Lục Hào
-
Quyển 1 - Chương 9
Nghĩ thông suốt điểm mấu chốt này, Nghiêm Tranh Minh đã hiểu rõ mình cần phải xuống núi du lịch một phen.
Khổ cực lầm than có thể rèn thân thể, vui mừng xa hận có thể luyện tinh thần.
Phù Dao mộc kiếm tuy là kiếm pháp nhập môn, lại không bàn mà hợp với đời người thăng trầm, đây không thể nào nhắm mắt làm liều có thể được. Cả ngày y cứ ngâm mình trên núi Phù Dao yên bình, sợ rằng ngàn năm vạn năm cũng không hơn được chốn hồng trần cuồn cuộn kia.
Không phải ai cũng có thể gặp được loại cơ duyên chỉ điểm trùng hợp này, có thể biết bình cảnh của mình ở đâu, thông thường người tu hành gặp phải loại tình huống này, tất nhiên sẽ mừng rỡ như điên, chẳng ngại khó khăn, đợi ngày phá vỡ bức tường.
Nhưng Nghiêm thiếu gia y là người bình thường sao?
“Xuống núi du lịch” bốn chữ này chợt loé lên trong đầu óc như bình hoa trang trí của y, lập tức đã bị ảo tưởng cảnh màn trời chiếu đất dưới núi, sống nơi đất khách quê người phiền phức tự y vẽ ra che mất.
Vừa nhắc tới xuống núi, chỉ cần nghĩ phải đem bao nhiêu hành lý, Nghiêm Tranh Minh cảm thấy phiền đến đau đầu, gân cốt toàn thân lười biếng đều hô hào tạo phản, sống chết cũng ngán bước chân y tiến vào chặng đường phía trước.
“Du lịch?” Sau cùng, thiếu gia với tấm lòng không hề vụ lợi nghĩ rằng, “Ai thích đi cứ đi, ta không đi —— bình cảnh thì bình cảnh, quản làm chi.”
Nghiêm Tranh Minh hạ quyết tâm, y dự định sẽ quên chuyện kiếm pháp không lưu loát này, chỉ ghi nhớ kiếm chiêu, coi như mình đã học xong toàn bộ rồi, ngày mai đòi sư phụ dạy thức thứ tư.
Đại sư huynh không có chí lớn, được ngày nào hay ngày ấy này, yên tâm thoải mái mà tiếp tục lười biếng, y vung tay bắn ra mấy hòn đá nhỏ, giúp sư phụ đánh rớt tên tứ sư đệ đang leo cây lấy mộc kiếm khèo tổ chim, hướng đi rất chuẩn, lực đạo vừa phải.
Nghiêm Tranh Minh nhìn Hàn Uyên kêu gào la khóc nằm ăn vạ trên mặt đất, tự cảm thấy công phu đã có chút thành tựu, có thể không cần chăm chỉ quá mức nữa.
Quá ngọ, cuối cùng cũng kết thúc một ngày sư trò hành hạ lẫn nhau.
Ngoại trừ đại sư huynh ra, những người khác đều trở về chỗ của mình, ăn cơm nghỉ ngơi dưỡng sức, buổi chiều mỗi người tự học —— không muốn tự học cũng có thể lên núi chơi với khỉ.
Mộc Xuân chân nhân áp dụng phương pháp thả rong với các đệ tử, chỉ dặn bọn họ tuân thủ môn quy, đêm mùng một và mười lăm mỗi tháng đàng hoàng một chút, không được chạy bừa trong núi.
Riêng Nghiêm Tranh Minh buổi chiều vẫn phải ở lại tiếp tục đối diện với gương mặt già nua của sư phụ.
Mắt thấy các đạo đồng lần lượt mang gỗ và dao khắc đến, Lý Quân liền giải thích cho hai sư đệ mới: “Đó chính là phù chú. Phù chú chia làm minh phù và ám phù, minh phù chính là loại được khắc trên mọi đồ vật, thường thấy nhất là mảnh gỗ, nếu là cao thủ, sắt đá cũng có thể làm vật liệu. Ám phù thì lợi hại hơn, nước hay không khí, thậm chí là ý nghĩ đều có thể trở thành phù chú —— chẳng qua đây đều là truyền thuyết, chưa ai từng thấy qua, phỏng chừng phải là đại năng mới có thể làm được.”
Trình Tiềm làm bộ chẳng tò mò chút nào, kỳ thực hai lỗ tai đều dựng lên.
Dù sao phù chú là tiên khí căn bản, mà tiên khí chính là ấn tượng trực quan của bách tính bình thường đối với tu tiên.
Hàn Uyên sáp lại gần hỏi: “Nhị sư huynh, đại năng là cái gì?”
Lý Quân nhe răng cười với gã: “Trên đời này nào có ai dám xưng ‘đại năng’, những đại năng chân chính đều đã sớm thăng thiên rồi.”
Hàn Uyên chẳng có ấn tượng tốt đẹp gì với đại sư huynh, nhưng cũng biết mình không thể trêu vào y, huống hồ nhóc ăn mày không giống như Trình Tiềm, có thù cũng không nhớ dai, một bao hạt thông đường đủ để gã cười một cái quên sạch thù hận.
Gã có chút hâm mộ nhìn theo bóng lưng tự do buông tuồng của Nghiêm Tranh Minh, chạy theo hỏi Lý Quân: “Sư huynh này, khi nào thì chúng ta có thể học khắc cái kia?”
“Chúng ta không học được,” Lý Quân xua tay, giả vờ tiếc nuối nói, “Muốn học phù chú, trước hết phải cảm được khí —— đệ chớ hỏi ta cái gì là khí cảm, ta cũng không biết. Sư phụ có nói đó là một cảm giác huyền diệu có thể nối liền trời đất… Sư phụ hả, sau này đệ sẽ hiểu, không cần quá để ý lời ông nói, có để ý đệ cũng chẳng hiểu.”
Lý Quân môi mỏng, khoé miệng hơi nhếch, không cười đã có ba phần tiếu ý, cười rộ lên càng thấy không tốt lành gì, gã nói đến đây, còn cố ý dừng lại một chút, tiện thể làm bộ nhíu mày: “Có người cả đời đều không cảm giác được khí cảm, một số là do tư chất không tốt, một số là do vận may quá kém.”
Hàn Uyên nghe xong cảm thấy căng thẳng, không tự chủ mà ưỡn thẳng lưng: “Vậy thì thật là đáng tiếc.”
“Tất nhiên đáng tiếc,” Lý Quân nói, “Không có khí cảm, cho dù chúng ta có luyện mộc kiếm giỏi đến đâu, cũng chỉ để cường thân kiện thể, không có tác dụng gì lớn.”
Thoạt đầu, Trình Tiềm không để ý lời của Lý Quân, bởi trong lòng nó đã nhận định Nghiêm Tranh Minh là một cái gối thêu hoa. Nghiêm Tranh Minh mà cũng có thể lăn lộn bảy tám năm có được khí cảm, chẳng lẽ nó còn không bằng một cái gối, chi bằng sớm ngày bóp chết tâm tư cầu tiên vấn đạo, về quê trồng trọt buôn bán nhỏ lẻ.
Thế nhưng khi Lý Quân nói đến đây, trong lời nói còn có hàm ý, ngay cả ý tứ mời mọc trong đó cũng đã bị Trình Tiềm nghe ra.
Trình Tiềm ngoảnh đầu nhìn Lý Quân, chậm rãi mở miệng: “Đệ nghe thấy trong ý của nhị sư huynh chắc đã biết phương pháp gì có thể thức tỉnh khí cảm?”
Lý Quân nở nụ cười với nó, đuôi mày khoé mắt đều cong cong giống như một cái móc câu, nhìn Trình Tiềm đầy hứng thú, chỉ nhìn chứ không nói gì.
Trình Tiềm mới không mắc lừa, thờ ơ nói: “À, vậy thì tốt quá, chúc sư huynh sớm ngày hoàn thành mong ước.”
Nếu thật có cách để luyện khí cảm, Lý Quân nhập môn một năm sao không làm? Rõ ràng là đang có chủ ý xấu, muốn tìm một kẻ chết thay giúp mình thử nghiệm.
Nhóc con này đầu óc quá nhanh nhạy, cặp mắt lưỡi câu của Lý Quân co lại.
Trái lại Hàn Uyên đứng ngồi không yên, nghe vậy lập tức hỏi tới: “Cái gì? Phương pháp gì?”
Vì vậy Lý Quân bỏ qua Trình Tiềm, quay đầu bán cho Hàn Uyên một cái gút mắc: “Không thể nói, trái với môn quy.”
Ngoài miệng gã nói “Không thể nói”, trong giọng lại “Hỏi nhanh đi”.
Lý Quân đào một cái hố to chừng một đấu ngay trước mặt, Hàn Uyên cũng rất phối hợp, không nói hai lời đã một bước lọt vô.
Cứ như lúc biến cóc lúc nãy đã khiến Hàn Uyên kết thành đôi bạn tâm đầu ý hợp với nhị sư huynh, dây dưa theo hỏi, Lý Quân “bất đắc dĩ lắm”, “từ chối bằng mọi cách rồi”, mới nói nhỏ: “Ta từng đọc một quyển sách nói về ngọn núi của phái Phù Dao chúng ta, trong đó nói dưới núi này có trấn áp một con đại yêu, đêm mùng một và mười lăm mỗi tháng —— cũng chính là mùng một và mười lăm này —— yêu khí của đại yêu và mặt trăng hoà vào nhau, thanh khí và trọc khí trong núi bị khuấy động, tụ lại trong sơn huyệt, ở trong sơn huyệt sau núi lúc bấy giờ, ngay cả người phàm chưa nhập môn cũng có thể cảm nhận được khí này.”
Lý Quân đổi giọng: “Tất nhiên, chưởng môn sư phụ chúng ta có lệnh, hai đêm mùng một và mười lăm hàng tháng cấm chúng đệ tử ra khỏi cửa, sơn huyệt càng là cấm địa, không được đi.”
Hàn Uyên nghe xong dường như có điều suy nghĩ.
Lý Quân làm bộ khuyên nhủ: “Các sư đệ mới nhập môn, có thể vẫn chưa bắt đầu đọc bảy bảy bốn mươi chín lần môn quy nhỉ? Trong đó viết rất rõ ràng, tư chất tốt như tiểu sư đệ đây, nghìn vạn lần phải tu hành từng bước, một ngày nào đó sẽ cảm được khí, tội gì đêm ngày nghĩ đến đường tắt, làm trái môn quy, có đúng không, tam sư đệ?”
Trình Tiềm ngoài cười nhưng trong không cười đáp lời: “Nhị sư huynh nói đúng.”
Lý Quân: “…”
Lý Quân quan sát Trình Tiềm từ trên xuống dưới một phen, tam sư đệ không ưa nói chuyện của gã dáng người không lớn kịp tuổi, vừa gầy lại nhỏ, cúi đầu một cái chẳng ai thấy mặt.
Nhất thời Lý Quân có chút không làm rõ được, tam sư đệ này là vì tuổi còn nhỏ nhát gan, không giỏi ăn nói, hay là đầu óc còn cao hơn vẻ ngoài?
Câu hùa theo của Trình Tiềm khiến Lý Quân nghẹn họng chẳng biết nên tiến hay lùi, Lý Quân miễn cưỡng cười một cái: “Tam sư đệ ngoan thật!”
Cách đó không xa, Nghiêm Tranh Minh nhận lấy chén nước ô mai hoa quế do đạo đồng dâng lên, ngẩng đầu một cái vừa vặn bắt gặp màn này, y luôn cảm thấy tên tiểu tử Lý Quân kia tâm thuật bất chính, đặc biệt khi gã nhe răng cười, y có thể nhìn thấu mưu mô từ trong đôi mắt gã nhị sư đệ.
Đột nhiên Nghiêm Tranh Minh nảy ra ý nghĩ nông nổi, nghiêng đầu nói với đạo đồng bên cạnh: “Cái tên nhóc tên là… Cái tên lùn nhất đám ấy, ta quên rồi, nó tên gì?”
Đạo đồng lo lắng trả lời: “Đó là tam sư thúc Trình Tiềm.”
“À, là nó,” Nghiêm Tranh Minh gật đầu, “Nói nó đợi ta một lát, đợi ta luyện xong phù chú, nói với nó là sư phụ sai ta chỉ kiếm pháp cho nó.”
“Lúc bảo nó chỉ thì nó không nói tiếng nào, giờ thì lấy vi sư làm cái cớ.” Mộc Xuân chân nhân nghe xong chậm rãi nghĩ thầm, nhưng ông chỉ giương mắt nhìn Nghiêm Tranh Minh chứ không mở miệng vạch trần —— thiếu gia lớn lên giữa ngọn núi rộng lớn này chắc hẳn thấy cô đơn, khó lắm mới có một đứa trẻ có thể ở cùng nó.
Đạo đồng chạy đi truyền lời, Trình Tiềm nghe xong không ừ hử gì, chẳng qua là cảm thấy đại sư huynh có thể đã uống nhầm thuốc.
Hàn Uyên lầu bầu lưu luyến chia tay: “Vậy mà ta còn định rủ ngươi đi chơi.”
Trình Tiềm nhìn gã một cái, nghĩ thầm: “Ngươi đi mà tìm nhị sư huynh chơi ấy.”
Nó ôm một bụng giễu cợt, vờ như không có chuyện gì xảy ra mà tạm biệt Lý Quân và Hàn Uyên, vâng lời lẳng lặng đợi ở một bên —— dĩ nhiên không phải vì đợi Nghiêm thiếu gia chẳng biết là sư huynh hay sư tỷ kia, thật ra Trình Tiềm cảm thấy tò mò với “Phù chú” hơn.
Đáng tiếc, rất nhanh nó đã phát hiện, người không cảm được khí chẳng thấy chỗ huyền diệu của phù chú —— có chăng nó thấy, đại sư huynh cả buổi chiều chẳng làm gì cả, chỉ ở dưới mắt sư phụ, cầm dao nhỏ khắc đường thẳng lên mảnh gỗ.
Thu hoạch duy nhất trong chuyến này của Trình Tiềm chính là có thể thấy mặt nghiêm nghị của sư phụ lão nhân gia.
Đại sư huynh không ngoài dự đoán của nó, là một cái gối thêu hoa không hơn không kém, chỉ ngồi một chốc, cái mông như bị mọc đinh, trái õng phải ẹo, luôn miệng sai phái các đạo đồng thị nữ vây quanh.
Y một hồi chê búi tóc chặt quá, đòi chải lại từ đầu, một hồi chê trên người có mồ hôi, đòi đi về thay quần áo, một hồi đòi đi đại tiện, một hồi đòi uống nước… Nước được bưng tới, nếu không chê lạnh thì sẽ chê nóng, chê này chê kia, chẳng ngồi yên được.
Y còn thường xuyên thẩn thờ, thường xuyên hết nhìn đông lại nhìn tây, thường xuyên oán thầm Lý Quân, Mộc Xuân, thỉnh thoảng còn ngâm nga một khúc ca bọn thị nữ mới soạn, tâm tư hoàn toàn không đặt vào việc khắc gỗ.
Tuy Trình Tiềm không rõ khắc lên miếng gỗ có cái gì tốt, nhưng với điệu bộ thế này của đại sư huynh, vẫn cảm thấy chướng mắt mắng thầm: “Đồ lừa lười!”
Mộc Xuân chân nhân sớm đã biết tên đệ tử không nên thân sẽ làm mấy trò này, ông đặt một cái đồng hồ cát trên bàn Nghiêm Tranh Minh. Đồng hồ cát là một món tiên khí rất tinh xảo, cát sẽ chảy hết trong vòng nửa canh giờ là Nghiêm Tranh Minh cũng có thể kết thúc buổi luyện tập, chỉ cần y vừa mới ngẩn người một cái, cát sẽ ngừng chảy ngay lập tức, đồng hồ cát nửa canh giờ có khi kéo dài đến tận trời tối.
Nghiêm Tranh Minh vốn còn nghĩ ở phương diện “qua loa cho xong chuyện” này, hai thầy trò bọn họ có thể làm một đôi tri âm, nhưng cứ mỗi lần đến lúc luyện phù chú, thái độ của sư phụ đều khác thường, có chút không hợp tình hợp lý.
Mộc Xuân chân nhân từng nói, thật ra y coi như là lấy kiếm nhập đạo. Mà những người lấy kiếm nhập đạo đa số tâm chí kiên định, chẳng qua cũng có ngoại lệ, điển hình như Nghiêm thiếu gia đây, vì thế cần phải rèn luyện gấp đôi, mới không uổng phí.
Trình Tiềm ở bên cạnh nhìn một hồi, cảm thấy chẳng có ích gì với mình, liền thu hồi ánh mắt, nhỏ giọng nhờ đạo đồng gần bên mang giấy bút tới, nó bắt đầu tiến hành bài học ngày đầu tiên —— trước hết là chép lại môn quy, sau đó chép luôn “Thanh tĩnh kinh” buổi sáng của sư phụ.
Mộc Xuân thấy thế, vẻ mặt nghiêm nghị cũng nhu hoà hơn, vẫy tay với nó: “Trình Tiềm qua đây, chỗ của con bị che bóng.”
Nghiêm Tranh Minh chau mày, ngẩng đầu đối diện với đôi mắt tam giác của sư phụ.
Giữa trưa thế này làm gì có chỗ nào che bóng? Rõ ràng sư phụ muốn y mất mặt, để y nhìn lại chính mình còn không kiên định bằng một thằng nhóc.
Nghiêm Tranh Minh nghiêng đầu nhìn thoáng chữ của Trình Tiềm, nhất thời đã quên chính mình muốn giữ nó lại, không biết điều mà giận chó đánh mèo nói: “Chân chó nhìn còn ngay ngắn hơn chữ này.”
Dù sao Trình Tiềm vẫn còn nhỏ, lòng dạ có hạn, nghe vậy cũng không ngẩng đầu lên chỉ phản kích: “Đa tạ đại sư huynh giáo huấn, chân chó có ngay ngắn thế nào cũng vô dụng, bởi vì căn bản con súc sinh kia ngồi không yên.”
Nói xong, nó còn liếc nhìn cái đồng hồ cát, mà Nghiêm thiếu gia tức sùi bọt mép phát hiện, cái đồng hồ cát chết tiệt kia lại ngừng.
Khổ cực lầm than có thể rèn thân thể, vui mừng xa hận có thể luyện tinh thần.
Phù Dao mộc kiếm tuy là kiếm pháp nhập môn, lại không bàn mà hợp với đời người thăng trầm, đây không thể nào nhắm mắt làm liều có thể được. Cả ngày y cứ ngâm mình trên núi Phù Dao yên bình, sợ rằng ngàn năm vạn năm cũng không hơn được chốn hồng trần cuồn cuộn kia.
Không phải ai cũng có thể gặp được loại cơ duyên chỉ điểm trùng hợp này, có thể biết bình cảnh của mình ở đâu, thông thường người tu hành gặp phải loại tình huống này, tất nhiên sẽ mừng rỡ như điên, chẳng ngại khó khăn, đợi ngày phá vỡ bức tường.
Nhưng Nghiêm thiếu gia y là người bình thường sao?
“Xuống núi du lịch” bốn chữ này chợt loé lên trong đầu óc như bình hoa trang trí của y, lập tức đã bị ảo tưởng cảnh màn trời chiếu đất dưới núi, sống nơi đất khách quê người phiền phức tự y vẽ ra che mất.
Vừa nhắc tới xuống núi, chỉ cần nghĩ phải đem bao nhiêu hành lý, Nghiêm Tranh Minh cảm thấy phiền đến đau đầu, gân cốt toàn thân lười biếng đều hô hào tạo phản, sống chết cũng ngán bước chân y tiến vào chặng đường phía trước.
“Du lịch?” Sau cùng, thiếu gia với tấm lòng không hề vụ lợi nghĩ rằng, “Ai thích đi cứ đi, ta không đi —— bình cảnh thì bình cảnh, quản làm chi.”
Nghiêm Tranh Minh hạ quyết tâm, y dự định sẽ quên chuyện kiếm pháp không lưu loát này, chỉ ghi nhớ kiếm chiêu, coi như mình đã học xong toàn bộ rồi, ngày mai đòi sư phụ dạy thức thứ tư.
Đại sư huynh không có chí lớn, được ngày nào hay ngày ấy này, yên tâm thoải mái mà tiếp tục lười biếng, y vung tay bắn ra mấy hòn đá nhỏ, giúp sư phụ đánh rớt tên tứ sư đệ đang leo cây lấy mộc kiếm khèo tổ chim, hướng đi rất chuẩn, lực đạo vừa phải.
Nghiêm Tranh Minh nhìn Hàn Uyên kêu gào la khóc nằm ăn vạ trên mặt đất, tự cảm thấy công phu đã có chút thành tựu, có thể không cần chăm chỉ quá mức nữa.
Quá ngọ, cuối cùng cũng kết thúc một ngày sư trò hành hạ lẫn nhau.
Ngoại trừ đại sư huynh ra, những người khác đều trở về chỗ của mình, ăn cơm nghỉ ngơi dưỡng sức, buổi chiều mỗi người tự học —— không muốn tự học cũng có thể lên núi chơi với khỉ.
Mộc Xuân chân nhân áp dụng phương pháp thả rong với các đệ tử, chỉ dặn bọn họ tuân thủ môn quy, đêm mùng một và mười lăm mỗi tháng đàng hoàng một chút, không được chạy bừa trong núi.
Riêng Nghiêm Tranh Minh buổi chiều vẫn phải ở lại tiếp tục đối diện với gương mặt già nua của sư phụ.
Mắt thấy các đạo đồng lần lượt mang gỗ và dao khắc đến, Lý Quân liền giải thích cho hai sư đệ mới: “Đó chính là phù chú. Phù chú chia làm minh phù và ám phù, minh phù chính là loại được khắc trên mọi đồ vật, thường thấy nhất là mảnh gỗ, nếu là cao thủ, sắt đá cũng có thể làm vật liệu. Ám phù thì lợi hại hơn, nước hay không khí, thậm chí là ý nghĩ đều có thể trở thành phù chú —— chẳng qua đây đều là truyền thuyết, chưa ai từng thấy qua, phỏng chừng phải là đại năng mới có thể làm được.”
Trình Tiềm làm bộ chẳng tò mò chút nào, kỳ thực hai lỗ tai đều dựng lên.
Dù sao phù chú là tiên khí căn bản, mà tiên khí chính là ấn tượng trực quan của bách tính bình thường đối với tu tiên.
Hàn Uyên sáp lại gần hỏi: “Nhị sư huynh, đại năng là cái gì?”
Lý Quân nhe răng cười với gã: “Trên đời này nào có ai dám xưng ‘đại năng’, những đại năng chân chính đều đã sớm thăng thiên rồi.”
Hàn Uyên chẳng có ấn tượng tốt đẹp gì với đại sư huynh, nhưng cũng biết mình không thể trêu vào y, huống hồ nhóc ăn mày không giống như Trình Tiềm, có thù cũng không nhớ dai, một bao hạt thông đường đủ để gã cười một cái quên sạch thù hận.
Gã có chút hâm mộ nhìn theo bóng lưng tự do buông tuồng của Nghiêm Tranh Minh, chạy theo hỏi Lý Quân: “Sư huynh này, khi nào thì chúng ta có thể học khắc cái kia?”
“Chúng ta không học được,” Lý Quân xua tay, giả vờ tiếc nuối nói, “Muốn học phù chú, trước hết phải cảm được khí —— đệ chớ hỏi ta cái gì là khí cảm, ta cũng không biết. Sư phụ có nói đó là một cảm giác huyền diệu có thể nối liền trời đất… Sư phụ hả, sau này đệ sẽ hiểu, không cần quá để ý lời ông nói, có để ý đệ cũng chẳng hiểu.”
Lý Quân môi mỏng, khoé miệng hơi nhếch, không cười đã có ba phần tiếu ý, cười rộ lên càng thấy không tốt lành gì, gã nói đến đây, còn cố ý dừng lại một chút, tiện thể làm bộ nhíu mày: “Có người cả đời đều không cảm giác được khí cảm, một số là do tư chất không tốt, một số là do vận may quá kém.”
Hàn Uyên nghe xong cảm thấy căng thẳng, không tự chủ mà ưỡn thẳng lưng: “Vậy thì thật là đáng tiếc.”
“Tất nhiên đáng tiếc,” Lý Quân nói, “Không có khí cảm, cho dù chúng ta có luyện mộc kiếm giỏi đến đâu, cũng chỉ để cường thân kiện thể, không có tác dụng gì lớn.”
Thoạt đầu, Trình Tiềm không để ý lời của Lý Quân, bởi trong lòng nó đã nhận định Nghiêm Tranh Minh là một cái gối thêu hoa. Nghiêm Tranh Minh mà cũng có thể lăn lộn bảy tám năm có được khí cảm, chẳng lẽ nó còn không bằng một cái gối, chi bằng sớm ngày bóp chết tâm tư cầu tiên vấn đạo, về quê trồng trọt buôn bán nhỏ lẻ.
Thế nhưng khi Lý Quân nói đến đây, trong lời nói còn có hàm ý, ngay cả ý tứ mời mọc trong đó cũng đã bị Trình Tiềm nghe ra.
Trình Tiềm ngoảnh đầu nhìn Lý Quân, chậm rãi mở miệng: “Đệ nghe thấy trong ý của nhị sư huynh chắc đã biết phương pháp gì có thể thức tỉnh khí cảm?”
Lý Quân nở nụ cười với nó, đuôi mày khoé mắt đều cong cong giống như một cái móc câu, nhìn Trình Tiềm đầy hứng thú, chỉ nhìn chứ không nói gì.
Trình Tiềm mới không mắc lừa, thờ ơ nói: “À, vậy thì tốt quá, chúc sư huynh sớm ngày hoàn thành mong ước.”
Nếu thật có cách để luyện khí cảm, Lý Quân nhập môn một năm sao không làm? Rõ ràng là đang có chủ ý xấu, muốn tìm một kẻ chết thay giúp mình thử nghiệm.
Nhóc con này đầu óc quá nhanh nhạy, cặp mắt lưỡi câu của Lý Quân co lại.
Trái lại Hàn Uyên đứng ngồi không yên, nghe vậy lập tức hỏi tới: “Cái gì? Phương pháp gì?”
Vì vậy Lý Quân bỏ qua Trình Tiềm, quay đầu bán cho Hàn Uyên một cái gút mắc: “Không thể nói, trái với môn quy.”
Ngoài miệng gã nói “Không thể nói”, trong giọng lại “Hỏi nhanh đi”.
Lý Quân đào một cái hố to chừng một đấu ngay trước mặt, Hàn Uyên cũng rất phối hợp, không nói hai lời đã một bước lọt vô.
Cứ như lúc biến cóc lúc nãy đã khiến Hàn Uyên kết thành đôi bạn tâm đầu ý hợp với nhị sư huynh, dây dưa theo hỏi, Lý Quân “bất đắc dĩ lắm”, “từ chối bằng mọi cách rồi”, mới nói nhỏ: “Ta từng đọc một quyển sách nói về ngọn núi của phái Phù Dao chúng ta, trong đó nói dưới núi này có trấn áp một con đại yêu, đêm mùng một và mười lăm mỗi tháng —— cũng chính là mùng một và mười lăm này —— yêu khí của đại yêu và mặt trăng hoà vào nhau, thanh khí và trọc khí trong núi bị khuấy động, tụ lại trong sơn huyệt, ở trong sơn huyệt sau núi lúc bấy giờ, ngay cả người phàm chưa nhập môn cũng có thể cảm nhận được khí này.”
Lý Quân đổi giọng: “Tất nhiên, chưởng môn sư phụ chúng ta có lệnh, hai đêm mùng một và mười lăm hàng tháng cấm chúng đệ tử ra khỏi cửa, sơn huyệt càng là cấm địa, không được đi.”
Hàn Uyên nghe xong dường như có điều suy nghĩ.
Lý Quân làm bộ khuyên nhủ: “Các sư đệ mới nhập môn, có thể vẫn chưa bắt đầu đọc bảy bảy bốn mươi chín lần môn quy nhỉ? Trong đó viết rất rõ ràng, tư chất tốt như tiểu sư đệ đây, nghìn vạn lần phải tu hành từng bước, một ngày nào đó sẽ cảm được khí, tội gì đêm ngày nghĩ đến đường tắt, làm trái môn quy, có đúng không, tam sư đệ?”
Trình Tiềm ngoài cười nhưng trong không cười đáp lời: “Nhị sư huynh nói đúng.”
Lý Quân: “…”
Lý Quân quan sát Trình Tiềm từ trên xuống dưới một phen, tam sư đệ không ưa nói chuyện của gã dáng người không lớn kịp tuổi, vừa gầy lại nhỏ, cúi đầu một cái chẳng ai thấy mặt.
Nhất thời Lý Quân có chút không làm rõ được, tam sư đệ này là vì tuổi còn nhỏ nhát gan, không giỏi ăn nói, hay là đầu óc còn cao hơn vẻ ngoài?
Câu hùa theo của Trình Tiềm khiến Lý Quân nghẹn họng chẳng biết nên tiến hay lùi, Lý Quân miễn cưỡng cười một cái: “Tam sư đệ ngoan thật!”
Cách đó không xa, Nghiêm Tranh Minh nhận lấy chén nước ô mai hoa quế do đạo đồng dâng lên, ngẩng đầu một cái vừa vặn bắt gặp màn này, y luôn cảm thấy tên tiểu tử Lý Quân kia tâm thuật bất chính, đặc biệt khi gã nhe răng cười, y có thể nhìn thấu mưu mô từ trong đôi mắt gã nhị sư đệ.
Đột nhiên Nghiêm Tranh Minh nảy ra ý nghĩ nông nổi, nghiêng đầu nói với đạo đồng bên cạnh: “Cái tên nhóc tên là… Cái tên lùn nhất đám ấy, ta quên rồi, nó tên gì?”
Đạo đồng lo lắng trả lời: “Đó là tam sư thúc Trình Tiềm.”
“À, là nó,” Nghiêm Tranh Minh gật đầu, “Nói nó đợi ta một lát, đợi ta luyện xong phù chú, nói với nó là sư phụ sai ta chỉ kiếm pháp cho nó.”
“Lúc bảo nó chỉ thì nó không nói tiếng nào, giờ thì lấy vi sư làm cái cớ.” Mộc Xuân chân nhân nghe xong chậm rãi nghĩ thầm, nhưng ông chỉ giương mắt nhìn Nghiêm Tranh Minh chứ không mở miệng vạch trần —— thiếu gia lớn lên giữa ngọn núi rộng lớn này chắc hẳn thấy cô đơn, khó lắm mới có một đứa trẻ có thể ở cùng nó.
Đạo đồng chạy đi truyền lời, Trình Tiềm nghe xong không ừ hử gì, chẳng qua là cảm thấy đại sư huynh có thể đã uống nhầm thuốc.
Hàn Uyên lầu bầu lưu luyến chia tay: “Vậy mà ta còn định rủ ngươi đi chơi.”
Trình Tiềm nhìn gã một cái, nghĩ thầm: “Ngươi đi mà tìm nhị sư huynh chơi ấy.”
Nó ôm một bụng giễu cợt, vờ như không có chuyện gì xảy ra mà tạm biệt Lý Quân và Hàn Uyên, vâng lời lẳng lặng đợi ở một bên —— dĩ nhiên không phải vì đợi Nghiêm thiếu gia chẳng biết là sư huynh hay sư tỷ kia, thật ra Trình Tiềm cảm thấy tò mò với “Phù chú” hơn.
Đáng tiếc, rất nhanh nó đã phát hiện, người không cảm được khí chẳng thấy chỗ huyền diệu của phù chú —— có chăng nó thấy, đại sư huynh cả buổi chiều chẳng làm gì cả, chỉ ở dưới mắt sư phụ, cầm dao nhỏ khắc đường thẳng lên mảnh gỗ.
Thu hoạch duy nhất trong chuyến này của Trình Tiềm chính là có thể thấy mặt nghiêm nghị của sư phụ lão nhân gia.
Đại sư huynh không ngoài dự đoán của nó, là một cái gối thêu hoa không hơn không kém, chỉ ngồi một chốc, cái mông như bị mọc đinh, trái õng phải ẹo, luôn miệng sai phái các đạo đồng thị nữ vây quanh.
Y một hồi chê búi tóc chặt quá, đòi chải lại từ đầu, một hồi chê trên người có mồ hôi, đòi đi về thay quần áo, một hồi đòi đi đại tiện, một hồi đòi uống nước… Nước được bưng tới, nếu không chê lạnh thì sẽ chê nóng, chê này chê kia, chẳng ngồi yên được.
Y còn thường xuyên thẩn thờ, thường xuyên hết nhìn đông lại nhìn tây, thường xuyên oán thầm Lý Quân, Mộc Xuân, thỉnh thoảng còn ngâm nga một khúc ca bọn thị nữ mới soạn, tâm tư hoàn toàn không đặt vào việc khắc gỗ.
Tuy Trình Tiềm không rõ khắc lên miếng gỗ có cái gì tốt, nhưng với điệu bộ thế này của đại sư huynh, vẫn cảm thấy chướng mắt mắng thầm: “Đồ lừa lười!”
Mộc Xuân chân nhân sớm đã biết tên đệ tử không nên thân sẽ làm mấy trò này, ông đặt một cái đồng hồ cát trên bàn Nghiêm Tranh Minh. Đồng hồ cát là một món tiên khí rất tinh xảo, cát sẽ chảy hết trong vòng nửa canh giờ là Nghiêm Tranh Minh cũng có thể kết thúc buổi luyện tập, chỉ cần y vừa mới ngẩn người một cái, cát sẽ ngừng chảy ngay lập tức, đồng hồ cát nửa canh giờ có khi kéo dài đến tận trời tối.
Nghiêm Tranh Minh vốn còn nghĩ ở phương diện “qua loa cho xong chuyện” này, hai thầy trò bọn họ có thể làm một đôi tri âm, nhưng cứ mỗi lần đến lúc luyện phù chú, thái độ của sư phụ đều khác thường, có chút không hợp tình hợp lý.
Mộc Xuân chân nhân từng nói, thật ra y coi như là lấy kiếm nhập đạo. Mà những người lấy kiếm nhập đạo đa số tâm chí kiên định, chẳng qua cũng có ngoại lệ, điển hình như Nghiêm thiếu gia đây, vì thế cần phải rèn luyện gấp đôi, mới không uổng phí.
Trình Tiềm ở bên cạnh nhìn một hồi, cảm thấy chẳng có ích gì với mình, liền thu hồi ánh mắt, nhỏ giọng nhờ đạo đồng gần bên mang giấy bút tới, nó bắt đầu tiến hành bài học ngày đầu tiên —— trước hết là chép lại môn quy, sau đó chép luôn “Thanh tĩnh kinh” buổi sáng của sư phụ.
Mộc Xuân thấy thế, vẻ mặt nghiêm nghị cũng nhu hoà hơn, vẫy tay với nó: “Trình Tiềm qua đây, chỗ của con bị che bóng.”
Nghiêm Tranh Minh chau mày, ngẩng đầu đối diện với đôi mắt tam giác của sư phụ.
Giữa trưa thế này làm gì có chỗ nào che bóng? Rõ ràng sư phụ muốn y mất mặt, để y nhìn lại chính mình còn không kiên định bằng một thằng nhóc.
Nghiêm Tranh Minh nghiêng đầu nhìn thoáng chữ của Trình Tiềm, nhất thời đã quên chính mình muốn giữ nó lại, không biết điều mà giận chó đánh mèo nói: “Chân chó nhìn còn ngay ngắn hơn chữ này.”
Dù sao Trình Tiềm vẫn còn nhỏ, lòng dạ có hạn, nghe vậy cũng không ngẩng đầu lên chỉ phản kích: “Đa tạ đại sư huynh giáo huấn, chân chó có ngay ngắn thế nào cũng vô dụng, bởi vì căn bản con súc sinh kia ngồi không yên.”
Nói xong, nó còn liếc nhìn cái đồng hồ cát, mà Nghiêm thiếu gia tức sùi bọt mép phát hiện, cái đồng hồ cát chết tiệt kia lại ngừng.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook