hè xập xình lên xuống, không mấy ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của những vị khách mới.
Giọng Richard trôi ngược lên trên qua lớp ván sàn bên dưới chân tôi, mang tôi khỏi cửa sổ và lao xuống cầu thang quay lại với đám đông.
“Thưa ngài”, giọng Rachel cắt ngang rõ ràng qua những âm thanh huyên náo, nụ cười thật rộng lúc cô ấy băng qua căn phòng để chào đón họ. “Chúng tôi thật vinh dự khi được tiếp đón ngài.”
Richard hạ mũ và nhã nhặn cúi chào trước bàn tay vươn ra của cô ấy. “Được ở bên cô, thưa phu nhân, là niềm vinh dự đối với bất cứ người đàn ông nào”, anh êm ái đáp lại.
Nụ cười của cô ấy không nao núng chút nào lúc hướng sự chú ý đến người đàn ông bên cạnh. “Thưa anh Gilroy”, cô ấy lại đưa bàn tay ra chào.
Nụ hôn của anh ta ngắn gọn, nhưng đôi mắt vẫn nấn ná nhìn cô. “Tôi chúc em hạnh phúc”, anh ta điềm tĩnh nói với Rachel.
Bác tôi cùng tiến lên, đôi mắt ông lạnh băng phản lại chiếc mặt nạ hiếu khách. “Hân hạnh chào đón các anh, các quý ông. Xin mời đến đây và dùng vài món với chúng tôi.”
Richard lơ đãng gật đầu, mắt anh tìm kiếm khắp căn phòng. “Ông Webb đáng kính đâu rồi?” Anh hỏi. “Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy một lát.”
Bác Jabez vẫy tay ra hiệu về phía chú rể, Elias Webb lại gần những người đàn ông, cái quắc mắt tăm tối hằn lên gương mặt nhăn nheo của ông ta. Trông Richard có vẻ không mấy chú ý đến sự chào đón lạnh nhạt của bọn họ.
“Cho phép tôi gửi đến ông lời chúc mừng của tôi”, anh nói thân thiết, “với cuộc hôn nhân tuyệt vời bậc nhất của ông”.
“Cảm ơn. thưa ngài.” Là một lời đáp khá miễn cưỡng.
Richard mỉm cười. “Tôi mong được tặng ông một món quà nhân dịp này. Trong sân, ông sẽ thấy con ngựa cái màu đen tên Barbary. Nó dành cho các quý cô và là một tùy tùng vô cùng thích hợp với vẻ đẹp của vợ ông. Xin phép ông nhận cho món quà nho nhỏ này.”
Elias Webb liếc nhìn Rachel đang đỏ bừng mặt trước khi trả lời. “Thay mặt vợ tôi, tôi xin cảm ơn và nhận món quà cưới của ngài”, ông ta nói, nhưng rõ ràng không hề hài lòng.
Các nhạc công, đánh đàn luýt, sáo và uống prôvăng khuấy động lên bầu không khí vui nhộn, Richard nghiêng đầu lắng nghe.
“Một giai điệu đáng yêu”, anh bình luận. “Nói tôi nghe xem, thưa ông, liệu ông có nghĩ tôi quá táo bạo khi cả gan mời người vợ đáng yêu của ông một điệu nhảy không?”
Khuôn mặt xấu xí của chú rể đông cứng. “Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ngài, rẳng tôi không thể cho phép vợ tôi khiêu vũ trong đám cưới. m nhạc và bia rượu thi tôi có thể chịu được, nếu dùng một cách điều độ. Nhưng khiêu vũ là trò tiêu khiển của ma quỷ.”
Richard không nhìn tôi lấy một lần kể từ khi tôi xuống cầu thang, tôi nghĩ anh không nhận ra sự hiện diện của tôi, nhưng giờ đôi mắt anh tìm thấy luồng mắt tôi một cách chính xác. Tôi áp lưng vào bức tường ốp gỗ, cầu nguyện anh sẽ không mời tôi khiêu vũ, bởi bác tôi đang đứng đây ngay bên vai anh thế này.
Từ nụ cười của anh, tôi biết ý tưởng này rõ ràng cũng lóe lên trong óc anh, nhưng anh lịch sự nhìn ra chỗ khác, xin Rachel cùng chồng cô thứ lỗi, để hòa vào cùng những vị khách khác, Evan Gilroy theo sau.
Vài phút trôi qua, khi băng qua các vị khách để rót đầy rượu cho họ, tôi thấy anh đang đứng ngay bên cạnh mình.
“Em sẽ làm tổn thưong lòng kiêu hãnh của anh”, anh dịu dàng cảnh báo, “nếu cứ lờ anh đi như thế”.
Tôi ném cho anh một ánh nhìn một nửa mang tính thiếu kiên nhẫn. “Em không được phép nói chuyện với anh, theo yêu cầu của bác em.”
“Và khi nào thì em bắt đầu tuân theo các yêu cầu đó vậy?” Anh giơ ly của mình ra cho tôi rót, miệng cong lên thích thú. “Bên cạnh đó, lúc này bác em bận rồi, với phần lớn các quý ông nghiêm nghị. Nếu ông ta có nhìn theo hướng này, anh chỉ cần hụp đầu xuống là ổn.”
“Ngài đúng là không sao chấp nhận được đấy, thưa ngài.”
“Thưa vâng. Và khiếu hài hước của cô đúng là quá thiếu sót đấy, thưa cô. Điều gì làm em khó chịu đến thế?”
Tôi nhăn mặt cúi thấp đầu. “Em xin lỗi, thưa ngài, nhưng ngày hôm nay bụng em cứ quặn thắt hết cả lên. Làm sao anh có thể mang Evan đến đây được?”
Giọng anh điềm tĩnh. “Bọn anh được mời mà.”
“Rachel đã đủ khổ sở lắm rồi, đấy là còn chưa nhắc đến niềm hạnh phúc cô ấy đã trải qua nữa, việc anh ta dường như chẳng mấy bị ảnh hưởng vì đám cưới của cô ấy càng làm mọi chuyện xấu hơn.”
Đôi mắt Richard dõi theo mắt tôi nhìn về phía dáng hình dong dỏng, im lặng của Evan Gilroy, anh ta đang đứng uể oải dựa vào bức tường cạnh lò sưởi, một chân đi bốt xấc xược gác lên lò sưởi nguội ngắt.
“Đây nào có phải đám cưới”, Richard phủ nhận với nụ cười thoáng xấu xa, “cho đến khi nó được hoàn thành”.
Đúng lúc đó thì bác tôi quay lại và nhìn thấy chúng tôi, mặc cho lời hứa sẽ hụp đầu xuống của Richard de Mornay. Thay vào đấy anh nâng ly của mình lên, giọng nói đầy biểu cảm vang rền khi anh kêu gọi mọi người nâng ly chúc mừng.
“Vì bệ hạ, nhà vua Charles!”
“Vì nhà vua!” Tất cả mọi người đồng loạt nâng ly lên đáp lời, rồi uống cạn. Bác tôi cũng nâng ly chúc mừng, nhưng đôi mắt ông híp lại và trở liên khắc nghiệt lúc hạ cốc xuống.
“Vì cô dâu và chú rể!” Ai đó hét lên, từ phía sau căn phòng, một lần nữa đoạn điệp khúc lại đồng thanh hô vang và những chiếc ly lại được giơ cao.
“Vì tình yêu”, Evan Gilroy đề nghị bằng chất giọng đều đều, sinh động, không buồn chuyển động từ vị trí cạnh lò sưởi. Lần thứ ba, các giọng nói đồng thanh lặp lại và rượu mừng lại được uống cạn. Richard gắn chặt đôi mắt lên tôi trong khi uống cạn ly của mình, rồi đặt nó xuống kèm theo một cái nháy mắt.
“Em hãy ghi nhớ cái cách anh đã uống ly rượu mừng này”, anh nói với tôi trước khi bỏ đi.
Không lâu sau đó món sack posset[2] lại được bưng ra, mùi hương nồng nàn ấm áp của sữa đặc hòa trong rượu vang Tây Ban Nha cùng hương liệu bốc lên, đó cũng là lúc những chiếc đèn cháy hết được châm lên, ngọn lửa cũng được nhóm trong phòng ngủ trên tầng, nơi chiếc giường cỡ đại được chuẩn bị cho đôi vợ chồng tân hôn.
[2] Rượu vang pha với sữa đặc thêm vào một chút hương liệu.
Caroline và tôi hộ tống Rachel lên phòng ngủ để giúp cô ấy thay váy. Vài phút nữa là tất cả các vị khách sẽ theo sau, theo phong tục bắt buộc, để quăng tất của cô dâu[3] và chứng kiến cặp đôi mới cưới đi vào phòng ngủ. Rachel rõ ràng không có hứng thú với viễn cảnh ấy, nhưng cô ấy vẫn đờ người ngồi im dưới sự giúp đỡ của chúng tôi.
[3] Theo tục lệ, cô dâu sẽ ném tất vào đám đông, như trao tặng may mắn cho người nào bắt được nó.
“Em phải vui lên”, Caroline vừa véo vào má Rachel cho có thêm sắc hồng vừa trách em gái. “Đây có phải đám tang đâu. Jabez đã gả em cho một người đàn ông giàu có và đáng kính trọng, em nên thể hiện lòng biết ơn của mình rõ ràng hơn.”
“Em đang rất biết ơn đây”, Rachel đều giọng nói.
Caroline cuống quýt sửa sang tóc cho Rachel, và chặc lưỡi. “Trông em chẳng có gì là biết ơn cả. Em phải mỉm cười, và nói…”
“Ôi, cứ kệ cô ấy đi, Caroline!” Tôi quát lên, lòng kiên nhẫn của tôi mỗi lúc lại bị bóp méo, những âm thanh ồn ào ngưng bặt. Tôi nhìn đôi mắt Rachel qua tấm gương. “Cô có muốn chúng tôi ở với cô không?”
Cô ấy chậm rãi lắc đầu. “Tôi nghĩ mình thích ở một mình hơn, nếu cả hai không phiền. Tôi sẽ có thời gian để suy nghĩ, và…” Cô ấy ngừng lại, mỉm cười với chị gái. “Cầu nguyện Chúa sẽ biến em thành một người vợ tốt và biết nghe lời.”
Cô ấy đứng dậy ôm lấy cả hai chúng tôi, trông tái nhợt và đáng yêu trong bộ váy ngủ thướt tha. “Tôi sẽ nhớ chị lắm”, cô ấy thì thầm bên tai tôi, bám chặt lấy tôi với sự tuyệt vọng không khác gì một đứa trẻ đang sợ hãi.
“Chúng tôi sẽ đến thăm cô thường xuyên”, tôi run run hứa. “Cô sẽ chẳng có lý gì để nhớ tôi đâu.”
Cô ấy đơn giản chỉ lắc đầu, đôi mắt rạng ngời với những giọt nước mắt, và lại ôm tôi. Tôi mang tâm trí bồn chồn muốn rút lui. Dưới nhà, cuộc vui tưng bừng với những đợt chúc tụng và ca hát, tất cả các vị khách đều tỏ ra phấn khởi lúc tập trung nhau lại hộ tống chú rể vào phòng tân hôn. Tôi không có lòng dạ nào để tham gia với họ, khi cuối cùng họ cũng lên đến cầu thang, tôi vẫn còn rầu rĩ lừng khừng nơi hành lang, hy vọng mình sẽ không bị coi là vắng mặt.
Tôi chỉ ngờ ngợ nhận ra âm thanh từ những giọng nói ầm ĩ dần đứt quãng, rồi thay đổi, càng lúc càng trở nên chói tai. Mọi người dường như đang quay lại, lũ lượt kéo xuống cầu thang hẹp trong bầu không khí kích động, run rẩy tràn ra từng góc của đại sảnh, bác tôi đứng giữa tất cả, khuôn mặt sầm sì và nguy hiểm hơn bao giờ hết.
“Lấy ngựa!” Ông ra lệnh với những người xung quanh. “Chúng sẽ không bỏ trốn được. Vì Chúa”, ông gầm lên, trông dáng đứng vô cùng cao lớn. “chúng sẽ không bỏ trốn được thế này!”.
Bầu không khí xung quanh tôi nháo nhào kích động, phủ đầy những tiếng thì thầm hăm hở. “Đi rồi… có nghe thấy gì không…? Đương nhiên là qua cửa sổ… Gilroy đó, trời ạ, từ tòa trang viên… không thể nghi ngờ chuyện gì cả…”
Elias Webb, run rẩy vì giận dữ, gạt qua cả đống người chen chúc để lao về phía tôi. “Mở cửa ra!” Ông ta ra lệnh, tôi tự động nghe theo, rồi tôi ép chặt bản thân lên cánh cửa để ông ta đi qua. Vài người đàn ông khác theo ông ta ra ngoài bãi cỏ, chủ động tỏa đi tất cả các hướng. Theo bản năng, tôi nhìn qua họ đến chỗ Evan đã buộc những con ngựa. Navarre đứng một mình dưới ánh trăng, bóng dáng màu xám mơ hồ với mái đầu xoay thẳng về phía những ngọn đồi ở tít xa.
Tôi rời ánh mắt khỏi nó và xoay người lại. Richard de Mornay đang đứng nơi lưng chừng cầu thang, một bờ vai dựa lên bức tường sau lưng, hai cánh tay anh thư thái khoanh trước ngực. Bên trên cả biển những khuôn mặt kinh ngạc, đôi mắt anh chạm mắt tôi, và anh mỉm cười.
“Ừm.” Giọng mẹ tôi lơ đãng và có vẻ không hoàn toàn bị thuyết phục cho lắm. “Thể nào cha con cũng sẽ tiếp tục tham gia các cuộc thi giải ô chữ, nên mẹ chỉ còn cách chờ thôi. Dù mẹ không cho rằng kỳ nghỉ cuối tuần ở Brighton là một giải thưởng thực sự lớn lao gì cho cam. Nhưng mà”, bà nói, chọn một thái độ tích cực hơn, “cha con cũng thích điên lên rồi. Nếu nghe ông ấy nói thể nào con cũng nghĩ bố mẹ cứ như chưa được đi nghỉ bao giờ ấy, chúng ta sẽ đi vắng tận một tháng liền”.
Tuy nhiên bà không thể giấu nổi niềm vui trong giọng nói. Cả hai chúng tôi đều biết chính là chiến thắng, chứ không phải giải thưởng, đã khiến ông phấn khích - ý nghĩ đoạt được gì đó chẳng để làm gì cả.
“Cha có nhà không mẹ?”
“Không, ông ấy đi mua quần bơi rồi. Cứ tưởng tượng”, bà cười khúc khích, “với đôi chân của ông ấy xem! Mẹ sẽ phải đi cách mười bước sau lưng ông ấy và đeo một cái kính đen để không ai nghĩ mẹ với ông ấy đi cùng nhau”.
Tôi cười tinh quái. “Họ có vụ tắm khỏa thân ở Brighton đúng không mẹ nhỉ?”
“Con đang khuyến khích hay dọa mẹ sợ chết khiếp đấy?”
“Ôi, mẹ sẽ vui lắm, mẹ à. Và chỉ có một tuần thôi. Khi nào mẹ đi?”
“Thứ bảy tuần sau. Cha mẹ sẽ nghỉ đêm tại nhà Tom ở Elderwel, cha mẹ cũng nghĩ nếu không bận gì hôm đó, con có thể sẽ muốn lái xe xuống đây cùng ăn tối - làm một cuộc họp mặt gia đình.”
“Con rất tiếc.” Tôi lắc đầu. “Con không đi được mẹ ạ. Thứ Bảy tuần sau thì không được. Đám cưới của Rachel sẽ tổ chức vào hôm ấy, cô ấy sẽ thất vọng lắm nếu con không ở đó.”
“Rachel?”, giọng nói bối rối của mẹ ngăn tôi lại, tay tôi siết chặt quanh ống nghe khi nhận ra ý nghĩa của những điều mình vừa nói.
“Rachel Evers”, tôi bịa, giữ giọng nói của mình sao cho thật bình thường. “Bạn thân ở trường cũ.”
“Ồ.”
Từ sự im lặng kéo dài theo sau, tôi biết mẹ tôi đang lục tìm trong ký ức để tìm cho ra một khuôn mặt khớp với cái tên, tôi vội vã đổi chủ đề. “Tom bảo cha lại gặp vấn đề với vai”, tôi nhắc và thả lỏng cả người khi mẹ tôi sa vào hướng mới. Bà luôn luôn hạnh phúc khi được thảo luận về các vấn đề sức khỏe của cha tôi - theo ý kiến của bà, chủ yếu là do quá nhiều đêm ông uống rượu và chơi bi a ở câu lạc bộ.
Phần còn lại của cuộc nói chuyện, tôi chỉ lơ đãng lắng nghe có một nửa, còn lại thì lấp đầy những khoảng ngừng trong bài tường thuật của mẹ tôi với những âm thanh đồng ý hay thông cảm phù hợp.
“Con có chắc là vẫn khỏe đấy chứ?” Bà hỏi tôi, vào lúc kết thúc câu chuyện đặc biệt dài.
“Đương nhiên rồi ạ. Sao thế mẹ?”
“Con không nói quá hai từ trong suốt mười phút.”
“Vậy sao? Con xin lỗi. Sáng nay con dậy hơi sớm và dường như nó bắt đầu ảnh hưởng đến con rồi.”
“Ừ, con xem thế nào rồi nghỉ sớm đi”, mẹ tôi khuyên. “Và ăn đầy đủ nữa. Phải đảm bảo lọ vitamin của con được bổ sung cả sắt nữa nhé. Con vẫn uống vitamin đấy chứ? Tốt. Giờ con không muốn bị ốm đâu, đúng không?”
“Con thấy khỏe mà mẹ”, tôi lại nói, dường như đã lặp đến cả trăm lần trong hôm nay rồi. Đó là một câu nói dối, tôi tự thừa nhận thế khi cúp máy. Tôi đã nói câu đó với Geoff vào ban sáng, với Tom vào buổi chiều và giờ là với mẹ tôi, nhưng nó vẫn chỉ là một câu nói dối. Tôi không thấy khỏe một chút nào. Thực tế, tôi có cảm giác rất suy nhược và biết chỉ một người duy nhất trong ngôi làng này sẽ thấu hiểu lý do tại sao.
Ngôi nhà của bà Hutherson là căn thứ hai qua tòa cha sở bằng gạch đỏ trên đường Thượng. Nó thực sự trông giống một căn nhà ở miền quê, nhỏ nhắn, vuông vắn và hơi lún xuống bên dưới do sức nặng của mái ngói cổ. Lối đi được trồng hoa oải hương và những bông hoa thả xuống từ bệ cửa sổ giữa những cánh cửa chóp sơn màu xanh tươi mát. Ngay cả khi Alfreda Hutherson không lúi húi ở một bên mé rào, chăm sóc những hàng cà chua trĩu quả, tôi cũng biết ngôi nhà này là của bà.
Bà đứng thẳng người khi tôi đi qua cánh cổng thấp, mở được cả hai chiều, chào đón tôi với nụ cười ân cần và thấu hiểu.
“Ta đã mong cháu sẽ đến sớm hơn”, bà nói.
“Nhưng ta nghĩ cháu vừa có một ngày bận rộn. Cháu thất vọng là tự nhiên thôi mà.”
Không cần giải thích mới tuyệt làm sao. “Vâng ạ.”
“Cháu muốn nhiều hơn nữa.”
“Cháu muốn cái kết của một câu chuyện cổ tích”, tôi thừa nhận với nụ cười ủ rũ. “Cháu mới ngu ngốc làm sao.”
“Không hề”, bà quả quyết đáp. “Nhưng ngay cả những cặp tình nhân trong các câu chuyện cổ tích cũng gặp phải những thời điểm khó khăn, trước khi đến được cái kết mãi-mãi-về-sau. Cho nó chút thời gian đi cháu. Hãy tin tưởng cả quá trình, khi kết thúc tất cả sẽ đâu ra đấy. Cháu đã dùng bữa chưa?”
“Chưa ạ.” Tôi lắc đầu. “Cháu không đói.”
“Vào trong đi cháu. Cháu sẽ thấy khỏe hơn nếu có chút gì đó để ăn.”
Bên trong ngôi nhà cũng ấm cúng như bên ngoài, tươi vui với những chiếc ghế hoa căng phồng, những bức tường trắng và tấm rèm ren thả, những dải nắng cuối cùng của ánh mặt trời trong ngày rớt qua khung cửa sổ hai cánh hình vuông. Tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy một con mèo nằm trên bệ cửa sổ; điều khiến tôi bất ngờ, một cách khá ngây thơ, là con mèo có màu vàng rộm, chứ không phải màu đen. Và sau cùng, dựa theo suy nghĩ của tôi, tôi nhận ra chẳng có gì phải bất ngờ đến thế cả…
“Cháu tin đã nhìn thấy con mèo nhà bác một lần”, tôi bình luận, “khi nó băng qua con đường gần nhà cháu”.
“Không khiến ta bất ngờ. Anh chàng này vẫn thường hay đi lang thang lắm. Mẹ của nó lại là kiểu suốt-ngày-ru-rú-trong-nhà, nhưng nó thì giống ông nó, ta e là vậy.”
Dẫn tôi vào trong một căn bếp nhỏ, bà Hutherson bận rộn bày biện nào bánh sandwich, nào bánh mặn và một ấm trà đang ủ như mọi khi. Nếu không thể cho tôi những câu trả lời, thì dường như ít nhất bà cũng xác định sẽ cho tôi cảm giác thoải mái và hạn chế đến tối đa những vết cứa sắc nhọn từ nỗi thất vọng của tôi.
“Người ta nhìn thấy trong chuồng ngựa với Geoff và Iain có phải anh trai cháu không?” Bà đột nhiên hỏi tôi.
Tôi gật đầu. “Cháu nghĩ họ đưa anh ấy đi tham quan một vòng.”
“Cậu ta có vẻ ngoài rất giống cháu. Vivien kể cậu ta là một mục sư.”
“Anh ấy sống ở Hampshire. Lần tới anh ấy đến cháu sẽ giới thiệu với bác”, tôi hứa. “Cứ vài tuần anh ấy lại ghé qua kiểm tra cháu một lần.”
“Ta nghĩ cậu ta lo cho cháu.” Bà nghiêng đầu, cẩn thận nghiên cứu gương mặt tôi. “Phải chăng cậu ta có lý do để làm thế?”
Tôi gạt qua một bên ý kiến ấy. “Không, không đâu… Cháu ổn mà, thật đấy.” Bên dưới đòi hỏi dịu dàng từ đôi mắt bà, thái độ của tôi dịu đi. “Cháu đang gặp một chút rắc rối với sự kiểm soát, nếu bác nhất quyết muốn biết. Không phải lúc nào cháu cũng được lựa chọn thời gian thực hiện chuyến quay về quá khứ, đôi khi cháu bị lôi tuột đi mà không có lý do nào cả.”
“Bây giờ cháu đều quay lại mỗi ngày phải không?”
“Gần như thế.” Tỏi gật đầu. “Thật khó để không làm như vậy. Bác thấy đấy, cháu rất quan tâm đến họ. Cháu quan tâm điều gì sẽ xảy đến với họ và tất cả họ đều quá thật…”
“Có lẽ còn thật hơn cả chúng ta nữa phải không?” Biểu cảm của tôi đã trả lời hộ tôi, bà gật đầu. “Phải, ta hiểu rồi. Một khi quá khứ lắng lại, sẽ có đủ thời gian cho hiện tại. Nhưng cháu không được để mất kết nối với hiện tại. Julia ạ”, bà cảnh báo tôi. “Quá khứ có thể dạy cho chúng ta nhiều điều, có thể nuôi dưỡng chúng ta, nhưng không bao giờ là nơi chứng minh sự tồn tại của chúng ta cả. Khi bản chất của cuộc sống thay đổi thì chúng ta phải tiếp tục dấn thân lên trước, không thì linh hồn sẽ héo tàn rồi chết đi.”
Tôi dành ra vài ngày tiếp theo để làm việc một mình trong im lặng, giữa khu vườn nơi những nhành hồng leo đang e ấp hé nở dọc theo bức tường đổ nát. Khi nụ hồng đầu tiên xòe cánh, tôi âu yếm cắt lấy nó và cắm vào chiếc bình bên cạnh bàn vẽ của mình. Một cách cẩn thận, tôi sao chép từng cánh hoa thanh mảnh lên trang giấy và đồ bóng bức tranh với chủ ý chính xác đến từng chi tiết. Trong những bức tranh minh họa của tôi, nó sẽ trở thành đóa hồng hoàn hảo, độc nhất mà Giai Nhân đã đánh cắp từ khu vườn của Quái Vật. Trên giấy, đóa hoa sẽ trở nên bất tử. Trong xưởng vẽ cũ kỹ, cánh hoa rụng hết chỉ trong vòng ba ngày.
Tôi tận dụng trạng thái ẩn dật nửa vời để đọc nốt tập thông tin Tom thu lượm từ người bạn làm thủ thư về chủ đề đầu thai. Các trang tài liệu trải dài từ phong trào Kỷ Nguyên Mới[1] u ám cho đến những học thuyết hàn lâm khô khốc, Nhưng cả tập tài liệu này dù sao cũng rất hấp dẫn. Tôi đặc biệt bị thu hút bởi các cách thức khác nhau mà con người nhớ lại được kiếp trước của họ.
[1] Nguyên tác: New Age, một phong trào sống và suy nghĩ phát triển vào cuối những năm 1980.
Với vài người, giống như tôi, chuyện này xảy ra một cách khá bất ngờ, hoàn toàn không thể dự liệu. Với những người khác, như những đứa trẻ chẳng hạn, lại có cách nhận thức đầy sinh động về kiếp trước của chúng và chúng chỉ mất đi những ký ức đó khi lớn lên. Thi thoảng phải cần đến một chấn thương nghiêm trọng hoặc tình trạng thôi miên trước khi những ký ức được gợi lên. Và vài người… vài người thì không bao giờ nhớ lại…
“Anh chẳng cảm nhận được gì cả”, Geoff thất vọng nói, khi một tuần sắp kết thúc. Chúng tôi đứng trong sân sau, nhìn chằm chằm xuống phiến bia mộ màu trắng đã được quét dọn sạch sẽ. Đám cỏ hỗn độn đã rạp xuống dưới chiếc máy cắt cỏ chuyên dụng của Iain, lộ ra những vạt cỏ xanh dìu dịu cùng vài bông hoa dại mọc thấp hơn ôm quanh khu đất bảo vệ. Geoff thọc hai bàn tay vào túi quần và nhìn trừng trừng, trán nhăn lại. “Chắc chắn anh sẽ cảm nhận được gì đó…”
Chúng tôi nói rất ít về những gì đã xảy ra vào tuần trước. Geoff dường như đã lật tung tất cả mọi thứ trong đầu, thăm dò chính những suy nghĩ và cảm nhận của bản thân những lúc rảnh rang. Nhìn bề ngoài, chúng tôi vẫn y hệt như trước đây. Ngày của chúng tôi vẫn trọn vẹn và đụng chạm của anh vẫn ấm áp như thế, đôi mắt anh vẫn mỉm cười mỗi khi nhìn vào mắt tôi, nhưng không hiểu sao phần nào đó trong anh đã cách xa tôi. Tôi bỏ qua, bởi chắc chắn phần ấy sẽ quay lại, và sự ám ảnh mỗi lúc một lớn, cuộc đời Mariana Farr đã che phủ hết những vấn đề lặt vặt của chính tôi.
Vào cái ngày diễn ra lễ cưới của Rachel, không cần đặt câu hỏi về khả năng giao du của tôi. Trước khi dải nắng yếu ớt đầu tiên của bình mình len lén chiếu xuống, tôi đã bật dậy và mặc quần áo, nhấc điện thoại khỏi giá treo và để bản thân mình được thư giãn chờ đợi những điều chắc chắn sẽ xảy ra.
Tình trạng này kéo dài khá lâu. Ngày mới đã bắt đầu, ánh mặt trời cuối hè sớm thứ Bảy rải khắp bên dưới bầu trời xanh ngắt hiếm có, nhưng khi nhiều giờ trôi qua, những đám mây bắt đầu thu lại, mặt trời dần dần tắt nắng và được thay thế bởi tấm màn xám ảm đạm. Bóng tối sẽ bao trùm ngay lưng chừng chiều, gió nhẹ nhàng thổi qua những khung cửa sổ của tôi cùng tiếng khóc lóc khe khẽ của một người phụ nữ.
Tôi phát hiện Rachel trong phòng ngủ chật hẹp phía trước mà cách đây không lâu đã trở thành phòng ngủ của cô ấy. Chiếc giường hẹp bị lột trần và trơ trọi, không có dấu hiệu nào cho thấy cô ấy đã ngủ trên đấy. Đêm tân hôn của cô ấy sẽ diễn ra trong căn phòng tương đối sang trọng trong góc, trên chiếc giường bốn cọc đồ sộ từng là phòng ngủ của ông bà tôi. Đây là đêm cuối cùng cô ấy ngủ trong căn nhà này.
Tôi không biết mình sẽ sống sót như thế nào nếu không có cô ấy, ý nghĩ đó đè lên trái tim tôi nặng trĩu. Tôi biết những suy nghĩ của cô ấy thậm chí còn nặng nề hơn cả tôi, dù cho cô ấy không hề chia sẻ chúng. Cô ấy dùng bàn tay kiên định chạm lên cửa sổ, nhìn chằm chằm về phía con đường mờ mịt. “Khi màn đêm buông xuống, trời sẽ đổ mưa”, cô ấy nói, nhận ra tôi đang đứng nơi khung cửa. “Các vị khách của chúng ta sẽ bị ướt mất."
“Dù thích hay không thì họ cũng chẳng để ý đâu.” Tôi bước vào phòng, đóng cánh cửa lại sau lưng để ngăn chặn tiếng ồn ào từ âm nhạc và cuộc hội hè bên dưới. “Mặc cho sự chê trách của bác tôi, họ đã uống hết hai thùng bia ông chuẩn bị rồi.”
Cô ấy thoáng cười trước tin tức đó. Rachel mặc chiếc váy đẹp nhất làm từ lụa hồng nhạt, trang trí những đường diềm, sắc màu sặc sỡ tương phản với bộ quần áo tăm tối của chồng cô ấy. Elias Webb đã chứng tỏ mình là một chú rể khắc khổ. Và trong nhà thờ sáng nay, chính mục sư cùng phải ngập ngừng suốt buổi hành lễ, như thể ông cũng gặp khó khăn khi phải kết hợp một thiếu nữ trẻ trung và sôi nổi với người đàn ông thế này.
“Tôi đảm bảo chồng tôi sẽ không quá chén”. Rachel nói. “Ông ấy có thói quen như người theo đạo Thanh giáo vậy. Cô biết mấy giờ rồi không?”
Tôi lắc đầu. “Gần đến bữa tối rồi. Nhưng tôi không biết chính xác là giờ nào. Cô sẽ nhanh chóng đi xuống chứ?”
“Hiện tại tôi…” Cô ấy đột ngột ngắt quãng, rồi áp lòng bàn tay lên khung cửa kính. Tôi đứng gần ngay sát sau lưng cô ấy, đủ gần để nhìn thấy điều cô ấy cũng thấy. Một con ngựa xám to lớn và người cưỡi ngựa không lẫn đi đâu được. Bên cạnh là Evan Gilroy ngồi hiên ngang và quả quyết trên con chiến mã hồng mao, dẫn theo đằng sau một con ngựa cái màu đen sống động, dường như họ đang khiêu vũ trên con đường mòn.
“Anh ấy đã đến”. Rachel thở hắt ra, một tiếng thở dài rã rời. “Anh ấy thực sự đã đến.” Cô ấy quay lại đối diện với tôi, đôi mắt tỏa sáng dữ dội không sao hiểu nổi. “Hãy chộp lấy hạnh phúc của mình bằng cả hai tay, Mariana ạ”, cô ấy khuyên, đôi môi run rẩy, “và giữ lấy nó thật chặt, bởi chị không thể biết lúc nào mình có thể sẽ đánh mất nó”.
Tôi muốn ôm lấy, vỗ về cô ấy, nhưng trước khi cánh tay tôi có thể cử động thì cô ấy đã lao vụt qua tôi với đôi mắt cúi xuống tuyệt vọng, và tôi không còn nghe được gì ngoại trừ âm thanh vang vọng từ những bước chân chạy xuống cầu thang. Dưới khoảnh sân bên dưới, Navarre hất mái đầu xám khi Richard xuống ngựa. Evan dẫn cả ba con ngựa về phía cây lê oằn mình nằm ở bức tường phía nam, và buộc chúng vào đó. Dưới tầng, âm thanh hội hè xập xình lên xuống, không mấy ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của những vị khách mới.
Giọng Richard trôi ngược lên trên qua lớp ván sàn bên dưới chân tôi, mang tôi khỏi cửa sổ và lao xuống cầu thang quay lại với đám đông.
“Thưa ngài”, giọng Rachel cắt ngang rõ ràng qua những âm thanh huyên náo, nụ cười thật rộng lúc cô ấy băng qua căn phòng để chào đón họ. “Chúng tôi thật vinh dự khi được tiếp đón ngài.”
Richard hạ mũ và nhã nhặn cúi chào trước bàn tay vươn ra của cô ấy. “Được ở bên cô, thưa phu nhân, là niềm vinh dự đối với bất cứ người đàn ông nào”, anh êm ái đáp lại.
Nụ cười của cô ấy không nao núng chút nào lúc hướng sự chú ý đến người đàn ông bên cạnh. “Thưa anh Gilroy”, cô ấy lại đưa bàn tay ra chào.
Nụ hôn của anh ta ngắn gọn, nhưng đôi mắt vẫn nấn ná nhìn cô. “Tôi chúc em hạnh phúc”, anh ta điềm tĩnh nói với Rachel.
Bác tôi cùng tiến lên, đôi mắt ông lạnh băng phản lại chiếc mặt nạ hiếu khách. “Hân hạnh chào đón các anh, các quý ông. Xin mời đến đây và dùng vài món với chúng tôi.”
Richard lơ đãng gật đầu, mắt anh tìm kiếm khắp căn phòng. “Ông Webb đáng kính đâu rồi?” Anh hỏi. “Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy một lát.”
Bác Jabez vẫy tay ra hiệu về phía chú rể, Elias Webb lại gần những người đàn ông, cái quắc mắt tăm tối hằn lên gương mặt nhăn nheo của ông ta. Trông Richard có vẻ không mấy chú ý đến sự chào đón lạnh nhạt của bọn họ.
“Cho phép tôi gửi đến ông lời chúc mừng của tôi”, anh nói thân thiết, “với cuộc hôn nhân tuyệt vời bậc nhất của ông”.
“Cảm ơn. thưa ngài.” Là một lời đáp khá miễn cưỡng.
Richard mỉm cười. “Tôi mong được tặng ông một món quà nhân dịp này. Trong sân, ông sẽ thấy con ngựa cái màu đen tên Barbary. Nó dành cho các quý cô và là một tùy tùng vô cùng thích hợp với vẻ đẹp của vợ ông. Xin phép ông nhận cho món quà nho nhỏ này.”
Elias Webb liếc nhìn Rachel đang đỏ bừng mặt trước khi trả lời. “Thay mặt vợ tôi, tôi xin cảm ơn và nhận món quà cưới của ngài”, ông ta nói, nhưng rõ ràng không hề hài lòng.
Các nhạc công, đánh đàn luýt, sáo và uống prôvăng khuấy động lên bầu không khí vui nhộn, Richard nghiêng đầu lắng nghe.
“Một giai điệu đáng yêu”, anh bình luận. “Nói tôi nghe xem, thưa ông, liệu ông có nghĩ tôi quá táo bạo khi cả gan mời người vợ đáng yêu của ông một điệu nhảy không?”
Khuôn mặt xấu xí của chú rể đông cứng. “Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ngài, rẳng tôi không thể cho phép vợ tôi khiêu vũ trong đám cưới. m nhạc và bia rượu thi tôi có thể chịu được, nếu dùng một cách điều độ. Nhưng khiêu vũ là trò tiêu khiển của ma quỷ.”
Richard không nhìn tôi lấy một lần kể từ khi tôi xuống cầu thang, tôi nghĩ anh không nhận ra sự hiện diện của tôi, nhưng giờ đôi mắt anh tìm thấy luồng mắt tôi một cách chính xác. Tôi áp lưng vào bức tường ốp gỗ, cầu nguyện anh sẽ không mời tôi khiêu vũ, bởi bác tôi đang đứng đây ngay bên vai anh thế này.
Từ nụ cười của anh, tôi biết ý tưởng này rõ ràng cũng lóe lên trong óc anh, nhưng anh lịch sự nhìn ra chỗ khác, xin Rachel cùng chồng cô thứ lỗi, để hòa vào cùng những vị khách khác, Evan Gilroy theo sau.
Vài phút trôi qua, khi băng qua các vị khách để rót đầy rượu cho họ, tôi thấy anh đang đứng ngay bên cạnh mình.
“Em sẽ làm tổn thưong lòng kiêu hãnh của anh”, anh dịu dàng cảnh báo, “nếu cứ lờ anh đi như thế”.
Tôi ném cho anh một ánh nhìn một nửa mang tính thiếu kiên nhẫn. “Em không được phép nói chuyện với anh, theo yêu cầu của bác em.”
“Và khi nào thì em bắt đầu tuân theo các yêu cầu đó vậy?” Anh giơ ly của mình ra cho tôi rót, miệng cong lên thích thú. “Bên cạnh đó, lúc này bác em bận rồi, với phần lớn các quý ông nghiêm nghị. Nếu ông ta có nhìn theo hướng này, anh chỉ cần hụp đầu xuống là ổn.”
“Ngài đúng là không sao chấp nhận được đấy, thưa ngài.”
“Thưa vâng. Và khiếu hài hước của cô đúng là quá thiếu sót đấy, thưa cô. Điều gì làm em khó chịu đến thế?”
Tôi nhăn mặt cúi thấp đầu. “Em xin lỗi, thưa ngài, nhưng ngày hôm nay bụng em cứ quặn thắt hết cả lên. Làm sao anh có thể mang Evan đến đây được?”
Giọng anh điềm tĩnh. “Bọn anh được mời mà.”
“Rachel đã đủ khổ sở lắm rồi, đấy là còn chưa nhắc đến niềm hạnh phúc cô ấy đã trải qua nữa, việc anh ta dường như chẳng mấy bị ảnh hưởng vì đám cưới của cô ấy càng làm mọi chuyện xấu hơn.”
Đôi mắt Richard dõi theo mắt tôi nhìn về phía dáng hình dong dỏng, im lặng của Evan Gilroy, anh ta đang đứng uể oải dựa vào bức tường cạnh lò sưởi, một chân đi bốt xấc xược gác lên lò sưởi nguội ngắt.
“Đây nào có phải đám cưới”, Richard phủ nhận với nụ cười thoáng xấu xa, “cho đến khi nó được hoàn thành”.
Đúng lúc đó thì bác tôi quay lại và nhìn thấy chúng tôi, mặc cho lời hứa sẽ hụp đầu xuống của Richard de Mornay. Thay vào đấy anh nâng ly của mình lên, giọng nói đầy biểu cảm vang rền khi anh kêu gọi mọi người nâng ly chúc mừng.
“Vì bệ hạ, nhà vua Charles!”
“Vì nhà vua!” Tất cả mọi người đồng loạt nâng ly lên đáp lời, rồi uống cạn. Bác tôi cũng nâng ly chúc mừng, nhưng đôi mắt ông híp lại và trở liên khắc nghiệt lúc hạ cốc xuống.
“Vì cô dâu và chú rể!” Ai đó hét lên, từ phía sau căn phòng, một lần nữa đoạn điệp khúc lại đồng thanh hô vang và những chiếc ly lại được giơ cao.
“Vì tình yêu”, Evan Gilroy đề nghị bằng chất giọng đều đều, sinh động, không buồn chuyển động từ vị trí cạnh lò sưởi. Lần thứ ba, các giọng nói đồng thanh lặp lại và rượu mừng lại được uống cạn. Richard gắn chặt đôi mắt lên tôi trong khi uống cạn ly của mình, rồi đặt nó xuống kèm theo một cái nháy mắt.
“Em hãy ghi nhớ cái cách anh đã uống ly rượu mừng này”, anh nói với tôi trước khi bỏ đi.
Không lâu sau đó món sack posset[2] lại được bưng ra, mùi hương nồng nàn ấm áp của sữa đặc hòa trong rượu vang Tây Ban Nha cùng hương liệu bốc lên, đó cũng là lúc những chiếc đèn cháy hết được châm lên, ngọn lửa cũng được nhóm trong phòng ngủ trên tầng, nơi chiếc giường cỡ đại được chuẩn bị cho đôi vợ chồng tân hôn.
[2] Rượu vang pha với sữa đặc thêm vào một chút hương liệu.
Caroline và tôi hộ tống Rachel lên phòng ngủ để giúp cô ấy thay váy. Vài phút nữa là tất cả các vị khách sẽ theo sau, theo phong tục bắt buộc, để quăng tất của cô dâu[3] và chứng kiến cặp đôi mới cưới đi vào phòng ngủ. Rachel rõ ràng không có hứng thú với viễn cảnh ấy, nhưng cô ấy vẫn đờ người ngồi im dưới sự giúp đỡ của chúng tôi.
[3] Theo tục lệ, cô dâu sẽ ném tất vào đám đông, như trao tặng may mắn cho người nào bắt được nó.
“Em phải vui lên”, Caroline vừa véo vào má Rachel cho có thêm sắc hồng vừa trách em gái. “Đây có phải đám tang đâu. Jabez đã gả em cho một người đàn ông giàu có và đáng kính trọng, em nên thể hiện lòng biết ơn của mình rõ ràng hơn.”
“Em đang rất biết ơn đây”, Rachel đều giọng nói.
Caroline cuống quýt sửa sang tóc cho Rachel, và chặc lưỡi. “Trông em chẳng có gì là biết ơn cả. Em phải mỉm cười, và nói…”
“Ôi, cứ kệ cô ấy đi, Caroline!” Tôi quát lên, lòng kiên nhẫn của tôi mỗi lúc lại bị bóp méo, những âm thanh ồn ào ngưng bặt. Tôi nhìn đôi mắt Rachel qua tấm gương. “Cô có muốn chúng tôi ở với cô không?”
Cô ấy chậm rãi lắc đầu. “Tôi nghĩ mình thích ở một mình hơn, nếu cả hai không phiền. Tôi sẽ có thời gian để suy nghĩ, và…” Cô ấy ngừng lại, mỉm cười với chị gái. “Cầu nguyện Chúa sẽ biến em thành một người vợ tốt và biết nghe lời.”
Cô ấy đứng dậy ôm lấy cả hai chúng tôi, trông tái nhợt và đáng yêu trong bộ váy ngủ thướt tha. “Tôi sẽ nhớ chị lắm”, cô ấy thì thầm bên tai tôi, bám chặt lấy tôi với sự tuyệt vọng không khác gì một đứa trẻ đang sợ hãi.
“Chúng tôi sẽ đến thăm cô thường xuyên”, tôi run run hứa. “Cô sẽ chẳng có lý gì để nhớ tôi đâu.”
Cô ấy đơn giản chỉ lắc đầu, đôi mắt rạng ngời với những giọt nước mắt, và lại ôm tôi. Tôi mang tâm trí bồn chồn muốn rút lui. Dưới nhà, cuộc vui tưng bừng với những đợt chúc tụng và ca hát, tất cả các vị khách đều tỏ ra phấn khởi lúc tập trung nhau lại hộ tống chú rể vào phòng tân hôn. Tôi không có lòng dạ nào để tham gia với họ, khi cuối cùng họ cũng lên đến cầu thang, tôi vẫn còn rầu rĩ lừng khừng nơi hành lang, hy vọng mình sẽ không bị coi là vắng mặt.
Tôi chỉ ngờ ngợ nhận ra âm thanh từ những giọng nói ầm ĩ dần đứt quãng, rồi thay đổi, càng lúc càng trở nên chói tai. Mọi người dường như đang quay lại, lũ lượt kéo xuống cầu thang hẹp trong bầu không khí kích động, run rẩy tràn ra từng góc của đại sảnh, bác tôi đứng giữa tất cả, khuôn mặt sầm sì và nguy hiểm hơn bao giờ hết.
“Lấy ngựa!” Ông ra lệnh với những người xung quanh. “Chúng sẽ không bỏ trốn được. Vì Chúa”, ông gầm lên, trông dáng đứng vô cùng cao lớn. “chúng sẽ không bỏ trốn được thế này!”.
Bầu không khí xung quanh tôi nháo nhào kích động, phủ đầy những tiếng thì thầm hăm hở. “Đi rồi… có nghe thấy gì không…? Đương nhiên là qua cửa sổ… Gilroy đó, trời ạ, từ tòa trang viên… không thể nghi ngờ chuyện gì cả…”
Elias Webb, run rẩy vì giận dữ, gạt qua cả đống người chen chúc để lao về phía tôi. “Mở cửa ra!” Ông ta ra lệnh, tôi tự động nghe theo, rồi tôi ép chặt bản thân lên cánh cửa để ông ta đi qua. Vài người đàn ông khác theo ông ta ra ngoài bãi cỏ, chủ động tỏa đi tất cả các hướng. Theo bản năng, tôi nhìn qua họ đến chỗ Evan đã buộc những con ngựa. Navarre đứng một mình dưới ánh trăng, bóng dáng màu xám mơ hồ với mái đầu xoay thẳng về phía những ngọn đồi ở tít xa.
Tôi rời ánh mắt khỏi nó và xoay người lại. Richard de Mornay đang đứng nơi lưng chừng cầu thang, một bờ vai dựa lên bức tường sau lưng, hai cánh tay anh thư thái khoanh trước ngực. Bên trên cả biển những khuôn mặt kinh ngạc, đôi mắt anh chạm mắt tôi, và anh mỉm cười.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook