Kẻ Tầm Xương
-
Chương 2
Với một cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, thật rực rỡ và không khí có vẻ nóng dữ dội.
“Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.
“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?”
Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa Trời.
Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang.
“Có phải ông ta không?”Anh hỏi Thom.
Người thanh niên trả lời: “Không.”
“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”
Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này, có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”
Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.
“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”
Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ vấy bẩn.
“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm Rhyme khó chịu.
“Một người khách.”
“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách cuối cùng đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên, có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô ấy tất nhiên không phải là người-khách.
“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.
“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.”
“Lạnh quá.’
“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ. Tôi sẽ giảm điều hòa.”
“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên. “Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế. Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.
Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?”
“Lon Sellitto”.
“Lon?”
Hắn ta làm gì ở đây thế?
Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn."
Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả, không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này, anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng. Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già, nhựa mủ và vải bọc ghế.
Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau.
Con chim ưng kia.
“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”
“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi có người nói cho anh hay.”
“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn không?”
Lộn xộn…
Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ cả sếp của mình.
Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi – mặc dù anh gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài, cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm và có thể coi là đẹp trai.
“Họ muốn nói chuyện với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất quan trọng.”
“Ừ, hoan hô họ.”
“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”
“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”
“Quan trọng đấy, Lincoln.”
“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.”
“Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”
“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?”
Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”
“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng."
“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”
“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”
“Tôi có nói chuyện với…”
“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ. Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến khi cậu đang nghe điện thoại.”
“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”
“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”
“Hỏi họ xem.”
“Tôi đang hỏi cậu.”
“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.”
“Có điều gì đó r… ất quan… trọng.”
“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó. Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.
“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”
“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”
“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”
Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên thôi, thưa các quí ông.”
“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.”
Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”
Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt trời.
Câm lặng.
Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được, nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp chặt bắp tay cô.
Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở đâu.
Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…
T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của Morgan Stanley[11]. Một nhà đàm phán.
Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta, tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.
Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…
Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại và người tài xế ra khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại từ những bức tường xung quanh.
Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn. Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm – mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút, và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn. Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.
Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.
Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.
Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính.
Biết được điều gì sẽ xảy đến.
Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực cô. Không, khi hai bàn tay đan lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình cố thoát ra. Hắn tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự đàn hồi của xương.
Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu, chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô chẳng thể nhận ra. Cô cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp lại. m thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.
Xoẹt. Xoẹt.
Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.
Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ.
Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án mạng của Thành phố New York.
Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.
Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.
Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.
“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?”
“Anh sẽ bảo chúng tôi đừng đến.”
Đúng thật.
Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.
“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không.
Đồ Martha Stewart[12] chết tiệt.
Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm dành cho người lớn.
Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ trung, Rhyme nghĩ.
“Cuốn nào vậy?”
“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”
“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc nó không?”
“Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.
Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime[13] còn lại đang dựa vào một bức tường trong phòng.
“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.
“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”
Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?
“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện.
“Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ.
“Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”
“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong những công việc uy tín nhất trong sở.
“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.
Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’
“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.
Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần giúp đỡ.”
Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.
“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ, anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.
“Lincoln?” Sellitto hỏi.
“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”
Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ nguậy đầy khó chịu trên ghế.
“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói.
“Một cuộc hẹn.”
“Một bác sĩ.”
“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa tràn ngập căn phòng.
Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh thế nào?”
Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới. Đó là câu hỏi mọi người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất phức tạp, và gần như chắc chắn là sẽ khó chịu.
Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?”
“Chúng tôi đã li dị”, Sellitto nói nhanh.
“Thế à?”
“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn, đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này trước đó, và Rhyme nói rằng có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần. Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ cùng làm việc.
“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.
“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là tập luyện.”
Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.
Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”
“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”
“Chúc may mắn.”
“Cám ơn cậu rất nhiều”
Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể tha thứ đối với người làm trong ngành y.
Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.
Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’
“Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện bịa đặt của những nghi phạm giết người.
Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê.
“Đồ ngốc”, Rhyme buột miệng.
“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.”
“Thom đối xử với tôi như một đứa trẻ.”
“Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.
“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa mẹ.”
“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến mặt Rhyme ửng đỏ.
Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt Rhyme thực hiện các bài tập ROM[14] thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối sức và giữ cho máu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.
Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU[15] màu đen, rắc rối, nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác, những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy tính và một màn hình treo trên tường.
Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng giàu có. Những anh chàng may mắn.
Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.”
“Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”
Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai. “Những người?”
“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì anh ta chưa nghe đến.”
“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB[16] anh đọc bốn tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về. Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric[17] trong khi làm tình.”
“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối.
Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”
Rhyme lờ cậu ta đi.
Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến nhà.”
“Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo hướng BQE[18] tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”
“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế không?”
“Không”.
“Hành khách nữ?”
“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”
11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.
Sellitto thở dài não nề.
“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.
“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói.
“Ai đeo cái gì?”
“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”
“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”
“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”
“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.
“Đối tượng gì?” Thom hỏi.
Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.”
“Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái nhẫn của cô ta ấy mà?”
“Tôi chịu.”
“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’
Rhyme nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?”
“Vì sao lại là thông minh?”
“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu, đúng không?”
“Kinh lắm.”
“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó. Tên cô ta là gì, Lon?”
Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn sổ ghi chép của mình.
“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”
Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale[19]. Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?
Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy. Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều khiển ECU của công ty Everest & Jennings[20] được kẹp ở bàn tay trái của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh sáng, máy tính và cái khung lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh chàng như anh.
“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi.
“Chẳng có gì.”
“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.
“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu báo cáo hiện trường vụ án.”
Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”
“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’
“Bây giờ ai là giám đốc IRD?”
“Vince Peretti.”
“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.”
Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.”
“Chúng tôi là ai?”
“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”
“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.
Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí. Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám định Pháp y của CRC Press[21]. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y Quốc tế.
“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng thì phủ đầy bụi.”
“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”
Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”
“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng tôi…”
“Hội nghị nào?”
“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa diễn ra ở London hai ngày trước không?”
“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.
“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây. Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu điện.”
“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”
“Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh ta đi nào.”
Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc giường của anh, thứ mà – như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là bảng điều khiển. Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”
Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng. Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân anh chưa bao giờ trẻ cả.
“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi.
“Sáu đường gân và đường xẻ, xoáy trái.”
“Vì thế hắn tìm cho mình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ hiện trường vụ án một lần nữa.
“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là chúng.”
“Cái gì?”
“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường vụ án.
“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”
“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound[22]. Một người không thể làm được việc đó.”
“Tiếp đi.”
“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”
“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.
“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến huyệt.”
Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh cần tôi làm gì?”
Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”
“Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ vật lý đều có ý nghĩa.
“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi. Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.
“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.
“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần bằng cao su lật trang giấy.
Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.
“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”
“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”
Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.
Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.
“Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ.
Cuối cùng. Sau bao nhiêu lâu.
“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”
Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ, Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”
Rhyme nói: “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây, khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa, mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.
Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.”
Viên thám tử quay lại.
“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính. Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ đến. Và sẽ rất khó tìm.”
“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”
“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia – tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai. Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ – “hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”
“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”
“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme ngắt lời.
“Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?” Banks phản đối. “Ý tôi là, không hề có máu vương ở hiện trường.”
“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.
“À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh biết?”
“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”
Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm, như thể anh ta đang gỡ mìn.
Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”
Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”
“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”
“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được huyệt?”
“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”
“Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”
“Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”, Rhyme tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky lậu lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York đi Albany hay Bridgeport.”
“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”
Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”
Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.
“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không. Hắn đang vẫy chúng ta. Để được chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại quá thông minh để có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”
“Có?”
“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng được nó. Và nhanh lên.”
“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”
Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó. Hoàn toàn tin.
“Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.
“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?”
Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa Trời.
Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang.
“Có phải ông ta không?”Anh hỏi Thom.
Người thanh niên trả lời: “Không.”
“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”
Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này, có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”
Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.
“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”
Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ vấy bẩn.
“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm Rhyme khó chịu.
“Một người khách.”
“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách cuối cùng đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên, có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô ấy tất nhiên không phải là người-khách.
“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.
“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.”
“Lạnh quá.’
“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ. Tôi sẽ giảm điều hòa.”
“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên. “Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế. Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.
Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?”
“Lon Sellitto”.
“Lon?”
Hắn ta làm gì ở đây thế?
Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn."
Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả, không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này, anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng. Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già, nhựa mủ và vải bọc ghế.
Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau.
Con chim ưng kia.
“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”
“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi có người nói cho anh hay.”
“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn không?”
Lộn xộn…
Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ cả sếp của mình.
Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi – mặc dù anh gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài, cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm và có thể coi là đẹp trai.
“Họ muốn nói chuyện với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất quan trọng.”
“Ừ, hoan hô họ.”
“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”
“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”
“Quan trọng đấy, Lincoln.”
“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.”
“Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”
“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?”
Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”
“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng."
“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”
“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”
“Tôi có nói chuyện với…”
“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ. Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến khi cậu đang nghe điện thoại.”
“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”
“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”
“Hỏi họ xem.”
“Tôi đang hỏi cậu.”
“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.”
“Có điều gì đó r… ất quan… trọng.”
“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó. Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.
“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”
“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”
“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”
Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên thôi, thưa các quí ông.”
“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.”
Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”
Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt trời.
Câm lặng.
Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được, nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp chặt bắp tay cô.
Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở đâu.
Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…
T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của Morgan Stanley[11]. Một nhà đàm phán.
Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta, tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.
Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…
Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại và người tài xế ra khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại từ những bức tường xung quanh.
Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn. Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm – mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút, và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn. Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.
Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.
Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.
Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính.
Biết được điều gì sẽ xảy đến.
Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực cô. Không, khi hai bàn tay đan lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình cố thoát ra. Hắn tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự đàn hồi của xương.
Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu, chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô chẳng thể nhận ra. Cô cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp lại. m thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.
Xoẹt. Xoẹt.
Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.
Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ.
Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án mạng của Thành phố New York.
Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.
Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.
Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.
“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?”
“Anh sẽ bảo chúng tôi đừng đến.”
Đúng thật.
Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.
“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không.
Đồ Martha Stewart[12] chết tiệt.
Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm dành cho người lớn.
Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ trung, Rhyme nghĩ.
“Cuốn nào vậy?”
“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”
“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc nó không?”
“Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.
Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime[13] còn lại đang dựa vào một bức tường trong phòng.
“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.
“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”
Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?
“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện.
“Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ.
“Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”
“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong những công việc uy tín nhất trong sở.
“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.
Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’
“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.
Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần giúp đỡ.”
Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.
“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ, anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.
“Lincoln?” Sellitto hỏi.
“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”
Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ nguậy đầy khó chịu trên ghế.
“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói.
“Một cuộc hẹn.”
“Một bác sĩ.”
“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa tràn ngập căn phòng.
Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh thế nào?”
Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới. Đó là câu hỏi mọi người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất phức tạp, và gần như chắc chắn là sẽ khó chịu.
Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?”
“Chúng tôi đã li dị”, Sellitto nói nhanh.
“Thế à?”
“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn, đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này trước đó, và Rhyme nói rằng có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần. Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ cùng làm việc.
“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.
“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là tập luyện.”
Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.
Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”
“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”
“Chúc may mắn.”
“Cám ơn cậu rất nhiều”
Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể tha thứ đối với người làm trong ngành y.
Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.
Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’
“Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện bịa đặt của những nghi phạm giết người.
Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê.
“Đồ ngốc”, Rhyme buột miệng.
“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.”
“Thom đối xử với tôi như một đứa trẻ.”
“Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.
“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa mẹ.”
“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến mặt Rhyme ửng đỏ.
Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt Rhyme thực hiện các bài tập ROM[14] thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối sức và giữ cho máu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.
Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU[15] màu đen, rắc rối, nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác, những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy tính và một màn hình treo trên tường.
Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng giàu có. Những anh chàng may mắn.
Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.”
“Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”
Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai. “Những người?”
“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì anh ta chưa nghe đến.”
“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB[16] anh đọc bốn tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về. Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric[17] trong khi làm tình.”
“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối.
Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”
Rhyme lờ cậu ta đi.
Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến nhà.”
“Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo hướng BQE[18] tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”
“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế không?”
“Không”.
“Hành khách nữ?”
“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”
11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.
Sellitto thở dài não nề.
“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.
“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói.
“Ai đeo cái gì?”
“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”
“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”
“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”
“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.
“Đối tượng gì?” Thom hỏi.
Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.”
“Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái nhẫn của cô ta ấy mà?”
“Tôi chịu.”
“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’
Rhyme nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?”
“Vì sao lại là thông minh?”
“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu, đúng không?”
“Kinh lắm.”
“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó. Tên cô ta là gì, Lon?”
Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn sổ ghi chép của mình.
“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”
Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale[19]. Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?
Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy. Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều khiển ECU của công ty Everest & Jennings[20] được kẹp ở bàn tay trái của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh sáng, máy tính và cái khung lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh chàng như anh.
“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi.
“Chẳng có gì.”
“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.
“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu báo cáo hiện trường vụ án.”
Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”
“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’
“Bây giờ ai là giám đốc IRD?”
“Vince Peretti.”
“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.”
Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.”
“Chúng tôi là ai?”
“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”
“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.
Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí. Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám định Pháp y của CRC Press[21]. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y Quốc tế.
“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng thì phủ đầy bụi.”
“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”
Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”
“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng tôi…”
“Hội nghị nào?”
“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa diễn ra ở London hai ngày trước không?”
“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.
“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây. Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu điện.”
“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”
“Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh ta đi nào.”
Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc giường của anh, thứ mà – như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là bảng điều khiển. Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”
Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng. Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân anh chưa bao giờ trẻ cả.
“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi.
“Sáu đường gân và đường xẻ, xoáy trái.”
“Vì thế hắn tìm cho mình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ hiện trường vụ án một lần nữa.
“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là chúng.”
“Cái gì?”
“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường vụ án.
“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”
“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound[22]. Một người không thể làm được việc đó.”
“Tiếp đi.”
“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”
“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.
“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến huyệt.”
Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh cần tôi làm gì?”
Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”
“Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ vật lý đều có ý nghĩa.
“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi. Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.
“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.
“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần bằng cao su lật trang giấy.
Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.
“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”
“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”
Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.
Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.
“Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ.
Cuối cùng. Sau bao nhiêu lâu.
“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”
Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ, Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”
Rhyme nói: “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây, khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa, mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.
Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.”
Viên thám tử quay lại.
“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính. Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ đến. Và sẽ rất khó tìm.”
“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”
“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia – tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai. Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ – “hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”
“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”
“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme ngắt lời.
“Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?” Banks phản đối. “Ý tôi là, không hề có máu vương ở hiện trường.”
“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.
“À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh biết?”
“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”
Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm, như thể anh ta đang gỡ mìn.
Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”
Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”
“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”
“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được huyệt?”
“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”
“Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”
“Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”, Rhyme tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky lậu lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York đi Albany hay Bridgeport.”
“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”
Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”
Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.
“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không. Hắn đang vẫy chúng ta. Để được chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại quá thông minh để có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”
“Có?”
“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng được nó. Và nhanh lên.”
“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”
Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó. Hoàn toàn tin.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook