Isekai Toriwake
-
C4: Chuyến Bay Đến Dị Giới (part 3)
Không bao lâu sau, cuộc trò chuyện của hắn cùng người đàn ông tên John Lennon bỗng gián đoạn và tạm ngừng khi toàn bộ thân máy bay bỗng run lên, đây là dấu hiệu cho việc máy bay đang quay đầu và lăn bánh ra đường băng.
Không khí sôi nổi bên trong máy bay thoáng vì thế bị cô động lại. Không phải vì sợ hãi, đây là sự yên tĩnh khi máy bay sắp sửa cất cánh và bọn họ đều biết rằng sẽ không có bất kỳ vấn đề gì xảy ra.
Dẫu vậy, một số người vẫn tỏ vẻ lo lắng thì không thể tránh khỏi, đây cũng là cơ chế phản ứng tự nhiên của cơ thể.
Còn với một số khác thì hoàn toàn ngược lại, trông họ rất thảnh thơi và thoải mái. Bởi lẽ đã qúa quen thuộc với việc di chuyển bằng máy bay nên sự lo lắng là một khái niệm không cần thiết, điển hình là anh chàng John Lennon ngồi bên cạnh hắn đây, khuôn mặt anh ta vẫn bình tĩnh như vậy.
Sau khi đã sẵn sàng để khởi hành trên đường băng.
Rất nhanh, tốc độ của máy bay dần tăng lên một cách nhanh chóng, đạt tới ngưỡng 300 km/h và từ từ bay lên không trung, cách mặt đất càng lúc càng xa cho đến khi đạt đến độ cao xấp xỉ hơn 10.000 mét.
Việc bay ở độ cao này không chỉ giúp máy bay bay nhanh hơn, tiêu tốn ít nhiên liệu hơn mà còn tránh được ảnh hưởng của thời tiết bất thường và tắc nghẽn không lưu.
Khi máy bay đã bay được một đoạn, duy trì sự ổn định cần thiết vốn có, hắn nghe thấy giọng nói của nữ tiếp viên hàng không lại vang lên một lần nữa trên loa điện tử: “Thưa quý khách, phi cơ trưởng đã tắt tín hiệu cài dây an toàn, và bây giờ quý khách có thể đi lại trên máy bay. Tuy nhiên, vì sự an toàn của quý khách, xin vui lòng giữ dây an toàn thắt chặt trong trường hợp có biến động bất ngờ.”
Tiếp theo, John Lennon xoay đầu nhìn về hướng toalet. Xác định có người đang đi về hướng đó, anh ta cũng vươn người đứng dậy, dùng tay vuốt nhẹ bộ vest trên người cho phẳng phiu rồi chậm rãi bước thẳng đến phía đấy.
Không còn việc gì khác, hắn đẩy mở tấm màn che cửa sổ của máy bay ra, đưa mắt nhìn bầu trời rộng lớn bên ngoài.
“Nhân loại là tuyệt nhất.”
Hắn khẽ nói và nhếch miệng cười một cách mãn nguyện.
Một lúc sau, John Lennon quay trở lại, ngay khi anh ta ngồi xuống, vốn định mở miệng tìm đề tài nào đó để tán gẫu một lát thì phát hiện ông cụ bên cạnh mình đã ngủ từ bao giờ.
Thôi vậy.
Anh ta đành thò tay lấy một quyển tạp chí bóng đá và yên tĩnh ngồi xem.
✦✦
00:37 AM.
Bắc Đại Tây Dương, địa phận tam giác Bermuda.
Tại một nơi nào đó trên bầu trời.
Ánh chớp bất chợt lóe sáng, sự rung động trong không khí tạo nên một làn sóng âm thanh khếch tán và hình thành tiếng sấm.
Giây phút vô cùng ngắn ngủi cho tới khi tiếng nổ vang rền.
Cả vùng không gian gần đấy cũng vì thế chịu sự ảnh hưởng. Chúng tựa như từng đợt gợn sóng uốn lượn trên mặt hồ một cách qủy dị. Và không chỉ vậy, chúng cũng trông tựa một con độc xà đang ẩn nấp trong đêm tối, và chỉ chực chờ con mồi xa bẫy vào vũng đầm lầy chết chóc này.
Hắn bất giác giật mình tỉnh giấc.
Không biết thời gian trôi qua được bao lâu kể từ lúc bản thân vừa chợp mắt, nhưng từ bầu không khí yên tĩnh và đèn của khoang máy bay đã chuyển sang ánh sáng mờ thì chắc rằng chẳng còn sớm nữa.
Không biết tại sao, hắn lại cảm thấy có chút bất an xen lẫn sợ hãi, cảm xúc chưa từng có trước đây.
Thật sự kỳ quái.
Nhưng cảm giác rất yếu ớt, khiến hắn cũng chẳng suy nghĩ nhiều. Vì lúc này, điều quan trọng hơn là cần giải quyết bàng quang có dấu hiệu tắc nghẽn và cần được lưu thông.
Hắn bắt đầu đứng dậy, lách người bước xuyên qua John Lennon đang nghiêng đầu ngủ say bên cạnh, và tìm tới phòng WC.
Vì đây là khoang phổ thông, phòng vệ sinh thì nằm ở phía sau, vì thế hắn đi ngược ra sau, vừa đi vừa tháo xuống chiếc kính lão rồi sử dụng phần tay áo để lau chùi nó.
Tới nơi, nguồn sáng hất ra trên cửa buồng vệ sinh rọi sáng vì thế hắn cũng thấy rõ thời gian hiển thị lúc này trên chiếc đồng hồ da rẻ tiền của mình.
Hiện tại đã qua nửa đêm, cách thời điểm một giờ sáng không còn bao lâu nữa.
“Cạch”— Hắn mở cửa và bước vào trong.
Nhưng, khác với sự yên ắng bên ngoài. Lúc này, bầu không khí trong khoang lái có vẻ khẩn trương hơn hẳn.
Cơ trưởng Noureddine và cơ phó Butrus đang nhìn vào màn hình hiển thị từ các thiết bị kỹ thuật số.
Và trên tay cơ trưởng là quyển sổ dùng để điền vào các thủ tục cần thiết, dòng ghi chú đang được ông ta viết dang dở cũng thoáng ngừng lại nửa chừng. Vì vừa rồi, chỉ trong một khoảng khắc, mọi thông số bất ngờ nhiễu loạn rồi bình thường trở lại khiến cho họ rất ngờ vực.
Hiển nhiên, máy bay luôn được cài đặt ở chế độ lái tự động.
Thực tế, các phi công không cần phải tự mình lái, họ chỉ cần can thiệp lúc cất, hạ cánh để chuyến bay diễn ra bình thường hoặc khi có sự cố.
Ngoài ra, công việc của các phi công cũng bao gồm giám sát radar thời tiết để đánh giá tình hình, liên lạc qua radio với không lưu và thay đổi độ cao.
Có thể đôi tay họ không trực tiếp lái máy bay, nhưng đôi mắt chim ưng của họ đang dõi theo tiến trình chuyến bay rất sát sao.
“Có lẽ là sự cố nhỏ, chỉ là một trục trặc bình thường thôi.”
Cơ phó cười an ủi nói.
“Hy vọng là vậy Butrus. Thề có Chúa, vì nếu không chúng ta sẽ về với ngài đấy.”
Vừa nói, cơ trưởng Noureddine vừa hoàn tất dòng ghi chú của mình sau đó cất quyển sổ sang một bên.
Butrus cười khan một tiếng, anh ta biết cơ trưởng chỉ tỏ ra hài hước, nhưng nếu những lời tiêu cực này lọt ra bên ngoài thì sẽ có người phải tự viết kiểm điểm cho mình.
“Tôi mang chút đồ uống gì đó cho ngài nhé?”
Dường như cảm thấy mọi việc vẫn tiến triển thuận lợi, Butrus buông ra cảm giác bất an rồi quay sang hỏi.
Noureddine gật đầu: “Lấy giúp tôi một tách cafe.”
Xong, Butrus kiểm tra tình hình tổng quát lần cuối rồi đứng dậy bước đi ra ngoài.
Khi Butrus rời khỏi không bao lâu và để lại cơ trưởng Noureddine một mình trong buồng lái. Thì rất nhanh, điều không mong muốn lần nữa đã xảy ra, và lần này còn nghiêm trọng hơn cả trước.
“Yrii——!!!”
Hệ thống điện tử mất tín hiệu, điều đấy dẫn tới hệ lụy khác ngoài ý muốn.
Chế độ tự động lái ngưng hoạt động, đồng thời không tìm thấy đường bay theo hướng dẫn.
Đèn khẩn cấp được kích hoạt.
Toàn bộ thân máy bay bỗng chao đảo.
Cơ trưởng Noureddine hốt hoảng, ông ta lập tức hoán đổi sang thao tác tay trước khi toàn bộ máy bay mất kiểm soát.
Dẫu vậy, chuông báo động vẫn rung lên ầm ĩ.
Giữa sự ồn ào ấy, Butrus giật mình cấp tốc hối hã chạy vào. Chỉ vừa mới ngồi xuống và đeo vội tai nghe, anh ta lo lắng hỏi: “Chuyện gì vậy cơ trưởng??!!”
“Có sự cố rồi!!!... Hệ thống kỹ thuật số bị gián đoạn... Không, là mất tín hiệu!!!”
Noureddine hét lớn, trong khi đó cố giữ vững cần điều khiển bằng cả hai tay. Ông ta tiếp tục nói: “Butrus, dùng mọi biện pháp thử liên lạc với trạm kiểm soát không lưu!!!”
“Thưa ngài, radio mất tín hiệu rồi!!!”
Butrus trả lời trong nỗi sợ sệt.
“Không sao cả, động cơ bay vẫn không rời bỏ chúng ta, tôi sẽ cố gắng kiểm soát tình hình này. Trước tiên cậu hãy tắt cái âm thanh báo nguy chết tiệt này đi!!!”
Bởi tiếng ồn từ chuông báo động, nên mỗi lần nói họ đều phải hét lớn vào tai nghe mới có thể nghe thấy được nhau.
“Vâng thưa ngài!!!”
Butrus nói và tắt nó đi, không gian bên trong buồng lái cũng vì thế yên tĩnh trở lại.
Nhưng họ thì không thể nào bình tĩnh hơn được.
Không còn tọa độ, như một con chim đã mất đi định hướng, nếu việc này còn tiếp diễn thì một cuộc hạ cánh khẩn cấp là bắt buộc phải xảy ra.
“Butrus, cậu hãy thử khởi động lại hệ thống buồng lái xem, tôi không muốn hạ cánh giữa đại dương đâu.”
Bằng một cách nào đó, Noureddine làm cho mình trấn định. Bởi trong giây phút này, hơn ai hết ông không được phép để cho bản thân mất bình tĩnh.
Từ khi máy bay khởi hành rời khỏi trạm thì họ đã luôn bay trên bề mặt của đại dương. Vì Puerto Rico, Florida và Bermuda vốn là ba phần hình thành nên vùng biển Tam Giác Qủy.
Trừ khi gặp phải trường hợp bất khả kháng, ví dụ như động cơ bay gặp trục trặc không thể tiếp tục, bằng không Noureddine sẽ không muốn hạ cánh xuống biển.
Cần phải biết, hạ cánh xuống biển là nguy hiểm nhất.
Tỷ lệ sống sót cũng rất thấp, vì thường máy bay sẽ bị gãy đôi, khả năng cháy nổ rất lớn.
Sức nước chống lại máy bay mạnh hơn nhiều khi hạ cánh xuống đất.
Cứ 10 vụ thì 8, 9 vụ gãy đôi máy bay, chưa kịp để mở cửa thoát hiểm, nó vỡ luôn, chìm luôn hoặc nổ luôn.
Nếu hạ cánh khẩn cấp xuống mặt đất mà máy bay không nổ, thì sau 1-2 ngày có thể mò lên tìm kiếm những thứ giúp họ sống sót như thức ăn, nước uống. Còn việc hạ cánh xuống biển, nếu may mắn sau vài phút là máy bay chìm nghỉm. Cho nên tiếp viên phải nhanh chóng dùng dao cắt dây nối thuyền phao với máy bay ngay, nếu không nó sẽ chìm và kéo tất cả cùng chìm xuống biển.
Trong khi Butrus loay hoay với hệ thống điện tử đã mất khi nó kết nối trực tiếp với radar và radio, nữ tiếp viên trưởng vội vã đi vào và báo cáo tình huống của hành khách cho Noureddine: “Thưa cơ trưởng, hành khách đang tỏ ra rất bức xúc, họ muốn biết tại sao máy bay lại bất ngờ rung lắc đến thế!”
Không chỉ riêng hành khách, những tiếp viên như bọn họ cũng rất muốn biết điều này.
“Mosi, tôi phải báo cho cô một tin xấu, chắc hẳn cô sẽ không muốn nghe đâu. Vì vậy, hãy chuẩn bị tâm lý để đối mặt với điều không may.”
Noureddine không quay đầu lại mà chỉ nghiêm túc nói. Nếu nhìn thấy, sẽ phát hiện mồ hôi đã ướt nhẹp lưng áo của ông ta. Điều mà bản thân ông hy vọng nhất lúc này, đó là tín hiệu phát ra từ hệ thống radio kết nối với trạm kiểm soát.
“Tôi cần thông báo với các hành khách chứ?”
Nữ tiếp viên này tên là Mosi, sau khi nghe thế cơ thể cô chợt run lên.
“Ừ, cô hãy nói cho họ biết. Họ cần phải biết chuyện bản thân đang đối mặt. Chúng ta đã mất liên lạc với trạm, hệ thống xác định phương hướng đã chết. Trong tình huống nguy cấp nhất, sát xuất rất lớn chúng ta sẽ phải hạ cánh xuống biển. Giúp tôi bảo đảm rằng mọi người đã sẵn sàng khi điều đó xảy ra.”
“Vâ... vâng... ngay bây giờ tôi sẽ...”
Mosi sợ hãi, khả năng đối đáp của cô cũng gặp đình trệ khi bị tin tức này bủa vây. Dẫu vậy cô vẫn muốn nói dứt câu nhưng bỗng lưỡi cô chợt cứng lại, cả người hoàn toàn ngây ra như phỗng.
Không gian trước mắt cả ba người bỗng biến đổi.
Có lẽ từ thời khắc này trở đi, sát xuất dự phòng để cho máy bay có thể đáp xuống biển cũng đã bị cướp mất khỏi tay họ.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook