Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu
-
Chương 12
Xin mời hành khách đi Nice trên chuyến bay 017 lên máy bay tại cổng số Bảy". Tiếng loa phát thanh vang lên trên sân ga số Một, sân bay Heathrow.
- Gọi chúng ta đấy. – Stephen nói.
Bốn người vào thang máy, lên tầng hai rồi đi xuống một hành lang dài. Sau khi được kiểm tra hành lý để xác định họ không mang súng lục, bom, hay bất cứ một thứ gì những kẻ khủng bố có thể mang, bốn người bước lên tháng máy bay.
Họ ngồi riêng rẽ mỗi người một nơi, không nói chuyện, thậm chí còn không nhìn nhau. Stephen cảnh giác họ rằng, trong số hành khách có thể có bạn bè của Harvey, và mỗi người hãy tự đặt giả thiết rằng mình đang ngồi cạnh một trong những kẻ thân thiết nhất của hắn.
James ngồi ủ rũ, cau có ngắm nhìn bầu trời không một gợn mây. Anh và Anne đã tìm đọc rất nhiều sách, thậm chí cả những truyện về các vụ đánh cắp tiền, hay lừa đảo, nhưng họ vẫn chưa tìm được một cái gì khả dĩ, có thể bắt chước. Ngay cả Stephen, ngoài những lúc phải có mặt ở St. Thomas’s, giả làm một cái xác trần như nhộng cho người ta thực tập, cũng bắt đầu lo lắng tìm cho James một kế hoạch khả thi.
13 giờ 40 phút máy bay Trident hạ cánh tại Nice. Bốn người đón tàu hoả đi tiếp tới Monte Carlo. Chuyến đi kéo dài hai mươi phút. Mỗi người trong bọn họ lại tự tìm đường tới khách sạn Hotel de Paris sang trọng ở Place du Casino.
Đúng 7 giờ tối, tất cả đều có mặt tại phòng 217.
- Các cậu ổn định phòng nghỉ rồi chứ?
Ba người kia gật đầu.
- Cho tới nay mọi việc đều ổn, - Robin nói. – Nào, chúng ta hãy cùng bàn bạc, tính toán thời gian. Jean – Pierre, tối nay, cậu sẽ tới sòng bạc, chơi một vài ván baccarat và bài xì lát. Cố gắng làm quen với môi trường mới, và học thuộc các đường đi nước bước ở đó. Đặc biệt là cậu phải nắm vững các quy tắc khác nhau, nếu có, so với sòng bạc Claremont. Nhớ là không được nói tiếng Anh. Cậu có dự tính được các vấn đề sẽ xảy đến không?
- Không, Robin. Tốt hơn cả là cứ để tôi đi luôn bây giờ và tập dượt lại.
- Đừng để bị thua quá nhiều đấy. – Stephen nói.
Jean – Pierre, rất bảnh bao với mái tóc ngắn cũn bộ râu cằm và áo vét dạ hội, cười toe toét rồi đi nhanh ra khỏi phòng 217, xuống cầu thang. Anh tránh không dùng thang máy. Sòng bạc Casino nổi tiếng cách không xa khách sạn nên anh quyết định đi bộ.
Robin tiếp tục:
- Còn James, cậu cũng đến Casino nhưng là để đón một chiếc taxi và bảo tài xế chạy thẳng đến bệnh viện. Khi tới nơi, cậu phải để mặc cho đồng hồ xe chạy vài phút rồi mới bảo lái xe trở về casino. Thường thì các lái xe taxi bao giờ cũng biết các con đường ngắn nhất, nhưng để cho chắc ăn, cậu hãy bảo lái xe là cậu đang rất gấp, như vậy, cậu sẽ có cơ hội tìm hiểu trong trường hợp khẩn cấp, nên đi theo dòng xe nào. Khi lái xe trả cậu về Casino cậu lại phải đi bộ tới bệnh viện và ngược lại, đó chính là thời gian để cậu ghi nhớ và tái hiện lại các con đường đã đi qua. Khi đã thông thạo đường từ Casino tới bệnh viện, cậu sẽ tiếp tục tiến hành những việc tương tự với con đường từ bệnh viện tới thuyền của Harvey. Nhớ là không được bước chân vào Casino, mà cũng không được lại gần du thuyền tới mức người ta có thể nhìn thấy cậu. Nếu để họ thấy cậu bây giờ thì có nghĩa là cậu sẽ bị phát hiện sau này.
- Thế còn những việc tôi phải làm trong Casino vào đêm hành động thì sao?
- Jean – Pierre sẽ lo việc này. Cậu ta sẽ đón cậu ở cửa vì Stephen không thể rời Harvey nửa bước. Tôi không nghĩ là họ sẽ bắt cậu phải trả 12 franc vào cửa nếu cậu mang theo băng ca và mặc áo blu trắng; nhưng cũng nên kiểm tra trước đi. Sau khi đã thông thuộc các con đường cậu phải trở về phòng mình, không được đi đâu. 11 giờ sáng mai chúng ta sẽ gặp lại nhau. Stephen và tôi sẽ tới bệnh viện để kiểm tra công tác chuẩn bị. Nếu cậu có nhìn thấy chúng tôi thì cũng phải phớt lờ đi.
Đúng vào lúc James ra khỏi phòng 217 thì Jean – Pierre có mặt tại Casino.
Casino nằm giữa trung tâm Monte Carlo, mặt quay ra biển, được bao quanh bởi những khu vườn đẹp nhất nhì thế giới. Toà nhà chính có rất nhiều chái phụ; cái cũ nhất được kiến trúc sư Charles Gernier, người thiết kế nhà hát Opera Paris vẽ kiểu. Các phòng đánh bạc đều mới được xây dựng bổ sung vào năm 1910 và đều ăn thông với phòng Salle Garnier, nơi biểu diển Opera và ba lê.
Theo các bậc cầu thang làm bằng đá cẩm thạch, Jean – Pierre đi thẳng tới lối vào, trả 12 franc vào cửa. CÁc phòng đánh bạc đều rộng lớn, được trang trí toán bằng các tác phẩm nghệ thuật châu Âu của hai thời kỳ suy thoái và phục hưng ở đầu thế kỷ. Những tấm thảm đỏ khổng lồ, những bức tượng, những bức tranh và những tấm thảm treo tường... Tất cả đều tạo cho nơi đây dáng dấp của hoàng cung, còn những bức chân dung lại mang tới không khí của một ngôi nhà ngoại ô. Jean – Pierre nhận thấy khách khứa ở đây mang nhiều quốc tịch khác nhau. Người Ả- rập ngồi sát người Do Thái bên vòng quay thắng bại. Họ chơi ru lét và tán gẫu một cách cởi mở - một điều mà Liên Hiệp Quốc không bao giờ dám mơ ước. Jean – Pierre cảm thấy hoàn toàn dễ chịu trong thế giới giàu sang này. Robin đã hiểu khá chính xác về anh nên đã giao cho anh một vai rất phù hợp.
Ba giờ tiếp theo, Jean – Pierre nghiên cứu thiết kế của Casino – các phòng đánh bạc, quầy bar, nhà hàng, điện thoại, lối vào, lối ra. Sau đó, anh tập trung mọi chú ý vào các phòng đánh bạc. Anh phát hiện thấy hai bàn baccarat đều được đặt tại phòng Salons Privés, thường bắt đầu vào lúc 3 giờ chiều và 11 giờ đêm. Thông qua Pierre Cattalano, người phụ trách phòng điều hành, anh còn biết thêm Harvey Metcalfe thường thích chơi ở phòng nào hơn.
Phòng Salons des Amériques là phòng chơi xì lát, thường bắt đầu mở cửa từ 11 giờ sáng. Tất cả có 3 bàn. Người cung cấp tin tức của Jean – Pierre còn cho biết thêm là Harvey luôn luôn chơi ở bàn số hai, ngồi chỗ thứ ba. Jean – Pierre chơi vài ván baccarat và xì lát, nhưng không phát hiện thấy sự khác nhau nào giữa luật chơi ở đây và ở Claremont. Thực tế, chẳng có sự khác nhau gì vì Claremont rất tôn trọng các luật chơi ở Monte Carlo.
Hơn 11 giờ đêm, Harvey Metcalfe xuất hiện, gây nên sự ồn ào. Gã đi tới bàn baccarat, để lại sau lưng một vệt tàn thuốc xì gà. Jean – Pierre, ngồi ở một vị trí rất kín đáo bên quầy bar, quan sát gã. Harvey được một người hồ lỳ ăn mặc lịch sự dẫn tới chỗ ngồi đã đặt trước, sau đó gã đi sang phòng Salons de Amériques, tới bàn chơi xì lát số hai, đặt một tấm card màu trắng với chữ "ĐẶt trước" lên một trong số các ghế ngồi. Rõ ràng, Harvey là một vị khách được chiều chuộng ở đây. Cả người quản lý và Jean – Pierre đều biết rõ Harvey đang chơi trò gì. Đúng 11 giờ 27 phút đêm đó, Jean – Pierre lặng lẽ ra về, trở lại với cảnh cô liêu của căn phòng nơi khách sạn. Anh ở lỳ trong phòng mãi cho tới 11 giờ sáng hôm sau, không gọi điện cho ai, cũng không yêu cầu phục vụ.
Buổi tối của James cũng rất tốt đẹp. Người tài xế taxi quả là một tay cừ khôi. Từ "khẩn" đã có tác động mạnh: Anh ta chạy xuyên Monte Carlo như thể chẳng có gì trên đường ngoài chiếc Rally của mình. Chỉ sau 8 phút 44 giây, James đã có mặt tại bệnh viện, người choáng váng như thể bị say xe, nên phải tạm nghỉ một vài phút ở phòng đợi của bệnh nhân trước khi lên xe về Casino.
- Quay về Casino, nhưng làm ơn đi chậm hơn.
Lần này, xe chạy dọc theo đại lộ Rue Grimaldi, mất mười một phút. James quyết định là sẽ đi theo đường này mà chỉ cần mất mười phút. Anh trả tiền cho người lái xe rồi tiếp tục phần thứ hai của kế hoạch.
Đi bộ từ Casino tới bệnh viện và ngược lại chỉ mất một giờ. Không khí dịu mát buổi đêm mơn man trên da mặt anh. Xung quanh anh người ta đi lại nhộn nhịp và nói chuyện ríu rít. Du lịch là một trong những nguồn thu nhập chủ yếu của Prinipality, và Monégasques cũng rất quan tâm tới phúc lợi của các du khách. James đi ngang qua một số nhà hàng và cửa hàng lưu niệm trên phố. Ở đó, người ta bán nhiều đồ nữ trang đắt tiền, nhưng tầm thường tới mức nếu như bạn có mua chúng đầu tuần thì bạn cũng sẽ dễ dàng quên chúng hoặc làm mất chúng vào cuối tuần. Khách du lịch ồn ào đi lại trên vỉa hè. Họ nói chuyện với nhau bằng đủ thứ tiếng khiến James càng nhớ Anne cồn cào. Về tới Casino, anh lại thuê taxi ra cảng để xác định vị trí chiếc du thuyền Messenger đó, anh lặp lại đúng hành trình này, nhưng là đi bộ. Cũng giống như Jean – Pierre, anh trở về phòng một cách yên ổn trước mười hai giờ đêm, hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất.
Robin và STephen nhận thấy đi bộ từ khách sạn tới bệnh viện chỉ mất hơn 40 phút. Khi tới nơi, Robin đề nghị người trực ban cho gặp ngài giám thị.
- Ngài giám thị đêm nay đang bận. - Một cô y tá người Pháp trả lời. Cô ta rất mập mạp và tươi tắn. – Tôi phải nó với ngài giám thị là ai đang cần gặp ông đây?
Cách phát âm tiếng Anh của cô ta thật tuyệt vời vì vậy cả Robin và Stephen đều không dám cười vì một lỗi ngữ pháp rất nhỏ của cô.
- Bác sỹ Wiley Barker, đại học Canifornia.
Robin bắt đầu cầu Chúa cho viên giám thị người Pháp này không quen biết Wiley Barker, bác sỹ riêng của Tổng thống Nixon, và là một trong các bác sỹ phẫu thuật đáng kính nhất trên thế giới. Thực tế, ông nay đang giảng bài ở các trường đại học lớn trên đất Australia.
- Xin chào bác sỹ Barker. Xin được phục vụ ngài. Thật vinh hạnh cho bệnh viện của chúng tôi khi được ngài tới thăm.
Robin cắt ngang lời chúc tụng bằng tiếng Pháp của viên giám thị bằng một tràng tiếng Anh với giọng Mỹ mà anh mới học được.
- Tôi muốn xem qua cách bố trí phòng mổ và muốn xác nhận là chúng tôi sẽ được toàn quyền sử dụng phòng phẫu thuật trong năm ngày liên tiếp, kể từ ngày mai, từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng.
- Vâng, đúng vậy, thưa bác sỹ Barker, - viên giám thị nói, và nhìn vào một chiếc bìa kẹp giấy. - Phòng phẫu thuật ở hành lang bên kia. Xin mời ngài theo tôi.
Phòng phẫu thuật này cũng chẳng khác gì so với cái phòng mà bốn người đã thực tập ở St. Thomas - gồm hai buồng được ngăn bới một chiếc cửa quay làm bằng cao su. Phòng phẫu thuật chính được trang bị rất đầy đủ. Robin khẽ gật đầu và Stephen hiểu rằng ở đây có đầy đủ các dụng cụ cần thiết. Trong Robin, một cảm giác thán phục bắt đầu dâng lên: Mặc dầu bệnh viện chỉ có 200 giường bệnh, nhưng phòng phẫu thuật này được trang bị ở mức cao nhất. Rõ ràng, chỉ có những người giàu mới đến đây chữa bệnh.
- Liệu chúng tôi có phải điều kỹ thuật viên gây mê hay y tá nào đến phụ ngài không?
- Không, - Robin nói. – Tôi có kỹ thuật viên gây mê và đội ngũ trợ lý riêng, nhưng mỗi đêm tôi đều cần một khay laparotomy để sẵn ở đây. Tuy vậy, trong trường hợp bất trắc, tôi sẽ báo để các ngài chuẩn bị, ít nhất là trước một tiếng đồng hồ.
- Vâng. Còn gì nữa, thưa ngài?
- Loại xe đặc biệt mà tôi đã yêu cầu. Liệu tới 12 giờ trưa mai đã có chưa?
- Dạ, tất cả đã sẵn sàng, thưa bác sỹ. Chúng tôi sẽ gửi nó trong bãi đỗ xe nhỏ ngay sau bệnh viện; tài xé của ngài có thể lấy chìa khóa ở phòng lễ tân.
- Ngài làm ơn giới thiệu một đại lý tin cậy để tôi thuê y tá chăm sóc bệnh nhân ở thời kỳ hậu phẫu.
- Auxiliainre Medical của Nice là trung tâm y tế rất đáng tin cậy. Cò về giá cả phục vụ, tất nhiên đều đã có quy định chung.
- Tất nhiên. – Robin nói, - Và nhân đây khiến tôi muốn hỏi ngài, liệu các ngài đã nhận được tiền thanh toán chưa?
- Rồi, thưa bác sỹ, thứ năm tuần trước chúng tôi có nhận được một tấm séc 7.000 đôla gửi từ California tới.
Robin cảm thấy rất hài lòng với cách thanh toán này. Mọi việc đều đơn giản: STephen liên lạc với ngân hàng của anh ở Harvard, đề nghị họ gửi một hối phiếu từ Ngân hàng hạng nhất National City tới bệnh viện Monte Carlo.
- Xin cám ơn ngài, Monsieur Bartise. Ngài thật là tử tế. Tiện đây, tôi cũng mong ngài hiểu thêm là bản thân tôi cũng chưa rõ bệnh nhân của tôi sẽ có mặt ở đây vào đêm nào. Anh ta bị bệnh, nhưng anh ta lại không biết, và tôi phải sẵn sàng để mổ cho anh ta, vào bất kỳ lúc nào, trong thời gian anh ta ở đây.
- Vâng, thưa bác sỹ, tôi hiểu.
- Cuối cùng, tôi sẽ rất biết ơn nếu ngài có thể hạn chế số người biết tin tôi đang có mặt ở Monte Carlo. Tôi muốn tranh thủ nghỉ ngơi đôi chút trong thời gian làm việc ở đây.
- Tôi hiểu. Ngài có thể tin tưởng ở tôi.
Robin và Stephen chào tạm biệt Bartise rồi đón taxi về khách sạn.
- Tôi cảm thấy hơi nhục nhã vì người Pháp có thể nói ngôn ngữ của chúng ta rất thành thạo trong khi chúng ta lại không nói được tiếng của họ, - Stephen nói.
- Đó là lỗi của những người mang dòng máu Mỹ, - Robin đáp.
- Không, không phải thế. Nếu nước Pháp thống trị nước Mỹ thì chúng tôi sẽ nói tiếng Pháp cực hay. Đây là lỗi của các tín đồ thanh giáo.
Robin cười phá lên. Sau đó, không ai nói gì thêm mãi cho đến khi họ lên tới phòng 217. Họ đều lo sợ về những gì sắp xảy ra. Stephen hiểu rất rõ: Họ đang làm những việc cực kỳ mạo hiểm.
Harvey Metcalfe nằm trên mạn thuyền, tắm nắng và đọc báo buổi sáng. Thật khó chịu, tờ Nice – Matin được in bằng tiếng Pháp. Gã đọc một cách khó nhọc - mặc dù đã có từ điển kè kè một bên - cốt để tìm hiểu các hoạt động xã hội với ý đồ yêu cầu người ta mời gã tham dự. Đêm qua, gã đã chơi bài rất khuya, còn bây giờ thì đang khoan khoái hưởng thụ những tia nắng sớm mai rọi lên tấm lương nần nẫn. Giá mà tiền có thể mua được tất cả, thì hẳn gã đã có một thân thể cường tráng cao 6 foot, nặng 170 pound, với một cái đầu đẹp đẽ nhiều tóc. Nhưng thực tế không một loại kem chống nắng nào có thể làm cho tóc mọc dày hơn, nên gã cứ đội mũ, một cái mũ lưỡi trai với dòng chữ Tôi rất gợi tình. Giá mà cô Fish nhìn thấy gã vào lúc này …
11 giờ, vào lúc mà Harvey xoay người, để mặt trời được phép vuốt ve cái bụng bự của gã, thì James đang lê bước vào phòng 217. Mọi người đang đợi anh.
Jean – Pierre báo cáo về sơ đồ bố trí các phòng trong Casino và các thói quen của Harvey Metcalfe. James thông báo kết quả mới nhất của cuộc "đua xe" xuyên thành phố đêm qua cho tất cả và khẳng định rằng anh có thể lái xe trên chặng đường này dưới mười một phút.
- Tuyệt hảo, - Robin nói. – Tôi và Stephen đi taxi từ bệnh viện tới khách sạn. Chỉ mất có 15 phút, nên một khi quả khinh khí cầu xuất hệin ở Casino và Jean – Pierre thông báo kịp thời thì tôi sẽ đủ thời gian để sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trước khi các cậu có mặt.
- Hy vọng là quả khinh khí cầu này sẽ rơi ngay tại Casino, chứ không bay lên. – Jean – Pierre lẩm bẩm.
- Tôi đã thu xếp công việc với một nữ y tá, hẹn cô ta phải có mặt vào bất cứ lúc nào chúng ta cần, kể từ ngày mai. Bệnh viện đã có đủ các trang thiết bị mà tôi yêu cầu. Khênh băng ca từ bãi đỗ xe vào cửa trước của phòng mổ mất chứng hai phút, vì vậy, nếu tính từ lúc James bắt đầu lái xe đi, tôi có ít nhất 16 phút để chuẩn bị. James, cậu có thể lấy xe ở bãi đỗ của bệnh viện vào lúc 12 giờ trưa. Chìa khóa ở phòng lễ tân Hãy chạy thử hai lần thôi, không hơn. Tôi không muốn cậu làm cho thiên hạ tò mò. Tiện đây, cậu để luôn cái gói này vào sau xe.
- Cái gì vậy?
- Ba áo blu trắng và một ống nghe cho Stephen. Lúc lên xe, nhớ thử xem cậu có thể mở băng ca một cách dễ dàng không. Sau khi đã chạy thử hai lần, nhớ gửi xe vào bãi và trở về khách sạn, chờ tới 11 giờ đêm. Liên tục từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, cậu phải có mặt tại bãi đỗ xe của bệnh viện chờ tín hiệu "vào trận" của Jean – Pierre. Mọi người nhớ mua pin mới cho máy phát tin của mình. Tôi không muốn toàn bộ kế hoạch sẽ bị sụp đổ vì một cái phi mười xu. Còn Jean – Pierre, tôi e rằng từ giờ đến tối, chẳng có việc gì cho cậu là cả, trừ nghỉ ngơi, hy vọng là cậu có một vài quyển sách hay trong phòng.
- Chẳng lẽ tôi không thể tới rạp Princess xem một bộ phim hay sao? Tôi rất hâm mộ Jacqueline Basset.
- Jean – Pierre thân yêu, cô nàng Basset quê ở Reading đấy, - James nói.
- Không cần biết. Tôi rất muốn được xem phim của nàng.
- Hắn đang tìm cách ve vãn một con cóc, - James châm chọc.
- Sao lại không? – Robin nói.- Việc cuối cùng mà Harvey sẽ làm là xem một bộ phim Pháp đầu chất trí tuệ, không có phụ đề. Hy vọng phim sẽ hay và chúc cậu một buổi tối may mắn, Jean – Pierre.
Cũng lặng lẽ như khi tới, Jean – Pierre ra khỏi, bỏ lại ba người trong phòng 217.
- Nào, James. Cậu có thể chạy thử xe vào bất cứ lúc nào phù hợp, nhưng nhớ là phải thức cả đêm nay đấy.
- Tất nhiên rồi. Tôi sẽ lấy chìa khóa ở phòng lễ tân của bệnh viện. Cầu mong đừng có ai bắt tôi phải chạy xe cho một ca cấp cứu thực sự.
- Nào, Stephen, hãy kiểm tra lại các chi tiết một lần nữa. Sẽ là một thất bại lớn nếu có một sai sót nhỏ. Chúng ta sẽ bắt đầu từ phần trên. Anh sẽ làm gì nếu hợp chất õ – xít ni – tơ sụt xuống dưới năm lít …
- Đài quan sát đây. Đài quan sát đây. Đây là Jean – Pierre. Tôi đang đứng trên bậc tam cấp của Casino chưa thấy Metcalfe. Cậu có nghe thấy tôi không, James?- +
- Có. Tôi đang ở bãi đỗ xe của bệnh viện. Hết.
- Robin đây. Tôi đang có mặt trên ban công phòng 217. Stephen có đó không, Jean – Pierre?
- Có. Cậu ấy đang chè chén một mình ở quầy bar.
- Chúc may mắn. Hết.
Cuối cùng, đúng 11 giờ 16 phút, gã tới, ngồi vào chiếc ghế đã đặt trước tại bàn baccarat. Stephen thôi không uống nước cà chua. Jean – Pierre tiến lên, đứng cạnh bàn, kiên nhẫn chờ đợi người bên trái hoặc bên phải Harvey bỏ cuộc. Một tiếng trôi qua. Harvey thua đôi chút, nhưng vẫn tiếp tục chơi, cả tay người Mỹ cao lòng khòng bên phải và tay người Pháp bên trái cũng vậy. Một tiếng nữa trôi qua, vẫn không ai nhúc nhích. Bỗng nhiên tay người Pháp ngồi bên trái Metcalfe thua đậm, vội vàng thu gom vài chiếc thẻ nhựa cuối cùng rồi bỏ đi. Jean – Pierre nhích lên.
- Xin lỗi ngài, tôi e rằng ghế này đã bận rồi, - người hồ lỳ nói. – Còn một ghế trống ở phía bên kia bàn, thưa ngài.
- Ồ, không sao. – Jean – Pierre nói rồi quay lưng bỏ đi vì không muốn bị nhận mặt, trong lòng thầm nguyền rủa cách Monégasques đối xử với người giàu có. Từ quầy bar, Stephen cũng quan sát thấy những gì đang diễn ra nên anh kín đáo bỏ đi. Hơn hai giờ sáng tất cả lại có mặt tại phòng 217.
- Thật là một sai lầm ngớ ngẩn. Lẽ ra, tôi phải nghĩ tới việc đặt chỗ ngay khi vừa biết Harvey ngồi chỗ nào.
- Không, đó là lỗi của tôi. Tôi không biết gì về các sòng bạc. Lẽ ra trong các buổi họp trước, tôi phải thắc mắc về vấn đề chỗ ngồi. – Robin nói, tay vuốt ve bộ ria mới.
- Không ai có lỗi hết, - Stephen can thiệp. – Chúng ta vẫn còn ba đêm nữa. Không việc gì phải hoảng sợ. Chúng ta sẽ tìm cách giải quyết vấn đề chỗ ngồi sau, còn bây giờ, tôi phải đi ngủ đã. Mười giờ sáng mai, sẽ gặp nhau tại đây.
Một lần nữa, Harvey lại nằm ườn sưởi nắng, nước da đỏ au. Theo tờ New York, giá vàng đang lên, đồng mác Đức và đồng franc Thụy sỹ vẫn giữ giá, còn đồng đôla lại hạ so với đồng stec – linh. Đồng Stec- ling đang dừng ở mức 2,42 đôla. Harvey cho rằng nó sẽ giảm xuống 1,80 đôla, và nếu nó giảm cần sớm thì càng hay.
- Chẳng có gì mới mẻ, - gã nghĩ. Đúng lúc đó thì tiếng chuông điện thoại của Pháp vang lên réo rắt khiến gã giật mình. Gã chưa bao giờ có thể quen với tiếng chuông máy điện thoại nước ngoài.
- Chào Lloyd. Tôi không biết là ông cũng có mặt tại Monte … chúng ta sẽ gặp nhau nhé … 8 giờ tối? … Thậm chí tôi cũng mặc đồ nâu … phải làm sao cho già đi .. Cái gì?... Tuyệt vời, hẹn gặp lại.
Harvey đặt ống nghe xuống, gọi người phục vụ đem tới một ly whisky lớn. Rồi với vẻ mãn nguyện, gã đọc lại các tin tức tài chính buổi sáng.
- Có vẻ như đó là giải pháp hay hơn cả, - Stephen nó.
Những người khác gật đầu đồng tình.
- Jean – Pierre sẽ không chơi baccarat nữa mà đặt sẵn chỗi ngồi cạnh Harvey Metcalfe ở bàn chơi xì – lát trong phòng Salons des Amériques, rồi ngồi chờ hắn đổi trò chơi. Chúng ta đều đã biết số ghế của Harvey, chúng ta sẽ áp dụng phương án thích hợp.
Jean – Pierre quay số điện thoại của Casino và yêu cầu nói chuyện với Patrick Cattalano bằng tiếng Pháp để đặt chỗ ngồi tại bàn chơi xì – lát.
Chỉ là một cú điện thoại đặt chỗ thôi mà mồ hôi của Jean – Pierre cũng túa ra như tắm. Sau đó, tất cả đều trở về phòng riêng.
Khi chuông đồng hồ trên quảng trường thành phố điểm 12 tiếng, Robin lặng lẽ ngồi đợi trong phòng 217, James đứng trong bãi đỗ xe, miệng ngân nga không có em, anh vẫn sống vui vẻ, Stephen ngồi ở quầy bar trong phòng Salons des Amériques nhẩn nha với ly nước cà chua ép, còn Jean – Pierre đang chơi bài xì – lát ở ghế số hai, bàn số hai. Cả Stephen và Jean – Pierre đều nhìn thấy Harvey đi vào qua cửa, vừa đi, vừa nói chuyện với một người đàn ông mặc áo khoác kẻ sọc to, kiểu người Texas vẫn thường mặc. Harvey và người bạn cùng ngồi xuống bàn chơi. baccarat. Jean – Pierre vội vàng bỏ ra quầy bar.
- Ôi, tôi bỏ cuộc thôi.
- Không! – Stephen thì thầm. – Quay về khách sạn ngay.
Mọi người lại tập hợp trong phòng 217. Tinh thần xuống dốc ghê gớm, nhưng tất cả đều nhất trí rằng Stephen đã ra một quyết định đúng đắn. Họ không thể mạo hiểm khi có mặt bạn bè Harvey.
- Bước đầu có vẻ thành công quá đấy.
- Đừng có ngu ngốc như vậy, - Stephen nói, - Chúng ta có thể thay đổi toàn bộ kế hoạch ở phút cuối cùng, nhưng không được nản chí. Đừng hy vọng hắn sẽ xuất hiện và tự nguyện đặt tiền vào tận tay chúng ta. Thôi hãy tạm quên hắn đi! Tất cả, đi ngủ!
Họ trở về phòng của mình, nhưng không ai ngủ được vì tinh thần quá căng thẳng.
- Thôi, đủ rồi, Lloyd. Một buổi tối khá là tốt đẹp.
- Đối với ông thôi, Harvey, không phải với tôi. Có lẽ ông sinh ra để chiến thắng.
Với tâm trạng hưng phấn, Harvey hào phóng vỗ nhẹ lên vai bạn. Nếu trên đời này còn có một cái gì khiến cho gã hài lòng ngoài chiến thắng của bản thân gã, thì đó chính là sự thất bại của kẻ khác.
- Ông có muốn nghỉ qua đêm trên thuyên của tôi không, Lloyd?
- Không, cám ơn. Tôi phải về Nice. Ngày mai tôi có cuộc hẹn dùng cơm trưa ở Paris. hẹn gặp lại, Harvey. Hãy cận thận đấy. – Ông ta nói và vui vẻ thúc mạnh vào người Harvey.
- Chúc ngủ ngon, Lloyd. – Harvey nói không mấy tự nhiên.
Đêm sau, đúng 11 giờ, Jean – Pierre tới sòng bạc. Harvey Metcalfe đã có mặt ở bàn baccarat mà không có Lloyd. Stephen ngồi ở quầy bar. Trông anh có vẻ như đang rất giận dữ. Jean – Pierre liếc về phía anh với vẻ biết lỗi và ngồi xuống bàn chơi xì – lát. Để lấy lại khí thế, anh chơi một vài ván, cố gắng hạn chế số tiền thua cuộc và không hề quan tâm tới số tiền thắng cuộc khiêm tốn. Bất ngờ, Harvey rời bàn baccarat, hùng hổ đi vào phòng Salons des Amériques. Khi đi ngang qua các bàn, vì tò mò nhiều hơn là vì quan tâm thích thú. Gã vốn rất coi thường các trò chơi phụ thuộc hoàn toàn vào may rủi, và cho rằng bài baccarat và bài xì – lát đòi hỏi trí thông minh, sự khéo léo, tinh tường. Gã tiến thẳng đến bàn số hai, ghế số hai, bên trái Jean – Pierre. Ngay lập tức, Jean – Pierre cảm thấy như chất adrênalin bắt đầu tiết ra, và nhịp tim tăng lên tới 120 nhịp trên một phút. Stephen tạm thời ra khỏi sòng bạc vài phút để thông báo cho James và Robin biết Harvey bắt đầu chơi xì – lát, và đang ngồi cạnh Jean – Pierre, rồi trở về quầy bar chờ đợi.
Ở bàn xì lát có bảy người. ghế số một là một phụ nữ trung niên, người đeo đầy kim cương, trong có vẻ như bà ta đang giết thời gian trong khi chờ đợi ông chồng chơi bài baccarat hoặc ru- lét. Ở ghế số hai là Jean – Pierre, số ba là Harvey, số bốn là một anh chàng phóng đãng trông có vẻ như sống chủ yếu bằng các nguồn thu nhập bất hợp pháp. Ở ghế số năm là một người Ả - rập, ghế số sáu là một nữ ca sĩ khá hấp dẫn. Jean – Pierre nghi ngờ cô ta ăn cánh với tay ngồi ghế số năm. Ở ghế số bảy là một người đàn ông đứng tuổi mặc đồ dạ hội theo kiểu các quý tộc Pháp.
- Một cà phê đen! – Harvey kéo dài giọng với người bồi gầy gò trong trang phục màu nâu.
Monte Carlo không cho phép dùng rượu nặng ở các bàn đánh bạc, và cũng không cho phép các cô gái phục vụ khách. Trái ngược hẳn với Las Vegas, ở đây, Casino kinh doanh cờ bạc chứ không kinh doanh rượu hoặc đàn bà. Ngày còn trẻ, Harvey ưa chuộng Vegas, nhưng càng đứng tuổi gã càng đánh giá cao cái thị hiếu phúc tạp của người Pháp. Gã bắt đầu thấy yêu thích cái không khí trang trọng và cách bài trí của Casino.
Sau vài phút, một ly cà phê nóng hổi được đặt ngay cạnh Harvey. Jean – Pierre hoang mang nhìn cái ly trong khi Harvey đặt 100 franc lên bàn, ngay cạnh tấm thẻ nhựa 3 franc cảu anh – đây là các món cược lớn nhất và nhỏ nhất theo quy định. Tay nhà buôn, một thanh niên tuổi đời chưa quá ba mươi, rất kiêu ngạo vì trong một giờ đồng hồ có thể đánh một trăm ván, nhanh nhẹn chia bài. Jean – Pierre được một con già, Harvey – con bốn, anh chàng bên trái Harvey – con năm, tay nhà buôn – con sáu. Lá bài thứ hai của Jean – Pierre có bảy nước. Anh hết bài. Harvey lấy một lá mười và cũng hết bài. Anh chàng bên trái Harvey lấy một lá mười rồi yêu cầu tay nhà buôn lấy thêm một lá bài mới.
Trọng mọi lĩnh vực, Harvey đều xem thường các tay mơ. khi quân bài của nhà buôn được lật lên thì Harvey mỉm cười ranh mãnh. Harvey và Jean – Pierre thắng. Jean – Pierre phớt lờ số phận của các tay bài khác.
Ván tiếp theo không ai được. Jean – Pierre được mười tám điểm, hai lá bài chín nước của anh bị chặn bởi lá át của tay nhà buôn. Harvey cũng được mười tám điểm, một lá tám nước và một là bồi chuồn. Người thanh niên bên trái bị thối bài. Người hồ lỳ rút ra một lá đầm – và thu gom toàn bộ thẻ nhựa trên bàn.
Ván sau, Jean – Pierre được ba nước, Harvet - bảy, chàng thanh niên - mười, tay nhà buôn - bảy. Jean – Pierre rút thêm được một lá tám và thắng cuộc. Anh bỗng nhận thấy mình chơi quá giỏi. Anh quyết định không thể để mọi người chú ý tới mình, phải để Harvey xem đây như một sự ngẫu nhiên. Thực ra, Harvey không hề nhận ra Jean – Pierre: Mọi sự chú ý của gã đều đổ dồn về chàng thanh niên bên trái; anh chàng này có vẻ rất hăng hái tặng quà cho bàn cái. Tay nhà buôn tiếp tục chia bài, Harvey - một lá mười, chàng thanh niên – tám. Cả hai đều bị kẹt. Tay nhà buôn tự rút một lá mười và được 17 nước. Hắn phải trả tiền cho Jean – Pierre và chàng thanh niên; tiền cược của Harvey để nguyên. Để giữ anh chàng này ở đây qua đêm suốt sáng, nhà cái sẽ vui lòng thả cho anh chàng được một vài ván.
Không còn một lá bài nào. Tay nhà buôn gom các lá bài lại xáo đều lên rồi tiếp tục chia: Một là mười cho Jean – Pierre, một lá năm cho Harvey, một lá sáu cho anh chàng thanh niên và một lá bốn cho bản thân. Jean – Pierre rút ra một lá tám. Harvey rút một lá mười và bị kẹt với số điểm mười lăm. Chàng thanh niên rút một lá mười và yêu cầu được lấy thêm một lá nữa. Harvey như không thể tin vào mắt mình, gã huýt sao qua kẽ răng. Chắcn chắn quân tiếp theo sẽ là một quân già. Chàng thanh niên bị thối bài. Tay nhà buôn tự rút được một lá chuồn, rồi một lá tám, được hai hai nước, nhưng chàng ta vẫn không học được điều gì mới mẻ. Harvey nhìn cậu ta chằm chằm. Đến bao giờ cậu ta mới khám phá ra điều này, rằng trong số năm mươi hai lá bài, không dưới mười sáu lá có giá trị mười nước.
Sự xao lãng của Harvey đã tạo cho Jean – Pierre cơ hội mà anh đang mong đợi. Anh thò tay vào túi áo, giữ viên prostigmin Robin đưa cho trong lòng bàn tay trái. Anh hắt hơi, rồi bằng một cử chỉ rất thành thạo, anh dùng tay phải rút khăn mùi xoa ở túi áo ngực, đồng thời, nhanh nhẹn và kín đáo thảo viên thuốc vào tách cà phê của Harvey. Robin đã khẳng định với anh là thuốc sẽ chỉ có tác dụng sau một tiếng đồng hồ. Mới đầu, Harvey chỉ thấy hơi mệt mỏi, sau đó cảm giác khó chịu sẽ tăng cho đến khi gã không thể chịu đựng được nữa và sẽ phải lăn lộn vì đau đớn khủng khiếp.
Jean – Pierre quay về phía quầy bar, nắm bàn tay phải lại rồi lại xòe ra. Cứ như vậy ba lần. Sau đó, anh thay tay vào túi áo. Ngay lập tức, Stephen đứng lên, đi về phía bậc tam cấp, thông báo cho Robin và James biết viên prostigmin đã nằm trong cốc của Metcalfe. Không chậm trễ, Robin gọi điện tới bệnh viện đề nghị y tá trực chuẩn bị phòng mổ. Sau đó, anh lại gọi điện tới văn phòng các nữ y tá yêu cầu cô y tá mà anh thuê sau chín phút phải có mặt tại phòng đón tiếp của bệnh viện. Xong xuôi, anh lặng lẽ ngồi chờ tin tức từ sòng bạc.
Stephen trở lại quầy bar. Harvey bắt đầu cảm thấy hơi khó chịu, nhưng do dự, không muốn đứng dậy. Mặc dầu cơn đau đang tăng dần lên, nhưng gã vẫn tiếp tục chơi, bởi lòng tham cố hữu. Gã uống nốt phần cà phê còn lại rồi gọi thêm một tách nữa, hy vọng cà phê sẽ làm cho đầu óc sảng khoái hơn. Nhưng cà phê không giúp được gì. Gã bắt đầu cảm thấy mỗi lúc một khó chịu hơn. Một quân át, một quân bốn, một quân mười và hai lá hậu… Tất cả chúng đã níu kéo Harvey, giúp cho gã có đủ nghị lực trụ lại bàn xì – lát.
Jean – Pierre tự buộc mình không được nhìn đồng hồ. Nhà buôn chia cho Jean – Pierre một lá bảy, Harvey một lá át bích, còn người thanh niên một lá hai. Bất ngờ, Harvey đứng dậy, bỏ đi vì không thể chịu đựng cơn đau hơn được nữa. Bỗng gã sụp xuống sàn nhà, tay ôm bụng đau đớn. Jean – Pierre ngồi im trong khi người hồ lỳ và các tay bạc khác rối rít xung quanh một cách vô dụng. Stephen vạt đám đông quan Harvey ra để chen vào.
- Xin các ông lùi lại. Bác sỹ đây.
Đám đông nhanh nhẹn dãn ra, nhường chỗ cho vị chuyên gia.
- Cái gì vậy, bác sỹ? – Harvey thều thào. Gã cảm tưởng như thế giới sắp sửa kết thúc.
- Tôi cũng chưa biết, - Stephen đáp. Robin đã báo trước rằng cơn đau này không kéo dài chỉ tồn tại chừng mười phút, vì thế anh hành động rất nhanh. Anh nới lỏng cavát ở cổ Harvey và bắt mạch. Sau đó, anh cởi áo của gã, bắt đầu sờ nắn bụng.
- Dạ dày có đau không?
- Có, - Harvey rên rỉ.
- Đau bất ngờ à?
- Vâng.
- Ngài có thể tả đau như thế nào không? Đau nhói lên, đau âm ỉ, hay đau quặn?
- Đau nhói.
- Đau nhất ở đâu?
Harvey chỉ vào phía trái dạ dày. Stephen ấn tay vào chiếc xương xườn thứ chín, khiến Harvey phải gập người lại vì đau.
- À, - Stephen nói. - Dấu hiệu của bệnh Murphy. Có lẽ ngài bị viêm túi mật cấp tính. Tôi sợ có sỏi mật. – Anh tiếp tục dùng tay khám nghiệm phần bụng của Harvey một cách nhẹ nhàng. – Có vẻ như là một viên sỏi mật đã rơi ra khỏi túi mật và đang theo đường ống mật đi xuống ruột khiến ống mật bị ép chặt gây nên đau dữ dội. Theo tôi, ngài phải phẫu thuật ngay lập tức để lấy sỏi mật. Hy vọng là ở bệnh viên, ai đó có thể mổ cho ngài.
Jean – Pierre bây giờ mới tiến lại và nói lớn:
- Bác sỹ Wiley Barker đang ở cùng khách sạn với tôi.
- Wiley Barker, bác sỹ phẫu thuật người Mỹ?
- Đúng thế, - Jean – Pierre nói. – Ông ta là bác sỹ riêng của Nixon.
- Lạy chúa, thật may mắn. Chúng ta không thể tìm được ai giỏi hơn ông ấy đâu, nhưng tiền công sẽ rất cao đấy.
- Tôi không quan tâm đến chi phí, - Harvey rền rĩ.
- Ừm… có lẽ phải tới 50.000 đôla đấy.
- 100.000 đô la tôi cũng cóc cần, - Harvey gào lên. Lúc này, gã sẵn lòng chia tay với toàn bộ của cải.
- Thôi, thế này, xin ngài làm ơn, - Stephen nói và nhìn vào Jean – Pierre, - gọi cho một xe cấp cứu và liên hệ ngay với bác sỹ Barkerr, mời ông ta đến bệnh viên. Nói với ông ta, đây là một ca cấp cứu. Quý ngài đây cần được mổ với các thiết bị hiện đại có chất lượng cao nhất.
- Ngài nói đúng, - Harvey nói rồi lại gục xuống.
Jean – Pierre rời khỏi xòng bạc và truyền qua máy phát tin:
- Vào trận. Vào trận.
Robin liền rời khỏi khách sạn Hotel des Paris, đón taxi tới bệnh viện. Có lẽ chính bản thân anh cũng sẵn lòng trả 100.000 đôla để được ngồi vào chỗ tài xế, nhưng muộn rồi, người lái xe đã đáp ứng đúng yêu cầu của anh. Giả sử Robin có muốn trở lại khách sạn thì cũng đành chịu.
Cùng lúc đó, James khởi động xe cứu thương rồi lao vụt về phía sòng bạc, liên tục hú còi. Anh may mắn hơn Robin. Với sự tập chung cao độ, anh không còn thời gian để suy tính đến hậu quả các việc đang làm.
Sau mười một phút bốn mươi mốt giây, James đã có mặt tại Casino. Anh lao ra khỏi xe, nhanh nhẹn mở cửa hậu, lấy băng ca, rồi lao nhanh trên các bậc tam cấp. Tại bậc trên cùng, Jean – Pierre đang đứng đợi anh với vẻ hy vọng. Họ không nói gì với nhau. Jean – Pierre dẫn anh đi nhanh tới phòng Salon des Amériques, Stephen và James nâng băng ca lên, nhanh chóng khênh Harvey về phía xe cứu thương, Jean – Pierre cũng đi theo họ.
- Các ngài đưa sếp của tôi đi đâu thế? - Một giọng nói đột ngột vang lên.
Giật mình, cả ba người quay lại. Đó là người tài xế của Harvey Metcalfe, đang đứng bên cạnh chiếc Rolls Royce màu trắng. Sau một thoáng do dự, Jean – Pierre lên tiếng:
- Ngài Metcalfe bị ngất, cần được đưa tới bệnh viện mổ cấp cứu. Ngay bây giờ, anh phải trở về tàu, cho người thu dọn cabin sạch sẽ, và chờ đợi hướng dẫn tiếp theo.
Người tài xế giơ tay chạm lên mũ lưỡi chai rồi chạy nhanh về phía chiếc Rolls Royce. James ngồi vào tay lái, còn Stephen và Jean – Pierre cùng ngồi ở khoang sau với Harvey.
- Lạy chúa, thế là xong! Tuyệt cú mèo, Jean – Pierre! Tôi không thể tả xiết! – Stephen thốt lên.
- Không có gì. – Jean Pierre nói, mồ hôi tuôn đầm đìa trên mặt.
Chiếc xe cứu thương lao vọt đi như một con mèo bị cháy đuôi. Stephen và Jean – Pierre cởi áo khoác và mặc vào những chiếc áo blu trắng để sẵn trên ghế. Stephen còn đeo thêm cả một chiếc ống nghe quanh cổ.
- Tôi có cảm tưởng hắn đã chết, - Jean – Pierre nói.
- Robin nói hắn không thể chết, - Stephen đáp.
- Làm sao Robin biết được một khi cậu ta ở cách đây bốn dặm?
- Tôi không rõ. Nhưng chúng ta phải tin vào lời cậu ấy.
James phanh két xe lại trên lối vào bệnh viện. Stephen và Jean – Pierre hối hả đưa bệnh nhân vào phòng phẫu thuật. James trả xe về bãi rồi cũng nhanh nhẹn nhập bọn với ba người trong phòng phẫu thuật.
Robin đã rửa tay sạch sẽ và mặc áo choàng. Anh đón họ ngay tại cửa phòng mổ. Trong khi họ đang buộc Harvey Metcalfe vào bàn mổ, anh nói:
- Tất cả mọi người thay quần áo nhanh lên. Còn Jean – Pierre, nhớ rửa tay sạch sẽ như đã được hướng dẫn.
Ngay lập tức, cả ba người nhanh nhẹn thay quần áo; và Jean – Pierre bắt đầu rửa tay. Đây là một quy trình khó nhọc, lâu la mà Robin đã dạy anh rất kỹ lưỡng và anh không được phép ăn bớt bất cứ một công đoạn nào. Sự nhiễm trùng máu sau khi mổ sẽ làm hỏng toàn bộ kế hoạch. Jean – Pierre từ buồng vệ sinh đi ra, anh đã sẵn sàng vào trận.
- Nào, hãy bình tĩnh. Chúng ta đã làm việc này chín lần rồi. Cứ tiến hành như thể chúng ta đang ở bệnh viện St. Thomas’s.
Stephen đứng vào phía sau chiếc máy lưu động Boyles. Anh đã theo học một khóa đào tạo kỹ thuật viên gây me dài bốn tháng. Đã hai lần, anh thực tập với James và Jean – Pierre tại bệnh viện St. Thomas’s. Còn bây giờ anh sẽ thể hiện tài năng của mình đối với Harvey Metcalfe.
Robin lấy từ chiếc túi nhựa ra một ống tiêm và tiêm 250mg thuốc thiopentone vào cánh tay Harvey. Bệnh nhân chìm vào một cơn ngủ say. Nhanh nhẹn và cẩn thận, Jean – Pierre và James cởi quần áo của Harvey, rồi phủ lên người gã một tấm vải. Stephen chụp mặt nạ Boyles lên mũi Metcalfe. Hai chiếc đồng hồ trên máy cho biết có 5 lít oxit nitơ và 3 lít ôxy.
- Bắt mạch cho hắn, - Robin nói.
Stephen đặt một ngón tay lên thùy tai Metcalfe bắt mạch. Mạch đang 70.
- Đưa vào buồng phẫu thuật. – Robin hướng dẫn.
James đẩy chiếc bàn có bánh xe sang phòng bên, dừng lại ngay dưới các ngọn đèn mổ. Stephen đẩy máy Boyles theo sau.
Buồng mổ không có cửa sổ và vô trùng đến lạnh lẽo. Các bức tường đều được lát gạch kính bóng loáng từ sàn cho tới tận trần. Trong phòng có đủ thiết bị cho một ca phẫu thuật. Jean – Pierre phủ lên người Harvey một tấm khăn tẩy trùng màu xanh, chỉ để hở đầu và hai cánh tay. Một chiếc bàn có bánh xe lăn chất đầu các dụng cụ, drap, khăn mặt tẩy trùng. Tất cả những thứ này cũng được phủ kín bằng một tấm khăn tẩy trùng. Robin treo một cái chai đựng chất lỏng intravenous vào cây cọt ở đầu bàn mổ rồi buộc một đầu ống dẫn vào cánh tay trái của Harvey. Stephen ngồi ở đầu bàn, cạnh máy gây mê Boyles, điều chỉnh mặt nạ chụp xuống mũi, mồm Harvey. Trong số ba ngọn đèn lớn phía trên Harvey, chỉ có một ngọn đèn được bật nhằm tạo ra một khoảng sáng tập trung, chiếu thẳng vào chỗ phình lên trên bụng Harvey.
Tám con mắt đổ dồn vào nạn nhân. Robin tiếp tục ra lệnh:
- Tôi sẽ đưa ra các hướng dẫn tương tự như trong các lần tập, vì vậy, tất cả hãy tập trung. Trước hết, tôi sẽ lau sạch phần da bụng bằng I - ốt.
Robin đã có tất cả các dụng cụ cần thiết ngay bên cạnh bàn, gần chân Harvey. James nhấc tấm khăn phủ lên, cuộn dần về phía chân Harvey, sau đó, anh cẩn thận nhấc tấm khăn tẩy trùng phủ bàn dụng cụ lên, đổ I - ốt vào một trong số các chậu nhỏ. Robin dùng kẹp gắn một miếng gạc nhúng sâu vào dung dịch I - ốt. Với một động tác dứt khoát, anh lau sạch bụng Harvey, vứt miếng gạc vào bồn rồi lại tiếp tục lấy gạc mới để lau. Sau đó, anh đặt một cái khăn mặt tẩy trùng dưới cằm Harvey, che toàn bộ phần ngực, và phủ một cái lên hông và hai đùi. Anh lại đặt một cái thứ ba dọc theo cơ thể Harvey, ở bên trái và một cái cuối cùng ở bên phải chỉ để lại một khoảng rộng chừng 9 inch trên bụng. Ở mỗi góc, anh đều kẹp lại bằng một chiếc kẹp để giữ các tấm khăn khỏi xô lệch. Giờ thì Robin đã sẵn sàng:
- Dao!
Jean – Pierre đặt cái mà anh có thể gọi là dao vào lòng bàn tay đang xòe rộng, như thể bàn tay của vận động viên chạy tiếp sức đang chờ nhận cây gậy đồng đội chuyền cho, của Robin. Jean – Pierre nhìn sang phía bên kia bàn mổ và bắt gặp đôi mắt sợ hãi của James, còn Stephen đang mải tập trung chú ý tới nhịp thở của Harvey. Robin thoáng lưỡng lực một giây rồi quả quyết rạch một đường chính xác, dài đúng 10 cm, sâu chừng 3 cm. Ít có khi nào Robin lại được tận mắt chứng kiến một cái dạ dày bự đến thế này. Anh có thể rạch sau tới 8cm mà vẫn không lo chạm vào cơ. Máu bắt đầu chảy túa ra, Robin phải cầm máu bằng phép nhiệt điện. Ngay sau khi rạch bụng và cầm máu xong, anh tiến hành khâu vết thương cho bệnh nhân bằng một loại chỉ đặc biệt.
- Nó sẽ tự tiêu trong vòng một tuần, - anh giải thích. Sau đó, anh lau sạch viết rạch và các vệt máu, rồi đặt một miếng băng dính lên trên tác phẩm của mình.
James gỡ các tấm drap và các tấm khăn tẩy trùng ra, bỏ chúng vào một cái thùng lớn, còn Robin và Jean – Pierre mặc cho Metcalfe chiếc áo choàng bệnh viện. Họ cẩn thận gói kỹ đồ của gã vào một chiếc túi làm bằng chất dẻo màu xám.
- Hắn đang tỉnh lại, - Stephen nói.
Robin tiêm thêm cho Harvey 10mg diazepan.
- Ít nhất, hắn cũng ngủ thêm 30 phút nữa, - anh nói, - và bất luận thế nào, hắn cũng sẽ mơ mơ màng màng trong khoảng ba tiếng. Sau đó, hắn sẽ không nhớ nhiều lắm về những gì đã xảy ra. James, cậu ra xe cứu thương trước, và chờ bọn tôi ở cổng bệnh viện.
James rời khỏi phòng mổ, thay quần áo, một thủ tục mà bây giờ anh có thể hoàn tất trong 90 giây. Anh mất hút trong bãi đỗ xe.
- Nào, hai cậu, thay quần áo đi, rồi đưa Harvey ra xe cứu thương. Jean – Pierre sẽ ngồi ở khoang sau với hắn, còn Stephen, hãy tiến hành nhiệm vụ tiếp theo của mình.
Stephen và Jean – Pierre nhanh nhẹn thay quần áo. Họ mặc lại chiếc áo choàng dài màu trắng rồi nhẹ nhàng đẩy chiếc bàn chở Harvey Metcalfe đang mê man về phía xe cứu thương. Khi xong xuôi, Stephen chạy tới trạm điện thoại công cộng gần cổng bệnh viện, anh rút từ trong ví ra một mảnh giấy nhỏ, đọc lướt qua rồi quay số.
- Xin chào, tòa soan Nice- Matin phải không ạ? Tôi là Terry Roads, phóng viên New York Times. Tôi có một câu chuyện thú vị nho nhỏ dành cho các ngài…
Robin trở lại phòng mổ, đẩy chiếc bàn đựng dụng cụ vừa dùng vào phòng tẩy trùng. Sáng mai, nhân viên ca sáng sẽ xử lý chúng. Anh cầm chiếc túi đựng quần áo của Harvey lên, đi sang phòng thay quần áo, nhanh nhẹn cởi áo mổ, mũ và mặt nạ ra, mặc lại quần áo của mình. Trong lúc người y tá trưởng kiểm tra lại đồ nghề do Robin bàn giao, anh nở một nụ cười hấp dẫn với cô.
- Tất cả đã hoàn tất, ma soeur. Tôi để lại mọi dụng cụ trong phòng tẩy trùng. Một lần nữa, xin cô cho tôi gửi lời cám ơn bác sỹ Bartise.
Một lát sau, Robin đi bộ về phía xe cứu thương. Cùng đi với anh là nữ y tá anh đã thuê của đại lý. Anh giúp cô lên xe, vào khoang sau.
- Hãy đi thật chậm và cẩm thận về cảng.
James gật đầu rồi lên đường với tốc độ đưa đám.
- Cô là y tá Faubert?
- Vâng, thưa bác sỹ Barker.
Cô Faubert mặc trang phục y tá dài tay. Cô có chất giọng Pháp duyên dáng, cuốn hút, tới mức Robin nghĩ Harvey không thể nào lại không hài lòng với bàn tay chăm sóc của cô.
- Bệnh nhân của tôi vừa trải qua một ca phẫu thuật lấy sỏi mật, ông ta cần được nghỉ ngơi yên tĩnh.
Nói tới đó, Robin lấy từ trong túi ra một viên sỏi mật cỡ bằng một quả quýt, trên có dính một cái nhãn của bệnh viện với dòng chữ: "Harvey Metcalfe". Thực ra, Robin lấy trộm viên sỏi khổng lồ này của bệnh viện St. Thomas’s. Chủ nhân đích thực của nó là người bán vé ô tô buýt trên tuyến đường 14, cao 6 foot 6. Stephen và James nhìn chằm chằm vào viên sỏi một cách ngờ vực, còn nữ y tá kiểm tra lại mạch và hơi thở của bệnh nhân mới.
- Y tá Faubert, nếu tôi là bệnh nhân của cô, - Jean – Pierre nói với vẻ duyên dáng, - tôi sẽ không bao giờ muốn được bình phục.
Sau khi đưa Harvey lên du thuyền, Robin hướng dẫn một cách ngắn gọn các yêu cầu về chế độ ăn uống và nghỉ ngơi của bệnh nhân và bảo nữ y tá rằng ngày mai, đúng mười một giờ sáng, anh sẽ có mặt để kiểm tra tình hình sức khỏe của gã. Bốn người ra vể, để lại Harvey ngủ say sưa trong khoang thuyền rộng rãi, với đám nhân viên ân cần.
James đưa ba người về bệnh viện, gửi xe vào bãi đỗ, trả chìa khóa cho phòng lễ tân. Sau đó, bốn người trở về khách sạn bằng những con đường riêng rẽ khác nhau. Robin là người cuối cùng xuất hiện ở phòng 217. Lúc đó là hơn 3 giờ 30 phút sáng. Anh thả mình xuống một chiếc ghế tựa.
- Cậu cho phép tớ uống một chút whisky chứ, Stephen?
- Tất nhiên rồi.
- Lạy Chúa tôi, cậu ta đồng ý, - Robin nói và rót một ly lớn Johnny Walker trước khi chuyển chai rượu cho Jean – Pierre.
- Hắn sẽ không sao chứ? – James hỏi.
- Cậu có vẻ quan tâm đến hắn quá đấy. Tất nhiên; sau một tuần, mười mũi khâu sẽ biến mất, hắn chỉ còn sở hữu một vết sẹo gớm ghiếc để khoác loác với bạn bè thôi. Tôi cần phải ngủ một chút. Mười một giờ sáng mai, tôi phải tới thăm nạn nhân của chúng ta. Cuộc đối đầu này sẽ khó khăn hơn cuộc phẫu thuật vừa rồi. Tối nay, các cậu đều tỏ ra rất tuyệt. Lạy chúa, thật may là chúng ta đã nghe giảng ở St. Thomas’s. Nếu có bao giờ các cậu thất nghiệp, và tôi lại cần một tay hồ lỳ, một tài xế, hay một kỹ thuật viên gây mê thì tôi đã biết nên gọi điện cho ai.
Ba người ra khỏi phòng. Robin mệt mỏi nhoài xuống giường. Anh chìm vào giấc ngủ say sưa và chỉ tỉnh giấc sau 8 giờ sáng ngày hôm sau, thấy mình vẫn mặc nguyên quần áo. Điều này chưa bao giờ xảy ra với anh, kể cả khi anh còn là bác sỹ thực tập nội trú trẻ măng, thường phải trực đêm sau mười bốn giờ làm việc liên tục. Robin tắm rất lâu bằng nước nóng, rồi thay quần áo. Anh mặc sơ mi mới, và comple mới, chuẩn bị sẵn sàng cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Harvey Metcalfe. Bộ ria mới nuôi, cái kinh không vành, và sự thành công của ca mổ khiến anh cảm thấy mình đôi chút giống vị bác sỹ nổi tiếng mà anh đang sắm vai.
Một giờ sau, ba đồng đội của anh đều tề tựu đầy đủ tại phòng 217 để chúc anh lên đường may mắn. Hơn thế, họ còn tự nguyện đợi anh trở về. Stephen đã trả lại tất cả các phòng và đặt bốn chỗ trên chuyến bay về London vào cuối buổi chiều. Robin lên đường. Lần này, anh cũng không dùng thang máy mà đi cầu thang bộ. Ra khỏi khách sạn, anh đi bộ một đoạn ngắn rồi mới vẫy taxi đi đến cảng.
Việc tìm kiếm chiếc du thuyền Messenger Boy chẳng có gì là khó khăn. Thuyền nằm ở phía đông cảng, nước sơn mới lấp lánh trong nắng. Trên cột buồm vững chắc, lá cờ Panama rộng lớn bay phần phật. Robin cho rằng đây là một cách trốn thuế. Anh bước lên tấm ván dẫn lên du thuyền. Ra đón anh là nữ y tá Faubert.
- Xin chào, bác sỹ Barker.
- Xin chào. Sức khỏe ông Metcalfe thế nào rồi?
- Đêm qua, ông ta ngủ rất an lành. Sáng nay ông ấy đã ăn được một chút, và bây giờ thì đang nói chuyện qua điện thoại. Bác sỹ có muốn gặp ông ấy ngay không?
- Có chứ.
Robin bước vào cabin hào nhoáng, đối mặt với gã đàn ông mà suốt tám tuần qua, anh liên tục tìm phương kế chống đối. Gã đang nói chuyện trên điện thoại.
- Ồ, em yêu, mọi việc ổn rồi. Nhưng đó quả là một ca cấp cứu loại A1. Đừng lo, anh sẽ sống.
Nói đến đây, gã dừng lại, đặt điện thoại xuống.
- Bác sỹ Barker, tôi vừa nói chuyện với vợ ở Masachusetts. Tôi bảo với bà ấy rằng tôi mang ơn bác sỹ suốt đời. Bà ấy cũng cảm thấy rất may mắn. Tôi hiểu, tôi là một bệnh nhân tư, phải dùng xe cứu thương tư, và bác sỹ đã cứu sống tôi. Thực ra, đó là tất cả những gì ngươi ta viết trên tờ Nice- Matin.
Trên boong tàu có treo một tấm ảnh cũ của Harvey trong chiếc quấn short Bermuda, rất giống với chiếc ảnh trong tập hồ sơ của Robin.
- Bác sỹ, tôi muốn biết, - Harvey nói với vẻ hứng thú, - Tôi đã thực sự lâm vào tình trạng nguy kịch à?
- Vâng, một ca cấp cứu cực kỳ nguy hiểm mà hậu quả sẽ rất nghiêm trong nếu chúng tôi không kịp thời lấy cái này ra khỏi bụng ông. – Robin rút từ túi áo ra viên sỏi mật có viết tên Harvey.
Mắt Harvey trợn ngược lên như muốn bật ra khỏi tròng vì quá ngạc nhiên.
- Trời, thế ra tôi vẫn đi đây đi đó với cái của nợ này trong người hay sao? Trời ơi! Tôi biết cảm ơn bác sỹ thế nào đây. Nếu có một lúc nào đó, tôi có thể giúp gì cho bác sỹ, xin bác sỹ đừng chần chừ gọi điện cho tôi. – Gã mời Robin một quả nho.- Bác sỹ, ông sẽ chăm sóc tôi cho đến khi bình phục hẳn chứ? Tôi không nghĩ là cô y tá có thể đánh giá đúng mức đọ nghiêm trọng của ca này đâu.
Robin nghĩ thật nhanh.
- Tôi e rằng tôi không có thời gian làm việc này, ông Metcalfe ạ. Hôm nay là ngày nghỉ cuối cùng của tôi và tôi phải trở về California. Cũng chẳng có gì nghiêm trọng lắm, chỉ là một vài cuộc phẫu thuật và một chương trình giảng dạy tương đối căng thẳng. – Anh nhún vai với vẻ bất lực, - Chẳng có gì to tát, nhưng chúng giúp tôi phải kiếm sống. Vả lại, tôi cũng quen rồi.
Harvey ngồi dựng lên, tay ôm nhẹ vào bụng.
- Nào, xin bác sỹ hãy nghe tôi. Tôi không quan tâm tới vài thằng sinh viên. Tôi là người bệnh, và tôi cần ngài có mặt ở đây, bên cạnh tôi, cho tới khi tôi hoàn toàn bình phục. Ngài đừng lo, tôi sẽ trả công xứng đáng. Tôi không bao giờ dè xẻn tiền nong cho việc chăm sóc sức khỏe, và nếu ngài muốn, tôi sẽ đổi séc ra tiền mặt. Điều cuối cùng mà tôi muốn là chú Sam cần phải biết tôi cũng có giá lắm chứ.
Robin khẽ ho. Anh tự hỏi không biết các bác sỹ người Mỹ giải quyết vấn đề tế nhị về thù lao với bệnh nhân như thế nào.
- Thù lao có thể hơi cao. Có thể sẽ lên tới 80.000 đôla cơ đấy. – Robin hít một hơi thở sâu.
Harvey không hề chớp mắt.
- Tất nhiên rồi. Ngài là bác sỹ giỏi nhất. Ngần ấy tiền để cứu một sinh mạng đâu phải là nhiều.
- Thôi được. Tôi phải trở về khách sạn bây giờ, nhưng tôi sẽ xem xét liệu có thể sắp xếp lại chương trình không.
Robin rút lui khỏi phòng của bệnh nhân. Chiếc Rolls Royce màu trắng đưa anh về khách sạn. TRong phòng 217, ba người bạn chăm chú lắng nghe câu chuyện của Robin, khi anh kế thúc, họ ngờ vực nhìn anh chằm chằm.
- Stephen, thằng cha này bắt đầu mắc chứng bệnh tưởng. Hắn muốn tôi ở lại đây cho đến khi hắn bình phục. Không ai trong chúng ta dự tính điều này.
Stephen lạnh nhạt nói:
- Cậu sẽ ở lại đây và đón lấy quả bóng đi. Tại sao chúng ta lại không thể cho hắn biết giá trị của hắn - tất nhiên là phải tính theo kiểu của riêng mình hắn. Nào, hãy cầm điện thoại lên và bảo hắn rằng ngày nào cũng vậy, cứ 11 giờ sáng là cậu có mặt kiểm tra cho hắn. Chúng tôi sẽ ra về mà không có cậu. Nhưng nhớ là đừng có sài sang quá đấy.
Robin nhấc điện thoại lên.
Trưa hôm đó, bốn người bạn trẻ tổ chức một bữa tiệc chia tay thịnh soạn trong phòng 217. Họ tự thưởng cho mình một chai Krug’64. Sau đó, ba người rời khỏi khách sạn Hotel de Paris, đi taxi đến sân bay Nice, đón chuyến bay BA 012
- Nếu có một lúc nào đó, tôi có thể giúp ngài, xin ngài đừng chậm trễ gọi điện cho tôi.
Mỗi ngày Robin tới thăm bệnh nhân một lần trên chiếc Corniche màu trắng với một tài xế mặc đồng phục trắng. Lần thăm bệnh thứ ba, y ta Faubert đề nghị được nói chuyện riêng với anh.
- Bệnh nhân của tôi, - cô như chuẩn bị trước, - bắt đầu có những cử chỉ gần gũi khiếm nhã khi tôi thay quần áo cho ông ta.
Robin cho phép bác sỹ Wiley Barker tự do đưa ra một nhận xét không thuộc chuyên môn.
- Làm sao mà tôi có thể khiển trách ông ấy được. Tuy nhiên, tôi tin chắc là cô đã từng gặp những chuyện tương tự.
- Tất nhiên, nhưng không phải với một bệnh nhân vừa được phẫu thuật cách đây ba hôm. Cơ thể ông ta hẳn phải là sắt thép.
- Tôi sẽ cho cô biết cần phải làm gì. Hãy tống cái của nợ của hắn vào một cái ống, và hắn sẽ chẳng thể làm gì được nữa. – Cô mỉm cười. – Nhưng bị giam ở đây cả ngày, hẳn phải rất buồn, - Robin tiếp tục. – Mà tại sao tối nay cô lại không đến chỗ tôi nhỉ, sau khi Metcalfe đã đi ngủ, chúng ta sẽ cùng ăn tối.
- Tôi cũng thích như vậy. Tôi sẽ gặp ngài ở đâu?
- Phòng 217, khách sạn Hotel de Paris, - Robin nói mà không hổ thẹn. – 9 giờ tối nhé?
- Vâng.
- Nào Angeline, uống thêm một chút chablist nhé?
- Không, cám ơn, Wiley. Đây là một bữa ăn đáng nhớ.Tôi nghĩ, có thể ngài vẫn chưa có tất cả mọi thứ ngài muốn , phải không?
Cô đứng dậy, châm hai điếu thuốc , đặt một điếu vào miệng Robin. Sau đó, cô bước đi vài bước , chiếc váy dài nhẹ đung đưa bên hông. Dưới làn áo sơ mi màu hồng, cô không mặc đồ lót. Cô hít một hơi thuốc và ngắm nhìn anh.
Robin nhớ tới bác sĩ Barker trong sạch giờ này đang có mặt tại Australia, nhớ tới vợ con anh ở Newbury, và cuối cùng là tới đồng đội ở London. Nhưng rồi, anh quyết định gạt bỏ tất cả.
- Liệu có than phiền với ngàu Metcalfe nếu tôi có cử chỉ khiếm nhã với cô không?
- Nếu là anh, Wiley, - cô mỉm cười, - thì không bao giờ.
Harvey bình phục rất nhanh, tới ngày thứ sáu thì Robin tháo băng cho gã.
- Có vẻ nhu vết thương đã lành rồi đó, ngàu Metcalfe. Cứ yên tâm, chỉ giữa tuần sau là ngài hoàn toàn bình phục
- Tuyệt. Tôi cần phải quay ngay về Anh để kịp tuần lễ Ascot. Ngài biết không, con Rosalie của tôi là con ngựa được hâm mộ trong năm nay đấy. Liệu tôi có thể mời ngài tới dự các cuộc đua được không? Tôi sẽ làm gì nếu cơn đau lại tái phát?
Ronbin cố nén một nụ cười
- Xin ngài an tâm. Tình trạng sức khoẻ của ngài bây giờ rất tuyệt. Rất tiếc là tôi không thể xem con Rossalie thi đấu tại Ascot.
- Thật đáng tiếc. Dẫu sao cũng xin cảm ơn ngài, bác sĩ ạ. Chưa bao giờ tôi được gặp môt bác sĩ phẩu thuật giỏi và dễ mến như ngài
Anh cảm thấy nhẹ nhõm vì được xa cách Harvey, nhưng lại tiếc nuối vì phải tạm biệt Angeline.
Khi về tới khách sạn, anh nhờ người tài xế chuyển cho Harvey một hoá đơn viết theo kiểu cổ :
Bác sĩ Wiley Frank Barker gửi lời chúc mừng tới ngài Harvey Metcalfe và xin thông báo với ngài về số tiền thù lao dịch vụ y tế chuyên nghiệp 80.000 đôla cho cuộc phẫu thuật và điều trị hậu phẫu.
Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, người tài xế đã trở lại với tấm séc 80.000 $. Robin bay về trong chiến thắng
Hai người đã thành công Chỉ còn hai người tiếp tục chiến đấu.
- Gọi chúng ta đấy. – Stephen nói.
Bốn người vào thang máy, lên tầng hai rồi đi xuống một hành lang dài. Sau khi được kiểm tra hành lý để xác định họ không mang súng lục, bom, hay bất cứ một thứ gì những kẻ khủng bố có thể mang, bốn người bước lên tháng máy bay.
Họ ngồi riêng rẽ mỗi người một nơi, không nói chuyện, thậm chí còn không nhìn nhau. Stephen cảnh giác họ rằng, trong số hành khách có thể có bạn bè của Harvey, và mỗi người hãy tự đặt giả thiết rằng mình đang ngồi cạnh một trong những kẻ thân thiết nhất của hắn.
James ngồi ủ rũ, cau có ngắm nhìn bầu trời không một gợn mây. Anh và Anne đã tìm đọc rất nhiều sách, thậm chí cả những truyện về các vụ đánh cắp tiền, hay lừa đảo, nhưng họ vẫn chưa tìm được một cái gì khả dĩ, có thể bắt chước. Ngay cả Stephen, ngoài những lúc phải có mặt ở St. Thomas’s, giả làm một cái xác trần như nhộng cho người ta thực tập, cũng bắt đầu lo lắng tìm cho James một kế hoạch khả thi.
13 giờ 40 phút máy bay Trident hạ cánh tại Nice. Bốn người đón tàu hoả đi tiếp tới Monte Carlo. Chuyến đi kéo dài hai mươi phút. Mỗi người trong bọn họ lại tự tìm đường tới khách sạn Hotel de Paris sang trọng ở Place du Casino.
Đúng 7 giờ tối, tất cả đều có mặt tại phòng 217.
- Các cậu ổn định phòng nghỉ rồi chứ?
Ba người kia gật đầu.
- Cho tới nay mọi việc đều ổn, - Robin nói. – Nào, chúng ta hãy cùng bàn bạc, tính toán thời gian. Jean – Pierre, tối nay, cậu sẽ tới sòng bạc, chơi một vài ván baccarat và bài xì lát. Cố gắng làm quen với môi trường mới, và học thuộc các đường đi nước bước ở đó. Đặc biệt là cậu phải nắm vững các quy tắc khác nhau, nếu có, so với sòng bạc Claremont. Nhớ là không được nói tiếng Anh. Cậu có dự tính được các vấn đề sẽ xảy đến không?
- Không, Robin. Tốt hơn cả là cứ để tôi đi luôn bây giờ và tập dượt lại.
- Đừng để bị thua quá nhiều đấy. – Stephen nói.
Jean – Pierre, rất bảnh bao với mái tóc ngắn cũn bộ râu cằm và áo vét dạ hội, cười toe toét rồi đi nhanh ra khỏi phòng 217, xuống cầu thang. Anh tránh không dùng thang máy. Sòng bạc Casino nổi tiếng cách không xa khách sạn nên anh quyết định đi bộ.
Robin tiếp tục:
- Còn James, cậu cũng đến Casino nhưng là để đón một chiếc taxi và bảo tài xế chạy thẳng đến bệnh viện. Khi tới nơi, cậu phải để mặc cho đồng hồ xe chạy vài phút rồi mới bảo lái xe trở về casino. Thường thì các lái xe taxi bao giờ cũng biết các con đường ngắn nhất, nhưng để cho chắc ăn, cậu hãy bảo lái xe là cậu đang rất gấp, như vậy, cậu sẽ có cơ hội tìm hiểu trong trường hợp khẩn cấp, nên đi theo dòng xe nào. Khi lái xe trả cậu về Casino cậu lại phải đi bộ tới bệnh viện và ngược lại, đó chính là thời gian để cậu ghi nhớ và tái hiện lại các con đường đã đi qua. Khi đã thông thạo đường từ Casino tới bệnh viện, cậu sẽ tiếp tục tiến hành những việc tương tự với con đường từ bệnh viện tới thuyền của Harvey. Nhớ là không được bước chân vào Casino, mà cũng không được lại gần du thuyền tới mức người ta có thể nhìn thấy cậu. Nếu để họ thấy cậu bây giờ thì có nghĩa là cậu sẽ bị phát hiện sau này.
- Thế còn những việc tôi phải làm trong Casino vào đêm hành động thì sao?
- Jean – Pierre sẽ lo việc này. Cậu ta sẽ đón cậu ở cửa vì Stephen không thể rời Harvey nửa bước. Tôi không nghĩ là họ sẽ bắt cậu phải trả 12 franc vào cửa nếu cậu mang theo băng ca và mặc áo blu trắng; nhưng cũng nên kiểm tra trước đi. Sau khi đã thông thuộc các con đường cậu phải trở về phòng mình, không được đi đâu. 11 giờ sáng mai chúng ta sẽ gặp lại nhau. Stephen và tôi sẽ tới bệnh viện để kiểm tra công tác chuẩn bị. Nếu cậu có nhìn thấy chúng tôi thì cũng phải phớt lờ đi.
Đúng vào lúc James ra khỏi phòng 217 thì Jean – Pierre có mặt tại Casino.
Casino nằm giữa trung tâm Monte Carlo, mặt quay ra biển, được bao quanh bởi những khu vườn đẹp nhất nhì thế giới. Toà nhà chính có rất nhiều chái phụ; cái cũ nhất được kiến trúc sư Charles Gernier, người thiết kế nhà hát Opera Paris vẽ kiểu. Các phòng đánh bạc đều mới được xây dựng bổ sung vào năm 1910 và đều ăn thông với phòng Salle Garnier, nơi biểu diển Opera và ba lê.
Theo các bậc cầu thang làm bằng đá cẩm thạch, Jean – Pierre đi thẳng tới lối vào, trả 12 franc vào cửa. CÁc phòng đánh bạc đều rộng lớn, được trang trí toán bằng các tác phẩm nghệ thuật châu Âu của hai thời kỳ suy thoái và phục hưng ở đầu thế kỷ. Những tấm thảm đỏ khổng lồ, những bức tượng, những bức tranh và những tấm thảm treo tường... Tất cả đều tạo cho nơi đây dáng dấp của hoàng cung, còn những bức chân dung lại mang tới không khí của một ngôi nhà ngoại ô. Jean – Pierre nhận thấy khách khứa ở đây mang nhiều quốc tịch khác nhau. Người Ả- rập ngồi sát người Do Thái bên vòng quay thắng bại. Họ chơi ru lét và tán gẫu một cách cởi mở - một điều mà Liên Hiệp Quốc không bao giờ dám mơ ước. Jean – Pierre cảm thấy hoàn toàn dễ chịu trong thế giới giàu sang này. Robin đã hiểu khá chính xác về anh nên đã giao cho anh một vai rất phù hợp.
Ba giờ tiếp theo, Jean – Pierre nghiên cứu thiết kế của Casino – các phòng đánh bạc, quầy bar, nhà hàng, điện thoại, lối vào, lối ra. Sau đó, anh tập trung mọi chú ý vào các phòng đánh bạc. Anh phát hiện thấy hai bàn baccarat đều được đặt tại phòng Salons Privés, thường bắt đầu vào lúc 3 giờ chiều và 11 giờ đêm. Thông qua Pierre Cattalano, người phụ trách phòng điều hành, anh còn biết thêm Harvey Metcalfe thường thích chơi ở phòng nào hơn.
Phòng Salons des Amériques là phòng chơi xì lát, thường bắt đầu mở cửa từ 11 giờ sáng. Tất cả có 3 bàn. Người cung cấp tin tức của Jean – Pierre còn cho biết thêm là Harvey luôn luôn chơi ở bàn số hai, ngồi chỗ thứ ba. Jean – Pierre chơi vài ván baccarat và xì lát, nhưng không phát hiện thấy sự khác nhau nào giữa luật chơi ở đây và ở Claremont. Thực tế, chẳng có sự khác nhau gì vì Claremont rất tôn trọng các luật chơi ở Monte Carlo.
Hơn 11 giờ đêm, Harvey Metcalfe xuất hiện, gây nên sự ồn ào. Gã đi tới bàn baccarat, để lại sau lưng một vệt tàn thuốc xì gà. Jean – Pierre, ngồi ở một vị trí rất kín đáo bên quầy bar, quan sát gã. Harvey được một người hồ lỳ ăn mặc lịch sự dẫn tới chỗ ngồi đã đặt trước, sau đó gã đi sang phòng Salons de Amériques, tới bàn chơi xì lát số hai, đặt một tấm card màu trắng với chữ "ĐẶt trước" lên một trong số các ghế ngồi. Rõ ràng, Harvey là một vị khách được chiều chuộng ở đây. Cả người quản lý và Jean – Pierre đều biết rõ Harvey đang chơi trò gì. Đúng 11 giờ 27 phút đêm đó, Jean – Pierre lặng lẽ ra về, trở lại với cảnh cô liêu của căn phòng nơi khách sạn. Anh ở lỳ trong phòng mãi cho tới 11 giờ sáng hôm sau, không gọi điện cho ai, cũng không yêu cầu phục vụ.
Buổi tối của James cũng rất tốt đẹp. Người tài xế taxi quả là một tay cừ khôi. Từ "khẩn" đã có tác động mạnh: Anh ta chạy xuyên Monte Carlo như thể chẳng có gì trên đường ngoài chiếc Rally của mình. Chỉ sau 8 phút 44 giây, James đã có mặt tại bệnh viện, người choáng váng như thể bị say xe, nên phải tạm nghỉ một vài phút ở phòng đợi của bệnh nhân trước khi lên xe về Casino.
- Quay về Casino, nhưng làm ơn đi chậm hơn.
Lần này, xe chạy dọc theo đại lộ Rue Grimaldi, mất mười một phút. James quyết định là sẽ đi theo đường này mà chỉ cần mất mười phút. Anh trả tiền cho người lái xe rồi tiếp tục phần thứ hai của kế hoạch.
Đi bộ từ Casino tới bệnh viện và ngược lại chỉ mất một giờ. Không khí dịu mát buổi đêm mơn man trên da mặt anh. Xung quanh anh người ta đi lại nhộn nhịp và nói chuyện ríu rít. Du lịch là một trong những nguồn thu nhập chủ yếu của Prinipality, và Monégasques cũng rất quan tâm tới phúc lợi của các du khách. James đi ngang qua một số nhà hàng và cửa hàng lưu niệm trên phố. Ở đó, người ta bán nhiều đồ nữ trang đắt tiền, nhưng tầm thường tới mức nếu như bạn có mua chúng đầu tuần thì bạn cũng sẽ dễ dàng quên chúng hoặc làm mất chúng vào cuối tuần. Khách du lịch ồn ào đi lại trên vỉa hè. Họ nói chuyện với nhau bằng đủ thứ tiếng khiến James càng nhớ Anne cồn cào. Về tới Casino, anh lại thuê taxi ra cảng để xác định vị trí chiếc du thuyền Messenger đó, anh lặp lại đúng hành trình này, nhưng là đi bộ. Cũng giống như Jean – Pierre, anh trở về phòng một cách yên ổn trước mười hai giờ đêm, hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất.
Robin và STephen nhận thấy đi bộ từ khách sạn tới bệnh viện chỉ mất hơn 40 phút. Khi tới nơi, Robin đề nghị người trực ban cho gặp ngài giám thị.
- Ngài giám thị đêm nay đang bận. - Một cô y tá người Pháp trả lời. Cô ta rất mập mạp và tươi tắn. – Tôi phải nó với ngài giám thị là ai đang cần gặp ông đây?
Cách phát âm tiếng Anh của cô ta thật tuyệt vời vì vậy cả Robin và Stephen đều không dám cười vì một lỗi ngữ pháp rất nhỏ của cô.
- Bác sỹ Wiley Barker, đại học Canifornia.
Robin bắt đầu cầu Chúa cho viên giám thị người Pháp này không quen biết Wiley Barker, bác sỹ riêng của Tổng thống Nixon, và là một trong các bác sỹ phẫu thuật đáng kính nhất trên thế giới. Thực tế, ông nay đang giảng bài ở các trường đại học lớn trên đất Australia.
- Xin chào bác sỹ Barker. Xin được phục vụ ngài. Thật vinh hạnh cho bệnh viện của chúng tôi khi được ngài tới thăm.
Robin cắt ngang lời chúc tụng bằng tiếng Pháp của viên giám thị bằng một tràng tiếng Anh với giọng Mỹ mà anh mới học được.
- Tôi muốn xem qua cách bố trí phòng mổ và muốn xác nhận là chúng tôi sẽ được toàn quyền sử dụng phòng phẫu thuật trong năm ngày liên tiếp, kể từ ngày mai, từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng.
- Vâng, đúng vậy, thưa bác sỹ Barker, - viên giám thị nói, và nhìn vào một chiếc bìa kẹp giấy. - Phòng phẫu thuật ở hành lang bên kia. Xin mời ngài theo tôi.
Phòng phẫu thuật này cũng chẳng khác gì so với cái phòng mà bốn người đã thực tập ở St. Thomas - gồm hai buồng được ngăn bới một chiếc cửa quay làm bằng cao su. Phòng phẫu thuật chính được trang bị rất đầy đủ. Robin khẽ gật đầu và Stephen hiểu rằng ở đây có đầy đủ các dụng cụ cần thiết. Trong Robin, một cảm giác thán phục bắt đầu dâng lên: Mặc dầu bệnh viện chỉ có 200 giường bệnh, nhưng phòng phẫu thuật này được trang bị ở mức cao nhất. Rõ ràng, chỉ có những người giàu mới đến đây chữa bệnh.
- Liệu chúng tôi có phải điều kỹ thuật viên gây mê hay y tá nào đến phụ ngài không?
- Không, - Robin nói. – Tôi có kỹ thuật viên gây mê và đội ngũ trợ lý riêng, nhưng mỗi đêm tôi đều cần một khay laparotomy để sẵn ở đây. Tuy vậy, trong trường hợp bất trắc, tôi sẽ báo để các ngài chuẩn bị, ít nhất là trước một tiếng đồng hồ.
- Vâng. Còn gì nữa, thưa ngài?
- Loại xe đặc biệt mà tôi đã yêu cầu. Liệu tới 12 giờ trưa mai đã có chưa?
- Dạ, tất cả đã sẵn sàng, thưa bác sỹ. Chúng tôi sẽ gửi nó trong bãi đỗ xe nhỏ ngay sau bệnh viện; tài xé của ngài có thể lấy chìa khóa ở phòng lễ tân.
- Ngài làm ơn giới thiệu một đại lý tin cậy để tôi thuê y tá chăm sóc bệnh nhân ở thời kỳ hậu phẫu.
- Auxiliainre Medical của Nice là trung tâm y tế rất đáng tin cậy. Cò về giá cả phục vụ, tất nhiên đều đã có quy định chung.
- Tất nhiên. – Robin nói, - Và nhân đây khiến tôi muốn hỏi ngài, liệu các ngài đã nhận được tiền thanh toán chưa?
- Rồi, thưa bác sỹ, thứ năm tuần trước chúng tôi có nhận được một tấm séc 7.000 đôla gửi từ California tới.
Robin cảm thấy rất hài lòng với cách thanh toán này. Mọi việc đều đơn giản: STephen liên lạc với ngân hàng của anh ở Harvard, đề nghị họ gửi một hối phiếu từ Ngân hàng hạng nhất National City tới bệnh viện Monte Carlo.
- Xin cám ơn ngài, Monsieur Bartise. Ngài thật là tử tế. Tiện đây, tôi cũng mong ngài hiểu thêm là bản thân tôi cũng chưa rõ bệnh nhân của tôi sẽ có mặt ở đây vào đêm nào. Anh ta bị bệnh, nhưng anh ta lại không biết, và tôi phải sẵn sàng để mổ cho anh ta, vào bất kỳ lúc nào, trong thời gian anh ta ở đây.
- Vâng, thưa bác sỹ, tôi hiểu.
- Cuối cùng, tôi sẽ rất biết ơn nếu ngài có thể hạn chế số người biết tin tôi đang có mặt ở Monte Carlo. Tôi muốn tranh thủ nghỉ ngơi đôi chút trong thời gian làm việc ở đây.
- Tôi hiểu. Ngài có thể tin tưởng ở tôi.
Robin và Stephen chào tạm biệt Bartise rồi đón taxi về khách sạn.
- Tôi cảm thấy hơi nhục nhã vì người Pháp có thể nói ngôn ngữ của chúng ta rất thành thạo trong khi chúng ta lại không nói được tiếng của họ, - Stephen nói.
- Đó là lỗi của những người mang dòng máu Mỹ, - Robin đáp.
- Không, không phải thế. Nếu nước Pháp thống trị nước Mỹ thì chúng tôi sẽ nói tiếng Pháp cực hay. Đây là lỗi của các tín đồ thanh giáo.
Robin cười phá lên. Sau đó, không ai nói gì thêm mãi cho đến khi họ lên tới phòng 217. Họ đều lo sợ về những gì sắp xảy ra. Stephen hiểu rất rõ: Họ đang làm những việc cực kỳ mạo hiểm.
Harvey Metcalfe nằm trên mạn thuyền, tắm nắng và đọc báo buổi sáng. Thật khó chịu, tờ Nice – Matin được in bằng tiếng Pháp. Gã đọc một cách khó nhọc - mặc dù đã có từ điển kè kè một bên - cốt để tìm hiểu các hoạt động xã hội với ý đồ yêu cầu người ta mời gã tham dự. Đêm qua, gã đã chơi bài rất khuya, còn bây giờ thì đang khoan khoái hưởng thụ những tia nắng sớm mai rọi lên tấm lương nần nẫn. Giá mà tiền có thể mua được tất cả, thì hẳn gã đã có một thân thể cường tráng cao 6 foot, nặng 170 pound, với một cái đầu đẹp đẽ nhiều tóc. Nhưng thực tế không một loại kem chống nắng nào có thể làm cho tóc mọc dày hơn, nên gã cứ đội mũ, một cái mũ lưỡi trai với dòng chữ Tôi rất gợi tình. Giá mà cô Fish nhìn thấy gã vào lúc này …
11 giờ, vào lúc mà Harvey xoay người, để mặt trời được phép vuốt ve cái bụng bự của gã, thì James đang lê bước vào phòng 217. Mọi người đang đợi anh.
Jean – Pierre báo cáo về sơ đồ bố trí các phòng trong Casino và các thói quen của Harvey Metcalfe. James thông báo kết quả mới nhất của cuộc "đua xe" xuyên thành phố đêm qua cho tất cả và khẳng định rằng anh có thể lái xe trên chặng đường này dưới mười một phút.
- Tuyệt hảo, - Robin nói. – Tôi và Stephen đi taxi từ bệnh viện tới khách sạn. Chỉ mất có 15 phút, nên một khi quả khinh khí cầu xuất hệin ở Casino và Jean – Pierre thông báo kịp thời thì tôi sẽ đủ thời gian để sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trước khi các cậu có mặt.
- Hy vọng là quả khinh khí cầu này sẽ rơi ngay tại Casino, chứ không bay lên. – Jean – Pierre lẩm bẩm.
- Tôi đã thu xếp công việc với một nữ y tá, hẹn cô ta phải có mặt vào bất cứ lúc nào chúng ta cần, kể từ ngày mai. Bệnh viện đã có đủ các trang thiết bị mà tôi yêu cầu. Khênh băng ca từ bãi đỗ xe vào cửa trước của phòng mổ mất chứng hai phút, vì vậy, nếu tính từ lúc James bắt đầu lái xe đi, tôi có ít nhất 16 phút để chuẩn bị. James, cậu có thể lấy xe ở bãi đỗ của bệnh viện vào lúc 12 giờ trưa. Chìa khóa ở phòng lễ tân Hãy chạy thử hai lần thôi, không hơn. Tôi không muốn cậu làm cho thiên hạ tò mò. Tiện đây, cậu để luôn cái gói này vào sau xe.
- Cái gì vậy?
- Ba áo blu trắng và một ống nghe cho Stephen. Lúc lên xe, nhớ thử xem cậu có thể mở băng ca một cách dễ dàng không. Sau khi đã chạy thử hai lần, nhớ gửi xe vào bãi và trở về khách sạn, chờ tới 11 giờ đêm. Liên tục từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, cậu phải có mặt tại bãi đỗ xe của bệnh viện chờ tín hiệu "vào trận" của Jean – Pierre. Mọi người nhớ mua pin mới cho máy phát tin của mình. Tôi không muốn toàn bộ kế hoạch sẽ bị sụp đổ vì một cái phi mười xu. Còn Jean – Pierre, tôi e rằng từ giờ đến tối, chẳng có việc gì cho cậu là cả, trừ nghỉ ngơi, hy vọng là cậu có một vài quyển sách hay trong phòng.
- Chẳng lẽ tôi không thể tới rạp Princess xem một bộ phim hay sao? Tôi rất hâm mộ Jacqueline Basset.
- Jean – Pierre thân yêu, cô nàng Basset quê ở Reading đấy, - James nói.
- Không cần biết. Tôi rất muốn được xem phim của nàng.
- Hắn đang tìm cách ve vãn một con cóc, - James châm chọc.
- Sao lại không? – Robin nói.- Việc cuối cùng mà Harvey sẽ làm là xem một bộ phim Pháp đầu chất trí tuệ, không có phụ đề. Hy vọng phim sẽ hay và chúc cậu một buổi tối may mắn, Jean – Pierre.
Cũng lặng lẽ như khi tới, Jean – Pierre ra khỏi, bỏ lại ba người trong phòng 217.
- Nào, James. Cậu có thể chạy thử xe vào bất cứ lúc nào phù hợp, nhưng nhớ là phải thức cả đêm nay đấy.
- Tất nhiên rồi. Tôi sẽ lấy chìa khóa ở phòng lễ tân của bệnh viện. Cầu mong đừng có ai bắt tôi phải chạy xe cho một ca cấp cứu thực sự.
- Nào, Stephen, hãy kiểm tra lại các chi tiết một lần nữa. Sẽ là một thất bại lớn nếu có một sai sót nhỏ. Chúng ta sẽ bắt đầu từ phần trên. Anh sẽ làm gì nếu hợp chất õ – xít ni – tơ sụt xuống dưới năm lít …
- Đài quan sát đây. Đài quan sát đây. Đây là Jean – Pierre. Tôi đang đứng trên bậc tam cấp của Casino chưa thấy Metcalfe. Cậu có nghe thấy tôi không, James?- +
- Có. Tôi đang ở bãi đỗ xe của bệnh viện. Hết.
- Robin đây. Tôi đang có mặt trên ban công phòng 217. Stephen có đó không, Jean – Pierre?
- Có. Cậu ấy đang chè chén một mình ở quầy bar.
- Chúc may mắn. Hết.
Cuối cùng, đúng 11 giờ 16 phút, gã tới, ngồi vào chiếc ghế đã đặt trước tại bàn baccarat. Stephen thôi không uống nước cà chua. Jean – Pierre tiến lên, đứng cạnh bàn, kiên nhẫn chờ đợi người bên trái hoặc bên phải Harvey bỏ cuộc. Một tiếng trôi qua. Harvey thua đôi chút, nhưng vẫn tiếp tục chơi, cả tay người Mỹ cao lòng khòng bên phải và tay người Pháp bên trái cũng vậy. Một tiếng nữa trôi qua, vẫn không ai nhúc nhích. Bỗng nhiên tay người Pháp ngồi bên trái Metcalfe thua đậm, vội vàng thu gom vài chiếc thẻ nhựa cuối cùng rồi bỏ đi. Jean – Pierre nhích lên.
- Xin lỗi ngài, tôi e rằng ghế này đã bận rồi, - người hồ lỳ nói. – Còn một ghế trống ở phía bên kia bàn, thưa ngài.
- Ồ, không sao. – Jean – Pierre nói rồi quay lưng bỏ đi vì không muốn bị nhận mặt, trong lòng thầm nguyền rủa cách Monégasques đối xử với người giàu có. Từ quầy bar, Stephen cũng quan sát thấy những gì đang diễn ra nên anh kín đáo bỏ đi. Hơn hai giờ sáng tất cả lại có mặt tại phòng 217.
- Thật là một sai lầm ngớ ngẩn. Lẽ ra, tôi phải nghĩ tới việc đặt chỗ ngay khi vừa biết Harvey ngồi chỗ nào.
- Không, đó là lỗi của tôi. Tôi không biết gì về các sòng bạc. Lẽ ra trong các buổi họp trước, tôi phải thắc mắc về vấn đề chỗ ngồi. – Robin nói, tay vuốt ve bộ ria mới.
- Không ai có lỗi hết, - Stephen can thiệp. – Chúng ta vẫn còn ba đêm nữa. Không việc gì phải hoảng sợ. Chúng ta sẽ tìm cách giải quyết vấn đề chỗ ngồi sau, còn bây giờ, tôi phải đi ngủ đã. Mười giờ sáng mai, sẽ gặp nhau tại đây.
Một lần nữa, Harvey lại nằm ườn sưởi nắng, nước da đỏ au. Theo tờ New York, giá vàng đang lên, đồng mác Đức và đồng franc Thụy sỹ vẫn giữ giá, còn đồng đôla lại hạ so với đồng stec – linh. Đồng Stec- ling đang dừng ở mức 2,42 đôla. Harvey cho rằng nó sẽ giảm xuống 1,80 đôla, và nếu nó giảm cần sớm thì càng hay.
- Chẳng có gì mới mẻ, - gã nghĩ. Đúng lúc đó thì tiếng chuông điện thoại của Pháp vang lên réo rắt khiến gã giật mình. Gã chưa bao giờ có thể quen với tiếng chuông máy điện thoại nước ngoài.
- Chào Lloyd. Tôi không biết là ông cũng có mặt tại Monte … chúng ta sẽ gặp nhau nhé … 8 giờ tối? … Thậm chí tôi cũng mặc đồ nâu … phải làm sao cho già đi .. Cái gì?... Tuyệt vời, hẹn gặp lại.
Harvey đặt ống nghe xuống, gọi người phục vụ đem tới một ly whisky lớn. Rồi với vẻ mãn nguyện, gã đọc lại các tin tức tài chính buổi sáng.
- Có vẻ như đó là giải pháp hay hơn cả, - Stephen nó.
Những người khác gật đầu đồng tình.
- Jean – Pierre sẽ không chơi baccarat nữa mà đặt sẵn chỗi ngồi cạnh Harvey Metcalfe ở bàn chơi xì – lát trong phòng Salons des Amériques, rồi ngồi chờ hắn đổi trò chơi. Chúng ta đều đã biết số ghế của Harvey, chúng ta sẽ áp dụng phương án thích hợp.
Jean – Pierre quay số điện thoại của Casino và yêu cầu nói chuyện với Patrick Cattalano bằng tiếng Pháp để đặt chỗ ngồi tại bàn chơi xì – lát.
Chỉ là một cú điện thoại đặt chỗ thôi mà mồ hôi của Jean – Pierre cũng túa ra như tắm. Sau đó, tất cả đều trở về phòng riêng.
Khi chuông đồng hồ trên quảng trường thành phố điểm 12 tiếng, Robin lặng lẽ ngồi đợi trong phòng 217, James đứng trong bãi đỗ xe, miệng ngân nga không có em, anh vẫn sống vui vẻ, Stephen ngồi ở quầy bar trong phòng Salons des Amériques nhẩn nha với ly nước cà chua ép, còn Jean – Pierre đang chơi bài xì – lát ở ghế số hai, bàn số hai. Cả Stephen và Jean – Pierre đều nhìn thấy Harvey đi vào qua cửa, vừa đi, vừa nói chuyện với một người đàn ông mặc áo khoác kẻ sọc to, kiểu người Texas vẫn thường mặc. Harvey và người bạn cùng ngồi xuống bàn chơi. baccarat. Jean – Pierre vội vàng bỏ ra quầy bar.
- Ôi, tôi bỏ cuộc thôi.
- Không! – Stephen thì thầm. – Quay về khách sạn ngay.
Mọi người lại tập hợp trong phòng 217. Tinh thần xuống dốc ghê gớm, nhưng tất cả đều nhất trí rằng Stephen đã ra một quyết định đúng đắn. Họ không thể mạo hiểm khi có mặt bạn bè Harvey.
- Bước đầu có vẻ thành công quá đấy.
- Đừng có ngu ngốc như vậy, - Stephen nói, - Chúng ta có thể thay đổi toàn bộ kế hoạch ở phút cuối cùng, nhưng không được nản chí. Đừng hy vọng hắn sẽ xuất hiện và tự nguyện đặt tiền vào tận tay chúng ta. Thôi hãy tạm quên hắn đi! Tất cả, đi ngủ!
Họ trở về phòng của mình, nhưng không ai ngủ được vì tinh thần quá căng thẳng.
- Thôi, đủ rồi, Lloyd. Một buổi tối khá là tốt đẹp.
- Đối với ông thôi, Harvey, không phải với tôi. Có lẽ ông sinh ra để chiến thắng.
Với tâm trạng hưng phấn, Harvey hào phóng vỗ nhẹ lên vai bạn. Nếu trên đời này còn có một cái gì khiến cho gã hài lòng ngoài chiến thắng của bản thân gã, thì đó chính là sự thất bại của kẻ khác.
- Ông có muốn nghỉ qua đêm trên thuyên của tôi không, Lloyd?
- Không, cám ơn. Tôi phải về Nice. Ngày mai tôi có cuộc hẹn dùng cơm trưa ở Paris. hẹn gặp lại, Harvey. Hãy cận thận đấy. – Ông ta nói và vui vẻ thúc mạnh vào người Harvey.
- Chúc ngủ ngon, Lloyd. – Harvey nói không mấy tự nhiên.
Đêm sau, đúng 11 giờ, Jean – Pierre tới sòng bạc. Harvey Metcalfe đã có mặt ở bàn baccarat mà không có Lloyd. Stephen ngồi ở quầy bar. Trông anh có vẻ như đang rất giận dữ. Jean – Pierre liếc về phía anh với vẻ biết lỗi và ngồi xuống bàn chơi xì – lát. Để lấy lại khí thế, anh chơi một vài ván, cố gắng hạn chế số tiền thua cuộc và không hề quan tâm tới số tiền thắng cuộc khiêm tốn. Bất ngờ, Harvey rời bàn baccarat, hùng hổ đi vào phòng Salons des Amériques. Khi đi ngang qua các bàn, vì tò mò nhiều hơn là vì quan tâm thích thú. Gã vốn rất coi thường các trò chơi phụ thuộc hoàn toàn vào may rủi, và cho rằng bài baccarat và bài xì – lát đòi hỏi trí thông minh, sự khéo léo, tinh tường. Gã tiến thẳng đến bàn số hai, ghế số hai, bên trái Jean – Pierre. Ngay lập tức, Jean – Pierre cảm thấy như chất adrênalin bắt đầu tiết ra, và nhịp tim tăng lên tới 120 nhịp trên một phút. Stephen tạm thời ra khỏi sòng bạc vài phút để thông báo cho James và Robin biết Harvey bắt đầu chơi xì – lát, và đang ngồi cạnh Jean – Pierre, rồi trở về quầy bar chờ đợi.
Ở bàn xì lát có bảy người. ghế số một là một phụ nữ trung niên, người đeo đầy kim cương, trong có vẻ như bà ta đang giết thời gian trong khi chờ đợi ông chồng chơi bài baccarat hoặc ru- lét. Ở ghế số hai là Jean – Pierre, số ba là Harvey, số bốn là một anh chàng phóng đãng trông có vẻ như sống chủ yếu bằng các nguồn thu nhập bất hợp pháp. Ở ghế số năm là một người Ả - rập, ghế số sáu là một nữ ca sĩ khá hấp dẫn. Jean – Pierre nghi ngờ cô ta ăn cánh với tay ngồi ghế số năm. Ở ghế số bảy là một người đàn ông đứng tuổi mặc đồ dạ hội theo kiểu các quý tộc Pháp.
- Một cà phê đen! – Harvey kéo dài giọng với người bồi gầy gò trong trang phục màu nâu.
Monte Carlo không cho phép dùng rượu nặng ở các bàn đánh bạc, và cũng không cho phép các cô gái phục vụ khách. Trái ngược hẳn với Las Vegas, ở đây, Casino kinh doanh cờ bạc chứ không kinh doanh rượu hoặc đàn bà. Ngày còn trẻ, Harvey ưa chuộng Vegas, nhưng càng đứng tuổi gã càng đánh giá cao cái thị hiếu phúc tạp của người Pháp. Gã bắt đầu thấy yêu thích cái không khí trang trọng và cách bài trí của Casino.
Sau vài phút, một ly cà phê nóng hổi được đặt ngay cạnh Harvey. Jean – Pierre hoang mang nhìn cái ly trong khi Harvey đặt 100 franc lên bàn, ngay cạnh tấm thẻ nhựa 3 franc cảu anh – đây là các món cược lớn nhất và nhỏ nhất theo quy định. Tay nhà buôn, một thanh niên tuổi đời chưa quá ba mươi, rất kiêu ngạo vì trong một giờ đồng hồ có thể đánh một trăm ván, nhanh nhẹn chia bài. Jean – Pierre được một con già, Harvey – con bốn, anh chàng bên trái Harvey – con năm, tay nhà buôn – con sáu. Lá bài thứ hai của Jean – Pierre có bảy nước. Anh hết bài. Harvey lấy một lá mười và cũng hết bài. Anh chàng bên trái Harvey lấy một lá mười rồi yêu cầu tay nhà buôn lấy thêm một lá bài mới.
Trọng mọi lĩnh vực, Harvey đều xem thường các tay mơ. khi quân bài của nhà buôn được lật lên thì Harvey mỉm cười ranh mãnh. Harvey và Jean – Pierre thắng. Jean – Pierre phớt lờ số phận của các tay bài khác.
Ván tiếp theo không ai được. Jean – Pierre được mười tám điểm, hai lá bài chín nước của anh bị chặn bởi lá át của tay nhà buôn. Harvey cũng được mười tám điểm, một lá tám nước và một là bồi chuồn. Người thanh niên bên trái bị thối bài. Người hồ lỳ rút ra một lá đầm – và thu gom toàn bộ thẻ nhựa trên bàn.
Ván sau, Jean – Pierre được ba nước, Harvet - bảy, chàng thanh niên - mười, tay nhà buôn - bảy. Jean – Pierre rút thêm được một lá tám và thắng cuộc. Anh bỗng nhận thấy mình chơi quá giỏi. Anh quyết định không thể để mọi người chú ý tới mình, phải để Harvey xem đây như một sự ngẫu nhiên. Thực ra, Harvey không hề nhận ra Jean – Pierre: Mọi sự chú ý của gã đều đổ dồn về chàng thanh niên bên trái; anh chàng này có vẻ rất hăng hái tặng quà cho bàn cái. Tay nhà buôn tiếp tục chia bài, Harvey - một lá mười, chàng thanh niên – tám. Cả hai đều bị kẹt. Tay nhà buôn tự rút một lá mười và được 17 nước. Hắn phải trả tiền cho Jean – Pierre và chàng thanh niên; tiền cược của Harvey để nguyên. Để giữ anh chàng này ở đây qua đêm suốt sáng, nhà cái sẽ vui lòng thả cho anh chàng được một vài ván.
Không còn một lá bài nào. Tay nhà buôn gom các lá bài lại xáo đều lên rồi tiếp tục chia: Một là mười cho Jean – Pierre, một lá năm cho Harvey, một lá sáu cho anh chàng thanh niên và một lá bốn cho bản thân. Jean – Pierre rút ra một lá tám. Harvey rút một lá mười và bị kẹt với số điểm mười lăm. Chàng thanh niên rút một lá mười và yêu cầu được lấy thêm một lá nữa. Harvey như không thể tin vào mắt mình, gã huýt sao qua kẽ răng. Chắcn chắn quân tiếp theo sẽ là một quân già. Chàng thanh niên bị thối bài. Tay nhà buôn tự rút được một lá chuồn, rồi một lá tám, được hai hai nước, nhưng chàng ta vẫn không học được điều gì mới mẻ. Harvey nhìn cậu ta chằm chằm. Đến bao giờ cậu ta mới khám phá ra điều này, rằng trong số năm mươi hai lá bài, không dưới mười sáu lá có giá trị mười nước.
Sự xao lãng của Harvey đã tạo cho Jean – Pierre cơ hội mà anh đang mong đợi. Anh thò tay vào túi áo, giữ viên prostigmin Robin đưa cho trong lòng bàn tay trái. Anh hắt hơi, rồi bằng một cử chỉ rất thành thạo, anh dùng tay phải rút khăn mùi xoa ở túi áo ngực, đồng thời, nhanh nhẹn và kín đáo thảo viên thuốc vào tách cà phê của Harvey. Robin đã khẳng định với anh là thuốc sẽ chỉ có tác dụng sau một tiếng đồng hồ. Mới đầu, Harvey chỉ thấy hơi mệt mỏi, sau đó cảm giác khó chịu sẽ tăng cho đến khi gã không thể chịu đựng được nữa và sẽ phải lăn lộn vì đau đớn khủng khiếp.
Jean – Pierre quay về phía quầy bar, nắm bàn tay phải lại rồi lại xòe ra. Cứ như vậy ba lần. Sau đó, anh thay tay vào túi áo. Ngay lập tức, Stephen đứng lên, đi về phía bậc tam cấp, thông báo cho Robin và James biết viên prostigmin đã nằm trong cốc của Metcalfe. Không chậm trễ, Robin gọi điện tới bệnh viện đề nghị y tá trực chuẩn bị phòng mổ. Sau đó, anh lại gọi điện tới văn phòng các nữ y tá yêu cầu cô y tá mà anh thuê sau chín phút phải có mặt tại phòng đón tiếp của bệnh viện. Xong xuôi, anh lặng lẽ ngồi chờ tin tức từ sòng bạc.
Stephen trở lại quầy bar. Harvey bắt đầu cảm thấy hơi khó chịu, nhưng do dự, không muốn đứng dậy. Mặc dầu cơn đau đang tăng dần lên, nhưng gã vẫn tiếp tục chơi, bởi lòng tham cố hữu. Gã uống nốt phần cà phê còn lại rồi gọi thêm một tách nữa, hy vọng cà phê sẽ làm cho đầu óc sảng khoái hơn. Nhưng cà phê không giúp được gì. Gã bắt đầu cảm thấy mỗi lúc một khó chịu hơn. Một quân át, một quân bốn, một quân mười và hai lá hậu… Tất cả chúng đã níu kéo Harvey, giúp cho gã có đủ nghị lực trụ lại bàn xì – lát.
Jean – Pierre tự buộc mình không được nhìn đồng hồ. Nhà buôn chia cho Jean – Pierre một lá bảy, Harvey một lá át bích, còn người thanh niên một lá hai. Bất ngờ, Harvey đứng dậy, bỏ đi vì không thể chịu đựng cơn đau hơn được nữa. Bỗng gã sụp xuống sàn nhà, tay ôm bụng đau đớn. Jean – Pierre ngồi im trong khi người hồ lỳ và các tay bạc khác rối rít xung quanh một cách vô dụng. Stephen vạt đám đông quan Harvey ra để chen vào.
- Xin các ông lùi lại. Bác sỹ đây.
Đám đông nhanh nhẹn dãn ra, nhường chỗ cho vị chuyên gia.
- Cái gì vậy, bác sỹ? – Harvey thều thào. Gã cảm tưởng như thế giới sắp sửa kết thúc.
- Tôi cũng chưa biết, - Stephen đáp. Robin đã báo trước rằng cơn đau này không kéo dài chỉ tồn tại chừng mười phút, vì thế anh hành động rất nhanh. Anh nới lỏng cavát ở cổ Harvey và bắt mạch. Sau đó, anh cởi áo của gã, bắt đầu sờ nắn bụng.
- Dạ dày có đau không?
- Có, - Harvey rên rỉ.
- Đau bất ngờ à?
- Vâng.
- Ngài có thể tả đau như thế nào không? Đau nhói lên, đau âm ỉ, hay đau quặn?
- Đau nhói.
- Đau nhất ở đâu?
Harvey chỉ vào phía trái dạ dày. Stephen ấn tay vào chiếc xương xườn thứ chín, khiến Harvey phải gập người lại vì đau.
- À, - Stephen nói. - Dấu hiệu của bệnh Murphy. Có lẽ ngài bị viêm túi mật cấp tính. Tôi sợ có sỏi mật. – Anh tiếp tục dùng tay khám nghiệm phần bụng của Harvey một cách nhẹ nhàng. – Có vẻ như là một viên sỏi mật đã rơi ra khỏi túi mật và đang theo đường ống mật đi xuống ruột khiến ống mật bị ép chặt gây nên đau dữ dội. Theo tôi, ngài phải phẫu thuật ngay lập tức để lấy sỏi mật. Hy vọng là ở bệnh viên, ai đó có thể mổ cho ngài.
Jean – Pierre bây giờ mới tiến lại và nói lớn:
- Bác sỹ Wiley Barker đang ở cùng khách sạn với tôi.
- Wiley Barker, bác sỹ phẫu thuật người Mỹ?
- Đúng thế, - Jean – Pierre nói. – Ông ta là bác sỹ riêng của Nixon.
- Lạy chúa, thật may mắn. Chúng ta không thể tìm được ai giỏi hơn ông ấy đâu, nhưng tiền công sẽ rất cao đấy.
- Tôi không quan tâm đến chi phí, - Harvey rền rĩ.
- Ừm… có lẽ phải tới 50.000 đôla đấy.
- 100.000 đô la tôi cũng cóc cần, - Harvey gào lên. Lúc này, gã sẵn lòng chia tay với toàn bộ của cải.
- Thôi, thế này, xin ngài làm ơn, - Stephen nói và nhìn vào Jean – Pierre, - gọi cho một xe cấp cứu và liên hệ ngay với bác sỹ Barkerr, mời ông ta đến bệnh viên. Nói với ông ta, đây là một ca cấp cứu. Quý ngài đây cần được mổ với các thiết bị hiện đại có chất lượng cao nhất.
- Ngài nói đúng, - Harvey nói rồi lại gục xuống.
Jean – Pierre rời khỏi xòng bạc và truyền qua máy phát tin:
- Vào trận. Vào trận.
Robin liền rời khỏi khách sạn Hotel des Paris, đón taxi tới bệnh viện. Có lẽ chính bản thân anh cũng sẵn lòng trả 100.000 đôla để được ngồi vào chỗ tài xế, nhưng muộn rồi, người lái xe đã đáp ứng đúng yêu cầu của anh. Giả sử Robin có muốn trở lại khách sạn thì cũng đành chịu.
Cùng lúc đó, James khởi động xe cứu thương rồi lao vụt về phía sòng bạc, liên tục hú còi. Anh may mắn hơn Robin. Với sự tập chung cao độ, anh không còn thời gian để suy tính đến hậu quả các việc đang làm.
Sau mười một phút bốn mươi mốt giây, James đã có mặt tại Casino. Anh lao ra khỏi xe, nhanh nhẹn mở cửa hậu, lấy băng ca, rồi lao nhanh trên các bậc tam cấp. Tại bậc trên cùng, Jean – Pierre đang đứng đợi anh với vẻ hy vọng. Họ không nói gì với nhau. Jean – Pierre dẫn anh đi nhanh tới phòng Salon des Amériques, Stephen và James nâng băng ca lên, nhanh chóng khênh Harvey về phía xe cứu thương, Jean – Pierre cũng đi theo họ.
- Các ngài đưa sếp của tôi đi đâu thế? - Một giọng nói đột ngột vang lên.
Giật mình, cả ba người quay lại. Đó là người tài xế của Harvey Metcalfe, đang đứng bên cạnh chiếc Rolls Royce màu trắng. Sau một thoáng do dự, Jean – Pierre lên tiếng:
- Ngài Metcalfe bị ngất, cần được đưa tới bệnh viện mổ cấp cứu. Ngay bây giờ, anh phải trở về tàu, cho người thu dọn cabin sạch sẽ, và chờ đợi hướng dẫn tiếp theo.
Người tài xế giơ tay chạm lên mũ lưỡi chai rồi chạy nhanh về phía chiếc Rolls Royce. James ngồi vào tay lái, còn Stephen và Jean – Pierre cùng ngồi ở khoang sau với Harvey.
- Lạy chúa, thế là xong! Tuyệt cú mèo, Jean – Pierre! Tôi không thể tả xiết! – Stephen thốt lên.
- Không có gì. – Jean Pierre nói, mồ hôi tuôn đầm đìa trên mặt.
Chiếc xe cứu thương lao vọt đi như một con mèo bị cháy đuôi. Stephen và Jean – Pierre cởi áo khoác và mặc vào những chiếc áo blu trắng để sẵn trên ghế. Stephen còn đeo thêm cả một chiếc ống nghe quanh cổ.
- Tôi có cảm tưởng hắn đã chết, - Jean – Pierre nói.
- Robin nói hắn không thể chết, - Stephen đáp.
- Làm sao Robin biết được một khi cậu ta ở cách đây bốn dặm?
- Tôi không rõ. Nhưng chúng ta phải tin vào lời cậu ấy.
James phanh két xe lại trên lối vào bệnh viện. Stephen và Jean – Pierre hối hả đưa bệnh nhân vào phòng phẫu thuật. James trả xe về bãi rồi cũng nhanh nhẹn nhập bọn với ba người trong phòng phẫu thuật.
Robin đã rửa tay sạch sẽ và mặc áo choàng. Anh đón họ ngay tại cửa phòng mổ. Trong khi họ đang buộc Harvey Metcalfe vào bàn mổ, anh nói:
- Tất cả mọi người thay quần áo nhanh lên. Còn Jean – Pierre, nhớ rửa tay sạch sẽ như đã được hướng dẫn.
Ngay lập tức, cả ba người nhanh nhẹn thay quần áo; và Jean – Pierre bắt đầu rửa tay. Đây là một quy trình khó nhọc, lâu la mà Robin đã dạy anh rất kỹ lưỡng và anh không được phép ăn bớt bất cứ một công đoạn nào. Sự nhiễm trùng máu sau khi mổ sẽ làm hỏng toàn bộ kế hoạch. Jean – Pierre từ buồng vệ sinh đi ra, anh đã sẵn sàng vào trận.
- Nào, hãy bình tĩnh. Chúng ta đã làm việc này chín lần rồi. Cứ tiến hành như thể chúng ta đang ở bệnh viện St. Thomas’s.
Stephen đứng vào phía sau chiếc máy lưu động Boyles. Anh đã theo học một khóa đào tạo kỹ thuật viên gây me dài bốn tháng. Đã hai lần, anh thực tập với James và Jean – Pierre tại bệnh viện St. Thomas’s. Còn bây giờ anh sẽ thể hiện tài năng của mình đối với Harvey Metcalfe.
Robin lấy từ chiếc túi nhựa ra một ống tiêm và tiêm 250mg thuốc thiopentone vào cánh tay Harvey. Bệnh nhân chìm vào một cơn ngủ say. Nhanh nhẹn và cẩn thận, Jean – Pierre và James cởi quần áo của Harvey, rồi phủ lên người gã một tấm vải. Stephen chụp mặt nạ Boyles lên mũi Metcalfe. Hai chiếc đồng hồ trên máy cho biết có 5 lít oxit nitơ và 3 lít ôxy.
- Bắt mạch cho hắn, - Robin nói.
Stephen đặt một ngón tay lên thùy tai Metcalfe bắt mạch. Mạch đang 70.
- Đưa vào buồng phẫu thuật. – Robin hướng dẫn.
James đẩy chiếc bàn có bánh xe sang phòng bên, dừng lại ngay dưới các ngọn đèn mổ. Stephen đẩy máy Boyles theo sau.
Buồng mổ không có cửa sổ và vô trùng đến lạnh lẽo. Các bức tường đều được lát gạch kính bóng loáng từ sàn cho tới tận trần. Trong phòng có đủ thiết bị cho một ca phẫu thuật. Jean – Pierre phủ lên người Harvey một tấm khăn tẩy trùng màu xanh, chỉ để hở đầu và hai cánh tay. Một chiếc bàn có bánh xe lăn chất đầu các dụng cụ, drap, khăn mặt tẩy trùng. Tất cả những thứ này cũng được phủ kín bằng một tấm khăn tẩy trùng. Robin treo một cái chai đựng chất lỏng intravenous vào cây cọt ở đầu bàn mổ rồi buộc một đầu ống dẫn vào cánh tay trái của Harvey. Stephen ngồi ở đầu bàn, cạnh máy gây mê Boyles, điều chỉnh mặt nạ chụp xuống mũi, mồm Harvey. Trong số ba ngọn đèn lớn phía trên Harvey, chỉ có một ngọn đèn được bật nhằm tạo ra một khoảng sáng tập trung, chiếu thẳng vào chỗ phình lên trên bụng Harvey.
Tám con mắt đổ dồn vào nạn nhân. Robin tiếp tục ra lệnh:
- Tôi sẽ đưa ra các hướng dẫn tương tự như trong các lần tập, vì vậy, tất cả hãy tập trung. Trước hết, tôi sẽ lau sạch phần da bụng bằng I - ốt.
Robin đã có tất cả các dụng cụ cần thiết ngay bên cạnh bàn, gần chân Harvey. James nhấc tấm khăn phủ lên, cuộn dần về phía chân Harvey, sau đó, anh cẩn thận nhấc tấm khăn tẩy trùng phủ bàn dụng cụ lên, đổ I - ốt vào một trong số các chậu nhỏ. Robin dùng kẹp gắn một miếng gạc nhúng sâu vào dung dịch I - ốt. Với một động tác dứt khoát, anh lau sạch bụng Harvey, vứt miếng gạc vào bồn rồi lại tiếp tục lấy gạc mới để lau. Sau đó, anh đặt một cái khăn mặt tẩy trùng dưới cằm Harvey, che toàn bộ phần ngực, và phủ một cái lên hông và hai đùi. Anh lại đặt một cái thứ ba dọc theo cơ thể Harvey, ở bên trái và một cái cuối cùng ở bên phải chỉ để lại một khoảng rộng chừng 9 inch trên bụng. Ở mỗi góc, anh đều kẹp lại bằng một chiếc kẹp để giữ các tấm khăn khỏi xô lệch. Giờ thì Robin đã sẵn sàng:
- Dao!
Jean – Pierre đặt cái mà anh có thể gọi là dao vào lòng bàn tay đang xòe rộng, như thể bàn tay của vận động viên chạy tiếp sức đang chờ nhận cây gậy đồng đội chuyền cho, của Robin. Jean – Pierre nhìn sang phía bên kia bàn mổ và bắt gặp đôi mắt sợ hãi của James, còn Stephen đang mải tập trung chú ý tới nhịp thở của Harvey. Robin thoáng lưỡng lực một giây rồi quả quyết rạch một đường chính xác, dài đúng 10 cm, sâu chừng 3 cm. Ít có khi nào Robin lại được tận mắt chứng kiến một cái dạ dày bự đến thế này. Anh có thể rạch sau tới 8cm mà vẫn không lo chạm vào cơ. Máu bắt đầu chảy túa ra, Robin phải cầm máu bằng phép nhiệt điện. Ngay sau khi rạch bụng và cầm máu xong, anh tiến hành khâu vết thương cho bệnh nhân bằng một loại chỉ đặc biệt.
- Nó sẽ tự tiêu trong vòng một tuần, - anh giải thích. Sau đó, anh lau sạch viết rạch và các vệt máu, rồi đặt một miếng băng dính lên trên tác phẩm của mình.
James gỡ các tấm drap và các tấm khăn tẩy trùng ra, bỏ chúng vào một cái thùng lớn, còn Robin và Jean – Pierre mặc cho Metcalfe chiếc áo choàng bệnh viện. Họ cẩn thận gói kỹ đồ của gã vào một chiếc túi làm bằng chất dẻo màu xám.
- Hắn đang tỉnh lại, - Stephen nói.
Robin tiêm thêm cho Harvey 10mg diazepan.
- Ít nhất, hắn cũng ngủ thêm 30 phút nữa, - anh nói, - và bất luận thế nào, hắn cũng sẽ mơ mơ màng màng trong khoảng ba tiếng. Sau đó, hắn sẽ không nhớ nhiều lắm về những gì đã xảy ra. James, cậu ra xe cứu thương trước, và chờ bọn tôi ở cổng bệnh viện.
James rời khỏi phòng mổ, thay quần áo, một thủ tục mà bây giờ anh có thể hoàn tất trong 90 giây. Anh mất hút trong bãi đỗ xe.
- Nào, hai cậu, thay quần áo đi, rồi đưa Harvey ra xe cứu thương. Jean – Pierre sẽ ngồi ở khoang sau với hắn, còn Stephen, hãy tiến hành nhiệm vụ tiếp theo của mình.
Stephen và Jean – Pierre nhanh nhẹn thay quần áo. Họ mặc lại chiếc áo choàng dài màu trắng rồi nhẹ nhàng đẩy chiếc bàn chở Harvey Metcalfe đang mê man về phía xe cứu thương. Khi xong xuôi, Stephen chạy tới trạm điện thoại công cộng gần cổng bệnh viện, anh rút từ trong ví ra một mảnh giấy nhỏ, đọc lướt qua rồi quay số.
- Xin chào, tòa soan Nice- Matin phải không ạ? Tôi là Terry Roads, phóng viên New York Times. Tôi có một câu chuyện thú vị nho nhỏ dành cho các ngài…
Robin trở lại phòng mổ, đẩy chiếc bàn đựng dụng cụ vừa dùng vào phòng tẩy trùng. Sáng mai, nhân viên ca sáng sẽ xử lý chúng. Anh cầm chiếc túi đựng quần áo của Harvey lên, đi sang phòng thay quần áo, nhanh nhẹn cởi áo mổ, mũ và mặt nạ ra, mặc lại quần áo của mình. Trong lúc người y tá trưởng kiểm tra lại đồ nghề do Robin bàn giao, anh nở một nụ cười hấp dẫn với cô.
- Tất cả đã hoàn tất, ma soeur. Tôi để lại mọi dụng cụ trong phòng tẩy trùng. Một lần nữa, xin cô cho tôi gửi lời cám ơn bác sỹ Bartise.
Một lát sau, Robin đi bộ về phía xe cứu thương. Cùng đi với anh là nữ y tá anh đã thuê của đại lý. Anh giúp cô lên xe, vào khoang sau.
- Hãy đi thật chậm và cẩm thận về cảng.
James gật đầu rồi lên đường với tốc độ đưa đám.
- Cô là y tá Faubert?
- Vâng, thưa bác sỹ Barker.
Cô Faubert mặc trang phục y tá dài tay. Cô có chất giọng Pháp duyên dáng, cuốn hút, tới mức Robin nghĩ Harvey không thể nào lại không hài lòng với bàn tay chăm sóc của cô.
- Bệnh nhân của tôi vừa trải qua một ca phẫu thuật lấy sỏi mật, ông ta cần được nghỉ ngơi yên tĩnh.
Nói tới đó, Robin lấy từ trong túi ra một viên sỏi mật cỡ bằng một quả quýt, trên có dính một cái nhãn của bệnh viện với dòng chữ: "Harvey Metcalfe". Thực ra, Robin lấy trộm viên sỏi khổng lồ này của bệnh viện St. Thomas’s. Chủ nhân đích thực của nó là người bán vé ô tô buýt trên tuyến đường 14, cao 6 foot 6. Stephen và James nhìn chằm chằm vào viên sỏi một cách ngờ vực, còn nữ y tá kiểm tra lại mạch và hơi thở của bệnh nhân mới.
- Y tá Faubert, nếu tôi là bệnh nhân của cô, - Jean – Pierre nói với vẻ duyên dáng, - tôi sẽ không bao giờ muốn được bình phục.
Sau khi đưa Harvey lên du thuyền, Robin hướng dẫn một cách ngắn gọn các yêu cầu về chế độ ăn uống và nghỉ ngơi của bệnh nhân và bảo nữ y tá rằng ngày mai, đúng mười một giờ sáng, anh sẽ có mặt để kiểm tra tình hình sức khỏe của gã. Bốn người ra vể, để lại Harvey ngủ say sưa trong khoang thuyền rộng rãi, với đám nhân viên ân cần.
James đưa ba người về bệnh viện, gửi xe vào bãi đỗ, trả chìa khóa cho phòng lễ tân. Sau đó, bốn người trở về khách sạn bằng những con đường riêng rẽ khác nhau. Robin là người cuối cùng xuất hiện ở phòng 217. Lúc đó là hơn 3 giờ 30 phút sáng. Anh thả mình xuống một chiếc ghế tựa.
- Cậu cho phép tớ uống một chút whisky chứ, Stephen?
- Tất nhiên rồi.
- Lạy Chúa tôi, cậu ta đồng ý, - Robin nói và rót một ly lớn Johnny Walker trước khi chuyển chai rượu cho Jean – Pierre.
- Hắn sẽ không sao chứ? – James hỏi.
- Cậu có vẻ quan tâm đến hắn quá đấy. Tất nhiên; sau một tuần, mười mũi khâu sẽ biến mất, hắn chỉ còn sở hữu một vết sẹo gớm ghiếc để khoác loác với bạn bè thôi. Tôi cần phải ngủ một chút. Mười một giờ sáng mai, tôi phải tới thăm nạn nhân của chúng ta. Cuộc đối đầu này sẽ khó khăn hơn cuộc phẫu thuật vừa rồi. Tối nay, các cậu đều tỏ ra rất tuyệt. Lạy chúa, thật may là chúng ta đã nghe giảng ở St. Thomas’s. Nếu có bao giờ các cậu thất nghiệp, và tôi lại cần một tay hồ lỳ, một tài xế, hay một kỹ thuật viên gây mê thì tôi đã biết nên gọi điện cho ai.
Ba người ra khỏi phòng. Robin mệt mỏi nhoài xuống giường. Anh chìm vào giấc ngủ say sưa và chỉ tỉnh giấc sau 8 giờ sáng ngày hôm sau, thấy mình vẫn mặc nguyên quần áo. Điều này chưa bao giờ xảy ra với anh, kể cả khi anh còn là bác sỹ thực tập nội trú trẻ măng, thường phải trực đêm sau mười bốn giờ làm việc liên tục. Robin tắm rất lâu bằng nước nóng, rồi thay quần áo. Anh mặc sơ mi mới, và comple mới, chuẩn bị sẵn sàng cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Harvey Metcalfe. Bộ ria mới nuôi, cái kinh không vành, và sự thành công của ca mổ khiến anh cảm thấy mình đôi chút giống vị bác sỹ nổi tiếng mà anh đang sắm vai.
Một giờ sau, ba đồng đội của anh đều tề tựu đầy đủ tại phòng 217 để chúc anh lên đường may mắn. Hơn thế, họ còn tự nguyện đợi anh trở về. Stephen đã trả lại tất cả các phòng và đặt bốn chỗ trên chuyến bay về London vào cuối buổi chiều. Robin lên đường. Lần này, anh cũng không dùng thang máy mà đi cầu thang bộ. Ra khỏi khách sạn, anh đi bộ một đoạn ngắn rồi mới vẫy taxi đi đến cảng.
Việc tìm kiếm chiếc du thuyền Messenger Boy chẳng có gì là khó khăn. Thuyền nằm ở phía đông cảng, nước sơn mới lấp lánh trong nắng. Trên cột buồm vững chắc, lá cờ Panama rộng lớn bay phần phật. Robin cho rằng đây là một cách trốn thuế. Anh bước lên tấm ván dẫn lên du thuyền. Ra đón anh là nữ y tá Faubert.
- Xin chào, bác sỹ Barker.
- Xin chào. Sức khỏe ông Metcalfe thế nào rồi?
- Đêm qua, ông ta ngủ rất an lành. Sáng nay ông ấy đã ăn được một chút, và bây giờ thì đang nói chuyện qua điện thoại. Bác sỹ có muốn gặp ông ấy ngay không?
- Có chứ.
Robin bước vào cabin hào nhoáng, đối mặt với gã đàn ông mà suốt tám tuần qua, anh liên tục tìm phương kế chống đối. Gã đang nói chuyện trên điện thoại.
- Ồ, em yêu, mọi việc ổn rồi. Nhưng đó quả là một ca cấp cứu loại A1. Đừng lo, anh sẽ sống.
Nói đến đây, gã dừng lại, đặt điện thoại xuống.
- Bác sỹ Barker, tôi vừa nói chuyện với vợ ở Masachusetts. Tôi bảo với bà ấy rằng tôi mang ơn bác sỹ suốt đời. Bà ấy cũng cảm thấy rất may mắn. Tôi hiểu, tôi là một bệnh nhân tư, phải dùng xe cứu thương tư, và bác sỹ đã cứu sống tôi. Thực ra, đó là tất cả những gì ngươi ta viết trên tờ Nice- Matin.
Trên boong tàu có treo một tấm ảnh cũ của Harvey trong chiếc quấn short Bermuda, rất giống với chiếc ảnh trong tập hồ sơ của Robin.
- Bác sỹ, tôi muốn biết, - Harvey nói với vẻ hứng thú, - Tôi đã thực sự lâm vào tình trạng nguy kịch à?
- Vâng, một ca cấp cứu cực kỳ nguy hiểm mà hậu quả sẽ rất nghiêm trong nếu chúng tôi không kịp thời lấy cái này ra khỏi bụng ông. – Robin rút từ túi áo ra viên sỏi mật có viết tên Harvey.
Mắt Harvey trợn ngược lên như muốn bật ra khỏi tròng vì quá ngạc nhiên.
- Trời, thế ra tôi vẫn đi đây đi đó với cái của nợ này trong người hay sao? Trời ơi! Tôi biết cảm ơn bác sỹ thế nào đây. Nếu có một lúc nào đó, tôi có thể giúp gì cho bác sỹ, xin bác sỹ đừng chần chừ gọi điện cho tôi. – Gã mời Robin một quả nho.- Bác sỹ, ông sẽ chăm sóc tôi cho đến khi bình phục hẳn chứ? Tôi không nghĩ là cô y tá có thể đánh giá đúng mức đọ nghiêm trọng của ca này đâu.
Robin nghĩ thật nhanh.
- Tôi e rằng tôi không có thời gian làm việc này, ông Metcalfe ạ. Hôm nay là ngày nghỉ cuối cùng của tôi và tôi phải trở về California. Cũng chẳng có gì nghiêm trọng lắm, chỉ là một vài cuộc phẫu thuật và một chương trình giảng dạy tương đối căng thẳng. – Anh nhún vai với vẻ bất lực, - Chẳng có gì to tát, nhưng chúng giúp tôi phải kiếm sống. Vả lại, tôi cũng quen rồi.
Harvey ngồi dựng lên, tay ôm nhẹ vào bụng.
- Nào, xin bác sỹ hãy nghe tôi. Tôi không quan tâm tới vài thằng sinh viên. Tôi là người bệnh, và tôi cần ngài có mặt ở đây, bên cạnh tôi, cho tới khi tôi hoàn toàn bình phục. Ngài đừng lo, tôi sẽ trả công xứng đáng. Tôi không bao giờ dè xẻn tiền nong cho việc chăm sóc sức khỏe, và nếu ngài muốn, tôi sẽ đổi séc ra tiền mặt. Điều cuối cùng mà tôi muốn là chú Sam cần phải biết tôi cũng có giá lắm chứ.
Robin khẽ ho. Anh tự hỏi không biết các bác sỹ người Mỹ giải quyết vấn đề tế nhị về thù lao với bệnh nhân như thế nào.
- Thù lao có thể hơi cao. Có thể sẽ lên tới 80.000 đôla cơ đấy. – Robin hít một hơi thở sâu.
Harvey không hề chớp mắt.
- Tất nhiên rồi. Ngài là bác sỹ giỏi nhất. Ngần ấy tiền để cứu một sinh mạng đâu phải là nhiều.
- Thôi được. Tôi phải trở về khách sạn bây giờ, nhưng tôi sẽ xem xét liệu có thể sắp xếp lại chương trình không.
Robin rút lui khỏi phòng của bệnh nhân. Chiếc Rolls Royce màu trắng đưa anh về khách sạn. TRong phòng 217, ba người bạn chăm chú lắng nghe câu chuyện của Robin, khi anh kế thúc, họ ngờ vực nhìn anh chằm chằm.
- Stephen, thằng cha này bắt đầu mắc chứng bệnh tưởng. Hắn muốn tôi ở lại đây cho đến khi hắn bình phục. Không ai trong chúng ta dự tính điều này.
Stephen lạnh nhạt nói:
- Cậu sẽ ở lại đây và đón lấy quả bóng đi. Tại sao chúng ta lại không thể cho hắn biết giá trị của hắn - tất nhiên là phải tính theo kiểu của riêng mình hắn. Nào, hãy cầm điện thoại lên và bảo hắn rằng ngày nào cũng vậy, cứ 11 giờ sáng là cậu có mặt kiểm tra cho hắn. Chúng tôi sẽ ra về mà không có cậu. Nhưng nhớ là đừng có sài sang quá đấy.
Robin nhấc điện thoại lên.
Trưa hôm đó, bốn người bạn trẻ tổ chức một bữa tiệc chia tay thịnh soạn trong phòng 217. Họ tự thưởng cho mình một chai Krug’64. Sau đó, ba người rời khỏi khách sạn Hotel de Paris, đi taxi đến sân bay Nice, đón chuyến bay BA 012
- Nếu có một lúc nào đó, tôi có thể giúp ngài, xin ngài đừng chậm trễ gọi điện cho tôi.
Mỗi ngày Robin tới thăm bệnh nhân một lần trên chiếc Corniche màu trắng với một tài xế mặc đồng phục trắng. Lần thăm bệnh thứ ba, y ta Faubert đề nghị được nói chuyện riêng với anh.
- Bệnh nhân của tôi, - cô như chuẩn bị trước, - bắt đầu có những cử chỉ gần gũi khiếm nhã khi tôi thay quần áo cho ông ta.
Robin cho phép bác sỹ Wiley Barker tự do đưa ra một nhận xét không thuộc chuyên môn.
- Làm sao mà tôi có thể khiển trách ông ấy được. Tuy nhiên, tôi tin chắc là cô đã từng gặp những chuyện tương tự.
- Tất nhiên, nhưng không phải với một bệnh nhân vừa được phẫu thuật cách đây ba hôm. Cơ thể ông ta hẳn phải là sắt thép.
- Tôi sẽ cho cô biết cần phải làm gì. Hãy tống cái của nợ của hắn vào một cái ống, và hắn sẽ chẳng thể làm gì được nữa. – Cô mỉm cười. – Nhưng bị giam ở đây cả ngày, hẳn phải rất buồn, - Robin tiếp tục. – Mà tại sao tối nay cô lại không đến chỗ tôi nhỉ, sau khi Metcalfe đã đi ngủ, chúng ta sẽ cùng ăn tối.
- Tôi cũng thích như vậy. Tôi sẽ gặp ngài ở đâu?
- Phòng 217, khách sạn Hotel de Paris, - Robin nói mà không hổ thẹn. – 9 giờ tối nhé?
- Vâng.
- Nào Angeline, uống thêm một chút chablist nhé?
- Không, cám ơn, Wiley. Đây là một bữa ăn đáng nhớ.Tôi nghĩ, có thể ngài vẫn chưa có tất cả mọi thứ ngài muốn , phải không?
Cô đứng dậy, châm hai điếu thuốc , đặt một điếu vào miệng Robin. Sau đó, cô bước đi vài bước , chiếc váy dài nhẹ đung đưa bên hông. Dưới làn áo sơ mi màu hồng, cô không mặc đồ lót. Cô hít một hơi thuốc và ngắm nhìn anh.
Robin nhớ tới bác sĩ Barker trong sạch giờ này đang có mặt tại Australia, nhớ tới vợ con anh ở Newbury, và cuối cùng là tới đồng đội ở London. Nhưng rồi, anh quyết định gạt bỏ tất cả.
- Liệu có than phiền với ngàu Metcalfe nếu tôi có cử chỉ khiếm nhã với cô không?
- Nếu là anh, Wiley, - cô mỉm cười, - thì không bao giờ.
Harvey bình phục rất nhanh, tới ngày thứ sáu thì Robin tháo băng cho gã.
- Có vẻ nhu vết thương đã lành rồi đó, ngàu Metcalfe. Cứ yên tâm, chỉ giữa tuần sau là ngài hoàn toàn bình phục
- Tuyệt. Tôi cần phải quay ngay về Anh để kịp tuần lễ Ascot. Ngài biết không, con Rosalie của tôi là con ngựa được hâm mộ trong năm nay đấy. Liệu tôi có thể mời ngài tới dự các cuộc đua được không? Tôi sẽ làm gì nếu cơn đau lại tái phát?
Ronbin cố nén một nụ cười
- Xin ngài an tâm. Tình trạng sức khoẻ của ngài bây giờ rất tuyệt. Rất tiếc là tôi không thể xem con Rossalie thi đấu tại Ascot.
- Thật đáng tiếc. Dẫu sao cũng xin cảm ơn ngài, bác sĩ ạ. Chưa bao giờ tôi được gặp môt bác sĩ phẩu thuật giỏi và dễ mến như ngài
Anh cảm thấy nhẹ nhõm vì được xa cách Harvey, nhưng lại tiếc nuối vì phải tạm biệt Angeline.
Khi về tới khách sạn, anh nhờ người tài xế chuyển cho Harvey một hoá đơn viết theo kiểu cổ :
Bác sĩ Wiley Frank Barker gửi lời chúc mừng tới ngài Harvey Metcalfe và xin thông báo với ngài về số tiền thù lao dịch vụ y tế chuyên nghiệp 80.000 đôla cho cuộc phẫu thuật và điều trị hậu phẫu.
Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, người tài xế đã trở lại với tấm séc 80.000 $. Robin bay về trong chiến thắng
Hai người đã thành công Chỉ còn hai người tiếp tục chiến đấu.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook