Kinh Kim Cang
-
2: Đoạn 1 - Đoạn 2
ĐOẠN 1ÂM:PHÁP HỘI NHÂN DO.Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên dữ đại Tỳ-kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu.
Nhĩ thời Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá-vệ đại thành khất thực.
Ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ.
Phạn thực ngậtù, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.DỊCH:NGUYÊN DO CỦA PHÁP HỘI.Tôi nghe như vầy: Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ (Sràvasti) tại rừng Kỳ-đà (Jeta) trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Khi ấy gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành Xá-vệ khất thực.
Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở về nơi chúng ở.
Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi.GIẢNG:Đoạn này diễn tả pháp hội Phật nói kinh Kim Cang.Phần đầu chỉ cho lục chủng chứng tín.
Sáu điều này mở đầu kinh nào cũng như thế cả.
Đây giống như một lối biên bản của ngài A-nan (Ananda) để cho thấy lời Ngài nói có giá triï thật."Như thị ngã văn" là "Tôi nghe như vầy", chỉ cho người nghe và pháp được nghe.
"Tôi" chỉ người nghe tức ngài A-nan.
"Như vầy" là pháp được nghe tức là đề tài trong buổi thuyết pháp."Nhất thời" chỉ thời gian.
Vì thuở xưa thời gian mỗi nước mỗi khác cho nên chỉ nói một hôm, chớ không xác định hôm đó là mấy giờ ngày mấy tháng mấy.Phật là vị chủ tọa trong buổi nói pháp.Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên là nơi Phật thuyết pháp.Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên: Trưởng giả Cấp Cô Độc tên thật là Tu-đạt-đa (Sudatta), do ông hay bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ cô độc nên được gọi là Cấp Cô Độc.
Ông muốn mua vườn của thái tử Kỳ-đà để cất tinh xá thỉnh Phật đến thuyết pháp.
Thái tử bảo ông đem vàng lót đầy vườn thì thái tử sẽ bán vườn cho ông.
Khi ông trải vàng gần xong, thái tử vui vẻ bảo thôi đừng chở vàng thêm nữa và thái tử cũng xin cúng tất cả cây cối trong vườn cho đức Phật, do đó nên thành tên rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc.Chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị là cử tọa.
Thời gian, nơi chốn và số cử tọa cho thấy bài kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói, mà do Ngài nghe trong hội thuyết pháp gồm cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.Sáu điều trên đây gọi là lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói ra, mà chính là Ngài thuật lại buổi thuyết pháp của đức Phật.Đến phần thứ hai tả cảnh Phật sắp nói pháp.Khi ấy là buổi sáng gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực.Khất thực theo thứ lớp: Nếu hàng phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thỉnh mình.
Còn khất thực theo thứ lớp, là trong xóm có nhà nghèo, nhà giàu, cứ tuần tự đến nhà thứ nhất, nếu không được cúng dường thì đến nhà thứ hai, thứ ba v.
v… không phân biệt giàu nghèo đến khi được cúng dường thì về.Thọ trai xong, xếp y, dẹp bát, rửa chân rồi, trải tòa ngồi kiết già.
Đoạn này tả lại cuộc sống bình dị của đức Phật, sáng đi khất thực, về ăn xong rửa bát, xếp y, rửa chân, trải tòa ngồi kiết già, sắp nói chuyện với chúng.
Đó là ý thâm sâu muốn chỉ rằng chân lý không ngoài việc bình thường để đánh tan lòng hiếu kỳ, tưởng chân lý là những gì mầu nhiệm ngoài việc bình thường.
Thấy được chân lý trong việc bình thường là thấy đạo, nếu trái lại là lạc hướng.Khi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm hỏi ngài Nam Tuyền "Thế nào là đạo? " thì Nam Tuyền trả lời "Bình thường tâm thị đạo", nghĩa là tâm bình thường là đạo.Ông Lý Tường đến hỏi ngài Dược Sơn Duy Nghiễm "Thế nào là đạo? " Ngài bảo "Vân tại thanh thiên, thủy tại bình", nghĩa là mây trên trời xanh, nước trong bình.
Việc bình thường này hợp với tinh thần Đại thừa.ĐOẠN 2ÂM:THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH.Thời trưởng lão Tu-bồ-đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát.
Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? " Phật ngôn: "Thiện tai, thiện tai! Tu-bồ-đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm".
"Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn".DỊCH:THIỆN HIỆN THƯA HỎI.Khi ấy trưởng lão Tu-bồ-đề (Subhuti) ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên mặt, gối mặt quì xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ, làm sao hàng phục tâm kia? " Đức Phật bảo: "Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói.
Người thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên như thế mà trụ, như thế mà hàng phục tâm kia".
- "Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con nguyện thích được nghe".GIẢNG:Đây là phần thưa hỏi của ngài Tu-bồ-đề.
Tu-bồ-đề là một vị A-la-hán thâm hiểu lý Bát-nhã.
Có chỗ dịch là Thiện Hiện, có chỗ dịch Không Sanh, có chỗ dịch Kiết Tường.
Nói Tu-bồ-đề là dịch âm tiếng Phạn.
Trong Đại Bát-nhã dịch là Thiện Hiện, đây nói Tubồ-đề cũng chỉ là một vị.
Thiện Hiện là khéo hiện.
Ngài Tu-bồ-đề thuộc hàng trưởng lão.Trước hết là phần nghi thức.
Theo lễ nghi Ấn Độ, khi đệ tử muốn thưa hỏi Phật điều gì thì phải bày vai áo bên mặt, quì gối mặt xuống rồi chấp tay cung kính thưa hỏi.Hộ niệm: Hộ là bảo hộ, niệm là nhớ nghĩ.Phó chúc là trao dặn lại.Trước hết ngài Tu-bồ-đề tán thán Phật: Đức Thế Tôn là bậc ít có trong thế gian, Ngài thường bảo hộ và nhớ nghĩ các vị Bồ-tát, khéo trao dặn lại các vị Bồ-tát.Tán thán Phật xong rồi, ngài Tu-bồ-đề bắt đầu thưa hỏi.Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là phát tâm cầu thành Phật.Ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Giả sử có người thiện nam, thiện nữ muốn phát tâm cầu thành Phật thì phải làm sao để an trụ tâm đó và làm sao hàng phục được tâm đó? Làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm kia? là hai câu hỏi then chốt của toàn bộ kinh, hai câu hỏi quan trọng cho sự tu hành.
Tất cả chúng ta, ai đã phát tâm tu theo đạo Phật, đều nguyện tiến tới Phật quả, nhưng muốn tiến tới Phật quả phải làm sao? Tức là phải an trụ tâm và hàng phục tâm, vì nếu còn tâm điên đảo làm sao thành Phật được? Thế nên đó là chỗ chính yếu của người tu.
Phát tâm vô thượng là đặt mục tiêu mình tiến, nhưng an trụ trong đó và hàng phục vọng tưởng không phải là chuyện dễ.
Phát tâm cầu thành Phật là buổi đầu, nhưng còn nhiều chướng ngại phải vượt qua.Phật thừa nhận lời tán thán của ngài Tu-bồ-đề là đúng nên đức Phật bảo rằng: "Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, Như Lai thường hộ niệm các vị Bồ-tát và khéo phó chúc các vị Bồ-tát".
Bởi vì đức Phật luôn luôn nhớ nghĩ làm sao cho các vị Bồtát được tiến lên Phật quả và dặn dò các vị Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sanh để cùng tiến lên Phật quả.
Đó là chủ đích mà đức Phật hằng mong mỏi và hằng giáo hóa.Tiếp đến Phật dạy: Bây giờ ông phải lắng tâm nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói.
Những người thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu thành Phật thì nên như lời tôi dạy ở sau mà an trụ tâm, nên như lời tôi dạy ở sau mà hàng phục tâm.
Đó là lời của Phật hứa sẽ dạy, ngài Tu-bồ-đề thưa: Xin vâng, đức Thế Tôn con nguyện thích được nghe những lời này.
Đây là bắt đầu thời thuyết pháp chánh.Qua đoạn này chúng ta thấy rõ tinh thần người xưa đến học đạo.
Trong hội chúng đông đảo, khi đức Phật thọ trai xong, trải tọa cụ ngồi kiết già rồi, ngài Tu-bồ-đề theo đúng nghi lễ quì gối chấp tay tán thán Phật trước, kế đến mới thưa hỏi những điểm quan trọng.
Như vậy đức Phật thuyết pháp là do đệ tử có những thắc mắc nghi ngờ đem ra thưa hỏi, nhân đó đức Phật mới thuyết pháp.
Hiện nay chúng ta đi chùa học đạo cũng vậy, khi nào có gì thắc mắc cũng đem ra hỏi, như thế chính mình có lợi và cũng lợi cho những người chung quanh.Ai muốn hàng phục được tâm mình, an trụ được tâm mình, phải theo dõi lời Phật dạy ở sau..
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook