Khổng Tước Rừng Sâu
-
Chương 65
Bác chủ nhà nói, một ngày trước khi tôi đáp xe lửa về Đài Nam, Lý San Lam đã dọn đi.
Không nói là đi đâu, cũng không lưu lại lời nhắn nào.
Tôi hy vọng mang theo khổng tước rời khỏi khu rừng, nhưng khổng tước kiêu ngạo lại lựa chọn tránh ra xa, không để tôi phải khó xử. Tôi đóng gói chỗ đồ còn lại, không định để lại thứ gì.
Chỉ còn lại trên tường, cái áo khoác màu xanh lam Lý San Lam tặng tôi.
Tôi cầm cái áo khoác, phát hiện ra mảng tường phía sau nó có mấy dòng chữ màu đỏ.
“Em sẽ kiêu ngạo ở lại trong rừng, hoặc là đi tới một khu rừng khác.
Mặc dù em không thể nào xoè đuôi, nhưng anh thì có.
Chúc anh xoè đuôi.
Lý San Lam.”
Tôi đã từng nói với cô ấy, nếu gặp được người mình thật sự thích, tôi sẽ viết thư tình.
Vì thế tôi viết một bức thư tình, người nhận là Lý San Lam.
Không ký tên là Kha Tử Long nữa, mà dùng tên thật Thái Trí Uyên.
Dán bức thư này lên trên tường, cùng với những hàng chữ màu đen, màu xanh, màu đỏ.
Trước khi đi, tiện thể giúp bác chủ nhà tìm khách thuê phòng mới.
Chỉ mất một ngày đã tìm được khách thuê mới, là một anh thanh niên tầm 30 tuổi.
Anh ta vừa bước vào căn phòng ở tầng trên, liền bị cánh cửa sổ sát đất thu hút.
Ngắm nghía cánh cửa sổ sát đất hồi lâu, anh ta mới nói:
“Cái cửa sổ sát đất này giống như một miệng núi lửa ngàn năm chưa có người lai vãng, yên lặng trầm sâu, long lanh trong suốt. Tuy nó không biết nói, nhưng tôi cảm thấy nó đang dệt nên muôn ngàn từ ngữ, âm thầm kể lại một câu chuyện. Tuyệt quá!
Nhất định tôi phải ở nơi này.”
Anh ta càng nói càng hưng phấn, nói xong quay lại nhìn vẻ mặt đầy nghi hoặc của tôi, xấu hổ cười nói:
“Tôi viết văn, là nhà văn hạng ba.”
Tôi bình thản cười, không nói gì.
“Ồ?” Anh ta chăm chú nhìn bức tường cạnh giường, “Sao trên tường lại có một bức thư?”
Anh ta quay sang nhìn tôi, ánh mắt kiếm tìm lời giải đáp.
Tôi nhìn anh ta một lúc, hỏi bài trắc nghiệm đó:
“Ở trong rừng sâu anh nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày anh bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, anh sẽ mang theo con vật nào?”
Anh ta nghĩ rất lâu, trả lời: “Vậy tôi không rời khỏi rừng nữa.”
Tôi sững lại, lại hỏi: “Nếu khu rừng xảy ra hoả hoạn, hoặc là bị lũ lụt thì sao?”
“Tôi vẫn sẽ không rời khỏi khu rừng.” Anh ta nói.
“Tại sao?”
“Mấy con vật đó đều do tôi nuôi, cho dù tôi có thích hay không. Trên thế giới này, chúng tôi sở hữu lẫn nhau, cũng chỉ có nhau. Tôi không có quyền, cũng không muốn quyết định con nào được sống, con nào nên chết đi. Điều duy nhất có thể làm, là ở lại với bọn chúng, cho đến ngày tận thế.”
Vẻ mặt anh ta rất nghiêm túc, nhưng một lát sau lại cười mà nói: “Có phải cách suy nghĩ của tôi rất kỳ cục không?”
“Không.” Tôi cũng cười.
Có lẽ cũng giống như Martini tiên sinh, cảm thấy anh ta và tôi có duyên với nhau nên kể cho tôi nghe câu chuyện của anh ta, tôi cũng cảm thấy anh chàng nhà văn trẻ này có duyên với tôi.
“Có muốn nghe câu chuyện về lá thư kia không?” Tôi chỉ lên trên tường.
“Cầu còn không được.” Anh ta nói.
Tôi mời anh ta ngồi, sau đó kể cho anh ta nghe câu chuyện của tôi.
Mặc dù anh ta nghe một cách rất hứng thú, nhưng từ đầu đến cuối đều không xen vào.
“Hai năm sau, anh sẽ về Đài Loan chứ?” Nghe xong, anh ta hỏi.
“Cho dù tổng thống Bush có quỳ xuống cầu xin tôi, thậm chí ôm chân tôi, tôi vẫn sẽ trở về.”
“Là vì Lý San Lam sao?”
“Phải.” Tôi gật đầu.
“Có phải bởi vì cô ấy đã trở thành tảng đá bên phải của anh?”
“Không chỉ là như vậy.”
“Hả?”
“Lý do tôi chọn khổng tước là bởi vì nếu như không chọn khổng tước, nó sẽ không sống nữa. Nhưng tôi cũng là một con khổng tước, nếu Lý San Lam không chọn tôi, tôi cũng không sống nổi.”
Anh ta trầm ngâm hồi lâu rồi mới mở miệng nói:
“Tôi tin Lý San Lam nhất định sẽ quay trở lại nơi này.”
“Tại sao?”
“Bởi vì cô ấy biết anh cũng sẽ quay lại đây.”
Tôi cười, cảm thấy anh chàng nhà văn hạng ba này có một cảm giác thân thiết khó tả.
“Nếu cô ấy trở lại, tôi sẽ giúp anh giao lá thư này.” Anh ta chỉ lên tường.
“Cảm ơn.” Tôi như trút được gánh nặng trong lòng.
Đưa chìa khoá cho anh ta xong, tôi bắt tay anh ta, quay người bỏ đi.
Là kiểu bỏ đi mà trong lòng rất rõ nhất định sẽ có ngày trở lại.
Cuối cùng phải rời khỏi khu rừng rậm Đài Loan rồi.
Mặc cho Vinh An kêu khóc nửa ngày, tôi vẫn kiên quyết không cho cậu ấy đến sân bay tiễn tôi.
Tôi không mang theo con vật nào, chỉ có bản thân mình đồng hành.
Trời sắp sáng rồi, đêm lúc này là đen nhất.
Một mình tôi ngồi trong sảnh chờ rộng lớn của sân bay vắng lặng, âm thầm chờ xoè đuôi.
HẾT
Không nói là đi đâu, cũng không lưu lại lời nhắn nào.
Tôi hy vọng mang theo khổng tước rời khỏi khu rừng, nhưng khổng tước kiêu ngạo lại lựa chọn tránh ra xa, không để tôi phải khó xử. Tôi đóng gói chỗ đồ còn lại, không định để lại thứ gì.
Chỉ còn lại trên tường, cái áo khoác màu xanh lam Lý San Lam tặng tôi.
Tôi cầm cái áo khoác, phát hiện ra mảng tường phía sau nó có mấy dòng chữ màu đỏ.
“Em sẽ kiêu ngạo ở lại trong rừng, hoặc là đi tới một khu rừng khác.
Mặc dù em không thể nào xoè đuôi, nhưng anh thì có.
Chúc anh xoè đuôi.
Lý San Lam.”
Tôi đã từng nói với cô ấy, nếu gặp được người mình thật sự thích, tôi sẽ viết thư tình.
Vì thế tôi viết một bức thư tình, người nhận là Lý San Lam.
Không ký tên là Kha Tử Long nữa, mà dùng tên thật Thái Trí Uyên.
Dán bức thư này lên trên tường, cùng với những hàng chữ màu đen, màu xanh, màu đỏ.
Trước khi đi, tiện thể giúp bác chủ nhà tìm khách thuê phòng mới.
Chỉ mất một ngày đã tìm được khách thuê mới, là một anh thanh niên tầm 30 tuổi.
Anh ta vừa bước vào căn phòng ở tầng trên, liền bị cánh cửa sổ sát đất thu hút.
Ngắm nghía cánh cửa sổ sát đất hồi lâu, anh ta mới nói:
“Cái cửa sổ sát đất này giống như một miệng núi lửa ngàn năm chưa có người lai vãng, yên lặng trầm sâu, long lanh trong suốt. Tuy nó không biết nói, nhưng tôi cảm thấy nó đang dệt nên muôn ngàn từ ngữ, âm thầm kể lại một câu chuyện. Tuyệt quá!
Nhất định tôi phải ở nơi này.”
Anh ta càng nói càng hưng phấn, nói xong quay lại nhìn vẻ mặt đầy nghi hoặc của tôi, xấu hổ cười nói:
“Tôi viết văn, là nhà văn hạng ba.”
Tôi bình thản cười, không nói gì.
“Ồ?” Anh ta chăm chú nhìn bức tường cạnh giường, “Sao trên tường lại có một bức thư?”
Anh ta quay sang nhìn tôi, ánh mắt kiếm tìm lời giải đáp.
Tôi nhìn anh ta một lúc, hỏi bài trắc nghiệm đó:
“Ở trong rừng sâu anh nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày anh bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, anh sẽ mang theo con vật nào?”
Anh ta nghĩ rất lâu, trả lời: “Vậy tôi không rời khỏi rừng nữa.”
Tôi sững lại, lại hỏi: “Nếu khu rừng xảy ra hoả hoạn, hoặc là bị lũ lụt thì sao?”
“Tôi vẫn sẽ không rời khỏi khu rừng.” Anh ta nói.
“Tại sao?”
“Mấy con vật đó đều do tôi nuôi, cho dù tôi có thích hay không. Trên thế giới này, chúng tôi sở hữu lẫn nhau, cũng chỉ có nhau. Tôi không có quyền, cũng không muốn quyết định con nào được sống, con nào nên chết đi. Điều duy nhất có thể làm, là ở lại với bọn chúng, cho đến ngày tận thế.”
Vẻ mặt anh ta rất nghiêm túc, nhưng một lát sau lại cười mà nói: “Có phải cách suy nghĩ của tôi rất kỳ cục không?”
“Không.” Tôi cũng cười.
Có lẽ cũng giống như Martini tiên sinh, cảm thấy anh ta và tôi có duyên với nhau nên kể cho tôi nghe câu chuyện của anh ta, tôi cũng cảm thấy anh chàng nhà văn trẻ này có duyên với tôi.
“Có muốn nghe câu chuyện về lá thư kia không?” Tôi chỉ lên trên tường.
“Cầu còn không được.” Anh ta nói.
Tôi mời anh ta ngồi, sau đó kể cho anh ta nghe câu chuyện của tôi.
Mặc dù anh ta nghe một cách rất hứng thú, nhưng từ đầu đến cuối đều không xen vào.
“Hai năm sau, anh sẽ về Đài Loan chứ?” Nghe xong, anh ta hỏi.
“Cho dù tổng thống Bush có quỳ xuống cầu xin tôi, thậm chí ôm chân tôi, tôi vẫn sẽ trở về.”
“Là vì Lý San Lam sao?”
“Phải.” Tôi gật đầu.
“Có phải bởi vì cô ấy đã trở thành tảng đá bên phải của anh?”
“Không chỉ là như vậy.”
“Hả?”
“Lý do tôi chọn khổng tước là bởi vì nếu như không chọn khổng tước, nó sẽ không sống nữa. Nhưng tôi cũng là một con khổng tước, nếu Lý San Lam không chọn tôi, tôi cũng không sống nổi.”
Anh ta trầm ngâm hồi lâu rồi mới mở miệng nói:
“Tôi tin Lý San Lam nhất định sẽ quay trở lại nơi này.”
“Tại sao?”
“Bởi vì cô ấy biết anh cũng sẽ quay lại đây.”
Tôi cười, cảm thấy anh chàng nhà văn hạng ba này có một cảm giác thân thiết khó tả.
“Nếu cô ấy trở lại, tôi sẽ giúp anh giao lá thư này.” Anh ta chỉ lên tường.
“Cảm ơn.” Tôi như trút được gánh nặng trong lòng.
Đưa chìa khoá cho anh ta xong, tôi bắt tay anh ta, quay người bỏ đi.
Là kiểu bỏ đi mà trong lòng rất rõ nhất định sẽ có ngày trở lại.
Cuối cùng phải rời khỏi khu rừng rậm Đài Loan rồi.
Mặc cho Vinh An kêu khóc nửa ngày, tôi vẫn kiên quyết không cho cậu ấy đến sân bay tiễn tôi.
Tôi không mang theo con vật nào, chỉ có bản thân mình đồng hành.
Trời sắp sáng rồi, đêm lúc này là đen nhất.
Một mình tôi ngồi trong sảnh chờ rộng lớn của sân bay vắng lặng, âm thầm chờ xoè đuôi.
HẾT
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook