Cựu Nhân
-
Chương 3
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Sau khi Nghiêm huyện thừa tới, dịch quán bên này cuối cùng cũng an tĩnh lại. Không còn ầm ĩ đòi đổi cái này cái kia, cũng không còn ba ngày thì hết hai ngày ồn ào nháo loạn. Đám hạ nhân có người đứng ở bên cạnh dè dặt hỏi: “Đại nhân, ngài đây là…”
Cố Minh Cử ngẩng đầu lên từ trang sách, xa xăm nhìn về phía ngoài cánh cửa vắng vẻ, bên môi mang theo một tia cười mỉm như có như không: “Ai bảo hắn là tên Nghiêm Phượng Lâu có làm cách nào cũng không dạy bảo được kia chứ?”
Hai ngày sau, Nghiêm Phượng Lâu thăng đường xử án, chính là xử vụ án mạng kiện Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn kia. Cố thị lang như thiên kim đại tiểu thư dưỡng trong khuê phòng chẳng thấy bước ra khỏi đại môn nửa bước cũng hiếm có được một ngày dậy thật sớm: “Làm khó Trương tri phủ phải đưa tới đây một con Bát Ca (1) để ta giải sầu, dù sao cứ để nó trong dịch quán mãi cũng sẽ chán chết mất, mang nó ra ngoài tản bộ đi.”
Hắn mặc một bộ thường phục màu xanh nhạt, nhàn nhã thong dong xách theo lồng chim, vừa đi vừa không quên chỉ chỉ trỏ trỏ hai bên đường: “Nhà bán bút nghiên này thì ra vẫn còn, à, nghiên mực của nhà này làm là tốt nhất Thanh Châu đấy. Di? Trước kia ở cách vách có một quán cơm nhỏ, sao bây giờ không thấy nữa rồi? Rượu Nữ Nhi Hồng của bà chủ nhà này ủ là tuyệt nhất thành Nam An nha!”
Bên cạnh có người nhịn không được bèn hỏi dò: “Đại nhân sao lại quen thuộc với Nam An như vậy?”
Hắn lúc này mới như bừng tỉnh từ giấc mộng, chậm rãi thu tay về, ngẩn ngơ đứng trên con phố dài, nhất thời vô hạn cảm khái: “Năm đó ta chính là từ Nam An tiến vào kinh thành a…”
Trải qua năm tháng cách biệt, vẫn thường hay nói cảnh còn người mất, nhưng nào có ai ngờ, cố nhân vẫn như xưa, Nam An huyện thành trong ký ức mặc dù không được phồn hoa nhưng cũng náo nhiệt đáng yêu vô cùng lại đã không còn nữa. Thế đời sa sút, người đi bên đường lác đác ít ỏi, trước cửa các quán hàng đều vắng tanh vắng ngắt, mặc cho gió thu thét gào cuốn theo lá vàng từng trận cuộn bay, suốt dọc đường đi chưa từng nghe được một tiếng cười đùa thoải mái.
Có người nam nhân tráng kiện từ đằng xa chạy tới, vừa chạy vừa chửi mắng: “Thằng nhóc con kia, ngươi không muốn sống nữa phải không! Dám ăn trộm đồ trong cửa hàng của ông ngươi, xem ông có đánh chết ngươi không!”
Cố Minh Cử bỗng nhiên cảm thấy thắt lưng bị đụng mạnh, nghe thấy dưới chân có tiếng người đau đớn kêu lên “ôi chao”, cúi đầu nhìn liền thấy một hài tử tuổi chỉ tầm năm sáu đang té ngã lăn quay trước mặt mình, gương mặt nhỏ nhắn lem luốc, quần áo cũng dơ bẩn đáng thương, chỉ có chiếc màn thầu nắm chặt trong tay là màu trắng.
“Ôi chao ơi, mi, mi, mi… mi là thằng quỷ con ở đâu ra, muốn chết phải không? Đại nhân nhà ta là để cho mi đụng vào hay sao? Có tịch biên diệt tộc cũng không đủ để mi bồi thường!”
Tên thị tòng khiếp hãi hung hăng xắn tay áo lên, nhấc bổng thằng nhỏ từ trên mặt đất dậy như đang xách một con gà con. Cố Minh Cử thấy thằng nhỏ kia có một đôi mắt hắc bạch phân minh. Nó không khóc cũng không giãy dụa, chỉ lạnh lùng liếc nhìn Cố Minh Cử, rồi lại quay đầu nhìn nam nhân tráng kiện đã đuổi tới trước mặt kia. Rõ ràng tuổi của nó chỉ bằng một đứa nhỏ nên gối đầu lên chân mẹ làm nũng, trên gương mặt lại tràn đầy vẻ thản nhiên của một nhân tài khi đương đầu với cái chết nên có.
Thiên hạ này… thế đời đã trở thành như vậy, không biết nếu Nghiêm Phượng Lâu chứng kiến một màn ấy, trong lòng sẽ có cảm tưởng gì đây.
“Bỏ đi, chúng ta đi thôi.” Điềm nhiên khoát khoát tay, Cố Minh Cử chọc đùa chú chim Bát Ca trong lồng, cất bước đi vòng qua người đứa bé nọ.
Đám thị tòng vẫn còn hùng hổ mắng mỏ không ngớt, hung hăng kéo vặn khuôn mặt nhỏ nhắn của đứa bé kia: “Xem như tên tiểu tử nhà ngươi mạng lớn! Đại nhân nhà ta là khách từ phương xa đến, mới không muốn kiếm chuyện trong địa giới Nam An huyện này. Đây mà là kinh thành xem… Hừ!”
Phía sau lại là một hồi tiếng bước chân chạy gấp gáp, sau đó là tiếng quát mắng của nam nhân kia: “Chạy! Ngươi còn dám chạy! Ta đánh gãy chân ngươi!”
Lồng chim trong tay được chế tác vô cùng tinh xảo, chạm khắc hoa văn, vừa nhìn liền biết được làm từ tay một vị danh gia nổi tiếng nào đó, chưa kể xúc cảm ôn nhuận trơn mịn mà nó mang lại, có khi là cổ vật từ mấy triều đại trước chưa biết chừng.
Một cái lồng nuôi thú này ước chừng có thể mua được một tòa tửu lâu làm ăn xem như phát đạt ở Nam An huyện. Cố Minh Cử xuyên qua lồng chim nhìn sang bên cạnh, người đi đường vội vàng như thoi đưa, đều vì kế sinh nhai của chính mình mà bận rộn, ai cũng không hề dừng chân liếc nhìn đứa bé nọ, càng không người nào dũng cảm ra mặt, mua cho nó cái bánh màn thầu kia.
Lúc đi đến trước cửa huyện nha, nhân tài dần dần nhiều lên, nhưng so với dự đoán thì vẫn ít hơn rất nhiều. Cố Minh Cử tìm một góc yên lặng đứng xem, thời điểm thăng đường đã đến, hai hàng nha dịch đứng chỉnh tề ngay ngắn trên công đường, thân mặc quan phục, tay cầm thủy hỏa côn (2), cũng rất oai phong hiển hách. Nghiêm Phượng Lâu ngồi trên đường thượng, sau lưng là một bức hải đồ Trường Giang Hoàng Hà gợn sóng, trên đầu là tấm biển đề “minh kính cao huyền” (3).
Viên huyện thừa trẻ tuổi thần thái nghiêm túc, dáng ngồi như núi, giữa hai hàng lông mày là một cỗ chính khí lẫm liệt.
Một vị đại thẩm xách giỏ thức ăn đứng bên cạnh Cố Minh Cử nói: “Nếu không phải để được nhìn thấy Nghiêm đại nhân, ta cũng chẳng đến đây xem náo nhiệt đâu!”
Cố Minh Cử nghe vậy cảm thấy buồn cười: “Vị phu nhân này không phải tới để nghe thẩm án sao?”
“Thẩm án? Cái này có gì hay mà nghe?” Bà như nghe được một câu chuyện cười, khom lưng cười khúc khích một trận, “Tứ thiếu gia nhà họ Tôn bức tử Phượng Nhi của nhà lão Tam Hán trên phố Tây, có ai là không biết chuyện này a! Vị công tử này, ngươi từ nơi khác đến phải không? Nhìn mặt rất lạ nha!”
Tên thị tòng lắm miệng định đáp lời liền bị Cố Minh Cử phất tay chặn lại, hắn quay mặt sang chắp tay nói: “Vâng, vừa mới tới Nam An. Học trò là đến thư viện Nam An để cầu học.”
“Ôi chao, thì ra là một thư sinh!” Bà cười càng nhiệt tình, xách giỏ thức ăn tiếp tục cùng hắn trò chuyện: “Thư sinh là tốt a, tương lai thi đậu là có thể ra làm quan rồi! Thời thế bây giờ nha, chỉ làm quan mới có đường sống, ngươi nhìn những người đang đi trên phố kia xem, những kẻ não lớn cổ thô không phải làm quan thì cũng là gia quyến của quan, nếu không thì cũng là nô tài trong phủ đại nhân kia. Còn như chúng ta mấy con tiểu miêu tiểu cẩu này, bất quá chỉ là sống cho qua ngày đoạn tháng. Thôi thì cố gắng gom góp mà sống, lẽ nào lại có thể tự mình cắt cổ tự vẫn hay sao?”
Cố Minh Cử càng thêm hứng thú hỏi bà: “Đại thẩm nói như vậy, không sợ bị kẻ xấu nghe thấy được sẽ đi tố cáo thẩm tâm hoài bất quý, mưu đồ tạo phản sao?”
Bà lại chẳng để tâm, giọng nói vẫn vang dội như chiêng đồng chẳng hề thay đổi: “Nói cũng đã nói rồi, hoàng thượng ở tận kinh thành cơ, không nghe được đâu!”
Trong lúc nói chuyện, án tử của Nghiêm Phượng Lâu đã thẩm vấn được quá nửa. Đại thẩm nhiệt tình kể liên miên cho Cố Minh Cử nghe, người bị hại chết kia là khuê nữ Phượng Nhi của nhà lão Tam Hán. Lão Tam Hán là một người góa vợ, vợ lão mất sớm, chỉ để lại một đứa con gái là Phượng Nhi, càng lớn càng xinh đẹp yêu kiều. Thế nhưng mỹ mạo sinh trên người con nhà phú quý thì là phúc khí, sinh ở người con nhà bần hàn thì chỉ là đại họa. Lúc cô nương đi trên phố, một phút không lưu thần liền bị vị Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn nhìn thấy, từ đấy rước lấy mầm họa.
Nhà họ Tôn là thế gia vọng tộc của bản thành, ỷ vào việc có một người họ hàng xa ở kinh thành, đã quen với việc ngạo nghễ tung hoành trong huyện. Vị tứ thiếu gia kia lại càng là một tên văn dốt võ nát, vợ bé rước vào cửa đã có tới chín vị, lại càng không cần kể tới những cô nương bị hắn làm nhục rồi vứt bỏ ở bên ngoài. Đêm ấy gặp được Phượng Nhi, liền có người tới nhà lão Tam Hán đòi người. Phượng Nhi cô nương kia hiển nhiên là liều chết không theo, lão Tam Hán cũng là một người tính tình cứng rắn, liền nhấc chổi đuổi hắn đi ngay lập tức.
Tôn gia là gia đình mà ngay cả tri phủ của bản châu cũng phải nhường nhịn ba phần, làm sao lại quan tâm đến lời cự tuyệt của một lão Hán bện giỏ trúc? Nửa đêm khuya khoắt liền xông vào phủ kéo bắt cô nương nhà người ta đi. Thế là từ một cô nương xinh đẹp như hoa tươi, ngày hôm sau đưa về nhà lại chỉ còn là một khối thi thể băng lãnh. Lão Tam Hán tức giận vô cùng, oán khí tích tụ đã nhiều năm, liền đi đánh trống kêu oan, đệ đơn kiện lên huyện nha.
“Ài, người ta vẫn thường hay nói đấu tranh đến hơi thở cuối cùng, kỳ thực nha, lúc phải cúi đầu, cho dù là nghiến răng nuốt máu cũng không thể không cúi đầu a. Vị công tử này, ngươi nói có phải hay không?” Bà nói không ngừng không nghỉ, lời kể liên miên như dẫn thêm hoa, đem một cái thảm án kể đến thoải mái trầm bổng, hệt như được tận mắt chứng kiến.
Cố Minh Cử mỉm cười xu nịnh: “Nếu tương lai ta có thể làm quan, nhất định phải mời thẩm đến phủ làm thuyết thư.”
Nữ nhân thẳng thắn cười ha hả, túm cánh tay Cố Minh Cử không muốn buông ra: “Thư sinh các người nha, chính là rất biết cách ăn nói. Chẳng trách những kẻ làm quan đều biết nói dối hơn người thường đấy!”
Cố Minh Cử thần sắc như thường, nhưng sắc mặt của đám thị tòng bên cạnh đã có chút khó coi.
Ôn Nhã Thần từng nói, làm người bất hạnh nhất chính là sinh vào thời cuối thịnh thế đầu loạn thế. Triều đại khai quốc đã có hơn hai trăm năm, trước kia cũng từng có thời sông núi rừng xanh bốn phương thái bình, tiếc là hoa đẹp không tươi mãi, tiệc ngon cuối cùng cũng phải tàn, gia sản có nhiều đến đâu cũng không chịu nổi sự bòn rút của đám con cháu bất tài suốt ngày hồ thiên hồ địa. Gia nghiệp truyền đến đời hiện tại, kỳ thực cũng chỉ còn là vẻ bề ngoài nhìn đẹp đẽ mà thôi. Đương kim thánh thượng trước khi tới năm mươi tuổi xem như còn cần mẫn, đến hiện giờ tuổi tác đã cao, tai lãng mắt mờ lại quanh năm ốm đau bệnh tật, đối với sự vụ triều chính thực sự là lực bất tòng tâm, huống chi, ngay cả phần “tâm” kia cũng không biết còn có bao nhiêu chắc chắn.
Giang sơn không thể một ngày không có người chủ tài năng đức hạnh, quân chủ một khi đã hoa mắt ù tai, kẻ tiểu nhân thừa nước đục thả câu cũng là điều đương nhiên. Một khi kẻ tiểu nhân đã lên nắm quyền, những chuyện như kết bè kéo cánh, tranh quyền đoạt lợi chính là xu hướng phát triển tất yếu.
Người làm quan là phụ mẫu của vạn dân, nếu phụ mẫu chỉ một lòng lo tư lợi cho bản thân, vậy còn có ai chăm lo đến những đứa trẻ gào khóc vì đói đây? Phúc của quốc gia suy nhược, ngay cả ông trời cũng nhìn không được. Mấy năm liên tiếp hai miền Nam Bắc ngập lụt, bão lũ hoành hành, lương thực thu hoạch cả năm cũng không đủ để cầm cự qua được nửa năm.
Tình cảnh mất mùa liên miên, hoàng gia lại không biết thương cảm. Vừa xây dựng đài cao, lại vừa kiến tạo Quỳnh lâu, một con thuyền rồng theo dòng sông Hàng xuôi về phương Nam không biết đã tốn bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân, một lần tế tổ hiển hách lẫy lừng lại không biết đã lấy đi bao nhiêu sức lao động của khổ dịch dân phu trai tráng. Dưới tình cảnh nghèo nàn khắc nghiệt như vậy, mỗi người đều vì mình mà âu lo tính toán, còn có ai lo được tới sống chết của người ngoài?
Vẫn thường hay nói khi quốc gia thương vong, yêu nghiệt sẽ hiện thân ra hết. Trước mắt dù chưa thấy kiếp nạn lớn, nhưng những chuyện đầy chua xót như nhà hào phú quan gia khi dễ dân chúng đã nhìn tới quen mắt. Thời thịnh thế chỉ e thực sự đã đi đến hồi cuối, mơ hồ đã thấy điềm báo của thời buổi loạn ly.
Thẩm vấn trên công đường đã đi đến hồi kết, những người tụ tập bên ngoài công đường nghe phán xử cũng đã tốp năm tốp ba tản đi không ít. Đại thẩm nọ vẫn nói đến hào hứng phấn chấn, nhìn xung quanh nói: “Ai cũng đều hiểu rõ chuyện là như thế nào, đều biết phán xét cuối cùng sẽ cho kết quả ra sao. Mọi người đều vội vã chạy đi tìm kế sinh nhai cho chính mình cả rồi, còn ai bận tâm đến nơi này nữa?”
Cố Minh Cử nâng mắt lên kiếm tìm hình bóng Nghiêm Phượng Lâu trên đường thượng, cách quá xa, từ đầu đến cuối đều không nhìn thấy rõ biểu tình của y. Chỉ nghe được giọng y nói, so với trước kia lúc đến gặp mình thì trầm thấp hơn ít nhiều.
Nhân chứng cần truyền đều đã từng người từng người bước ra công đường. Người phu canh* ban đầu nói tận mắt chứng kiến Phượng Nhi cô nương bị bắt đi, bây giờ lại đã sửa lời khai, nói ngày đó gã căn bản không đi qua ngõ nhà lão Tam Hán, cũng không thấy gia đinh và nhuyễn kiệu gì của Tôn gia. Người trùng hợp đi qua đầu ngõ hôm ấy nói, đêm đó hắn uống say bí tỉ, nghe thấy tiếng la hét nhốn nháo hóa ra là từ sòng bạc truyền tới. Còn có một cô nương là bạn cùng phố của Phượng Nhi, từ đầu đến cuối nàng chỉ khóc, không chịu nói một câu nào…
(*phu canh: người đi tuần đêm điểm canh)
Vị tứ thiếu gia của nhà họ Tôn kia ngay cả mặt mũi cũng chưa từng xuất hiện, chỉ phái tới một người quản gia có bộ dáng còn xấu xí hơn cả Trương tri phủ: “Tứ thiếu gia nhà chúng tôi bị bệnh, đang ở trong phủ tĩnh dưỡng, thực sự không thể đến được. Đại nhân ngài xem, đây là đơn thuốc của Vương đại phu ở Hồi Xuân đường kê cho.”
Ngoại trừ sự thực mà lão Tam Hán một mực khẳng định, không còn ai nhìn thấy Phượng Nhi cô nương bị cướp đi, càng không có ai nhìn thấy Phượng Nhi cô nương chết như thế nào. Tôn gia nói, có lẽ do đêm hôm đó trời mưa đường trơn, Phượng Nhi cô nương bị ngã xuống sông. Bất quá Tôn tứ gia thiện tâm, không nhìn được cảnh người khác chịu khổ, nguyện ý tặng cho lão Tam Hán năm mươi lượng bạc ròng, xem như là cho Phượng Nhi cô nương một bộ quần áo mới.
Viên huyện thừa trẻ tuổi của Nam An ngồi dưới tấm biển “minh kính cao huyền” (3), từng chữ nói ra vô cùng cực khổ: “Án này… còn có điểm đáng ngờ, chờ bản huyện ngày khác sẽ tái phán.” Hàm chứa trong lời nói là sự mệt mỏi và thất bại tràn đầy, làm cách nào cũng không thể che đi được.
Lúc này đã là giữa trưa, vầng thái dương chói chang bên ngoài chiếu rọi cả đất trời đến lóa mắt. Ánh mặt trời lại không thể chiếu được vào bên trong công đường, bóng đen thâm trầm của tấm biển treo trên đầu bao trùm thật nặng lên người Nghiêm Phượng Lâu, Cố Minh Cử nheo mắt quan sát thật tỉ mỉ, cũng chỉ mơ hồ thấy một bóng ảnh mờ nhạt đang suy sụp tinh thần.
“Đại nhân, quan vận hanh thông! Quan vận hanh thông! (4)” Cuối cùng, ngay cả vị đại thẩm “đến để xem Nghiêm đại nhân” cũng đã rời đi, bên ngoài huyện nha ảm đạm vắng vẻ, chỉ còn lại một mình Cố Minh Cử. Con chim Bát Ca mà Trương tri phủ đem tới tặng kia bỗng nhiên kêu lên vui vẻ, ở trong lồng không ngừng nhảy nhót.
Cố Minh Cử dùng ngón tay gõ gõ lên lồng sắt, chọt chọt đôi cánh đen thui của nó: “Đồ tiểu yêu nhà ngươi! (5)“
***
Mấy ngày trước có người mang thiếp tới bái phỏng, chính là ông lớn thanh danh lan truyền của Tôn gia. Cái bụng của gã tròn vo, cả người béo tròn mập mạp, cười rộ lên trông như tượng Phật Di Lặc bên ngoài cửa miếu: “Là tại hạ quản giáo không nghiêm, gây thêm phiền toái cho đại nhân. Vì việc này, ta vội vã tới để thỉnh tội với đại nhân.”
Gã khách sáo ngồi xuống chính là khiến người ta thông suốt không thể cự tuyệt, nói liên miên một hồi về những gian nan của việc làm quan, dạt dào lưu loát từ mặt đất nói đến chân trời, lúc nói Đông khi lại nói Tây, khiến người ta không thể mò ra đầu mối, lại tuyệt nhiên không hề đề cập tới chuyện của tên Tứ đệ hỗn trướng nhà mình, như vô tình rồi lại như hữu ý, trong câu chuyện bị mây mù che phủ chợt lộ ra một câu: “Năm đó lúc Nghiêm đại nhân còn ở kinh thành, không biết có từng gặp qua người cậu kia của nhà ta không? Ha ha, nói là cậu vậy thôi, kỳ thực lão nhân gia hắn với nhà chúng ta cũng chỉ là họ hàng xa, bây giờ cũng ít khi qua lại rồi.”
Nghiêm Phượng Lâu ậm ừ cho có lệ vài câu. Gã cũng không giận, ngồi một lúc liền vui vẻ đứng dậy cáo từ.
Đi chưa được bao lâu, liền có quản gia của nhà họ Tôn đưa tới một chiếc hộp gỗ: “Ông lớn nhà tiểu nhân nói, biết rõ Nghiêm đại nhân ngài là quan thanh liêm, bởi vậy không dám mạo phạm. Bất quá nào có đạo lý tới nhà bái phỏng lại không mang theo vật gì? Đại nhân ngài nếu thực sự không chịu nhận, vậy đem thưởng cho các vị bên dưới của quan gia cũng xem như là cảm tạ các vị ấy vẫn luôn cực khổ.”
Nghiêm Phượng Lâu sai người mở hộp ra xem, bên trong xếp chỉnh tề một chồng ngân phiếu, nói nhiều không nhiều, nói ít không ít, theo lệ thường trên chốn quan trường, xem như đủ để đền bù một mạng người.
“Nghiêm đại nhân ngài đừng nên trách móc, ông lớn nhà tiểu nhân là một người rất thẳng thắn, không giỏi những thứ hư đầu hư não.” Tên tiểu tư kia trời sinh một cái miệng lưỡi trơn tru, nụ cười ngọt ngào giống y chang vị Tôn đại gia nọ, “Ông lớn nhà tiểu nhân nói, mặc dù chúng ta sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, nhưng quy củ ở bên ngoài, nhất là trên chốn quan trường ở kinh thành, chúng ta vẫn là biết.”
Tra xét ra án tử của Tôn gia không khó, bọn chúng hành sự quá sức lớn mật, ngay cả che giấu đầu mối cũng lười không muốn phí công, quả thực mà nói chính là cậy mạnh cướp người ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Khó có được ở đây nở ra mấy khuôn mặt tươi cười, cùng một câu nói nhẹ nhàng “Nhà ta có người cậu ở kinh thành”.
Ngay cả vị Trương tri phủ từ trước tới giờ chưa từng ghi nhớ nổi cái tên của mình kia cũng đặc biệt phái người tới cảnh cáo: “Nghiêm đại nhân, ngươi làm quan cũng không phải mới ngày một ngày hai, có một số việc chính là phải như vậy, đừng hỏi tại sao, cũng đừng lúc nào cũng muốn những thứ không thể có, ngươi trước hết tự mình ngẫm lại đi. Ngươi a, nếu thực sự nhịn không được muốn bắt người ta, vậy ngươi cũng phải nghĩ cho ta. Trần đại nhân hiện giờ ở Hình bộ thế lực lớn vô cùng, đến lúc đó nếu bên trên muốn truy cứu, tội của ngươi bản phủ cũng phải gánh cho ngươi một phần…”
Lúc tra án bị áp lực đè nặng vô cùng, không cách nào nặn ra được một nụ cười, đến khi thẩm vấn lại thành một câu chuyện cười. Nhân chứng ban đầu tìm được không chỉ có những người này, nhưng vừa nghe nói phải lên công đường, liền có người thối lui từng bước.
Miễn cưỡng thuyết phục được vài người, tới khi lên công đường lại liên tiếp thay đổi lời khai, nói nhìn thấy rồi lại bảo không thấy, rõ ràng nhìn thấy rồi lại nói nhìn sai. Cũng không phải mất đi nhân tính, chỉ là bị tình thế bức bách, mỗi người chung quy vẫn phải vì mình và vì người thân mà cân nhắc thật kỹ trước khi mở miệng.
Thẩm vấn đến cuối, Nghiêm Phượng Lâu gần như không dám nhìn tới gương mặt đau khổ của lão phụ dưới công đường kia, rất sợ chỉ cần nhìn thấy nước mắt chan hòa của lão, chính bản thân mình cũng không thể chống đỡ nổi nữa.
***
Lúc Cố Minh Cử đến nhà, Nghiêm Phượng Lâu đang ngồi ngẩn người trong thư phòng, đầu vẫn ngập đầy những màn trước sau của buổi thăng đường. Ánh mặt trời sau ngọ mới đó đã bị từng đám mây đen che lấp, bầu trời âm u, nổi lên từng trận gió lạnh, lại lần lữa chưa thấy mưa rơi. Gió xuyên qua ô cửa sổ rộng mở thổi quét vào trong phòng, trang sách trên bàn bị lật giở vang lên âm hưởng “sàn sạt”.
“Hôm nay trên công đường, thấy Nghiêm đại nhân phong thái vẫn như trước kia a.”
Tiếng trêu đùa thoải mái trong bầu không gian hoàn toàn yên tĩnh truyền vào tai y, Nghiêm Phượng Lâu nghe thấy liền quay đầu lại, thấy Cố Minh Cử đang đứng tựa bên ngưỡng cửa: “Ngươi tới làm gì?”
“Nghiêm đại nhân.” Hắn trong miệng cung kính gọi một tiếng “Nghiêm đại nhân”, người lại vẫn lười biếng dựa bên khung cửa như trước, nhấc lồng chim lên, đùa đùa chú chim nhỏ, hoàn toàn không thấy một chút nghiêm chỉnh, “Ngươi là Nam An huyện thừa thất phẩm, ta là tứ phẩm trung thư thị lang. Thấy ta, ngươi chí ít cũng nên đứng dậy hành lễ mới phải.”
Hắn nói rất nghiêm trang, tựa như thầy giáo trên học đường đang dạy đứa trẻ mới nhập học.
Tâm tình vốn đã khó chịu, nhìn thấy hắn lại càng thêm một tầng bực bội, Nghiêm Phượng Lâu quay đầu đi không muốn phí hơi thừa lời với hắn. Cố Minh Cử thấy vậy chỉ cúi đầu cười khẽ, thong thả bước tới trước bàn: “Chậc chậc, ta đã từng đi qua nhiều phủ huyện nha như vậy. Theo lý thường, Nam An huyện của ngươi không phải nơi nghèo khổ nhất, thế nhưng phủ huyện thừa của ngươi lại là nơi keo kiệt nhất mà ta từng thấy. Sách trên giá này nhiều đến không bỏ xuống được, vậy nhưng ngươi cũng không nên để xuống đất. Cho dù không có tiền mời thợ đến làm một cái giá sách mới, chí ít cũng nên tìm người đến tân trang lại giá cũ một chút mới phải.”
Nghiêm Phượng Lâu căm giận đáp trả hắn một câu: “Hàn xá đơn sơ, ủy khuất thị lang đại nhân ngài.”
Hắn lắc đầu như có như không, cách một chiếc bàn sách nho nhỏ cúi người xuống trước mặt Nghiêm Phượng Lâu quan sát: “Phượng khanh, đã qua nhiều năm như vậy rồi, tính tình của ngươi vẫn chẳng thay đổi.”
Trong lời nói có một loại ý vị không thể giải thích rõ, như cảm hoài hồi tưởng, lại như trào phúng. Nghiêm Phượng Lâu lạnh lùng nói: “Bản lĩnh nghe gió nói mưa của Cố thị lang không phải mọi người đều biết.”
Không biết nên khen hắn giỏi kiềm chế hay nên nói hắn thật giả tạo, sắc mặt Cố Minh Cử trước sau vẫn không thay đổi. Chỉ có tầm mắt bỗng nhiên hạ xuống, chuyển đến khay thức ăn đã nguội lạnh trên bàn: “Cho dù bị người ta khi dễ thì cũng không nên bỏ cơm a. Ta thấy, không bằng để Phiêu Tuyết cô nương cầm đi hâm nóng lại một chút đi.”
Tựa hồ đã sớm biết đằng sau lưng có người, hắn chầm chậm xoay người lại, trên mặt mang một nụ cười ôn hòa. Nghiêm Phượng Lâu không kiềm được dõi theo động tác của hắn, Phiêu Tuyết một thân hồng y không biết từ khi nào đã đứng ngoài ngưỡng cửa.
Cố Minh Cử nói: “Trăm nghe không bằng một thấy, Phiêu Tuyết cô nương so với lời đồn lại càng xinh đẹp động nhân.”
Phiêu Tuyết cũng cười, uyển chuyển đi đến trước bàn tiếp nhận khay đồ ăn: “Cố đại nhân so với lời đồn cũng càng anh tuấn.”
Không đợi Cố Minh Cử trả lời, nàng đã nhẹ nhàng xoay người bước chầm chậm ra khỏi phòng. Cố Minh Cử quay đầu lại, trong nụ cười lộ ra một tia hư giả: “Trên đường đi nhậm chức còn có thể cứu được một nữ tử thanh lâu không muốn làm kỹ nữ, Phượng khanh, vận đào hoa của ngươi thật đúng là ngoài dự đoán của ta.”
“Cái này cũng có thể khiến ngươi cảm thán sao?” Nghiêm Phượng Lâu nhịn không được cười giễu vẻ khoa trương của hắn, “Luận về phong lưu, ta làm sao có thể sánh được với ngươi?”
Trong lời đồn, Cố thị lang trên quan trường vô cùng thuận lợi, trên tình trường cũng thuận buồm xuôi gió khiến người ta phải đỏ mắt ghen tỵ. Đầu bài của Lê Viên, hoa khôi trong thanh lâu, đi đến nơi nào thì nơi ấy liền có hồng nhan tri kỷ: “Cố thị lang cho dù cái gì cũng không biết làm, chỉ cần dựa vào một gương mặt anh tuấn này thôi đã đủ để ở cạnh nữ nhân ăn dưng cả đời.”
Nói xong mới giật mình phát hiện lời nói của mình quá sức khác thường, sắc mặt Nghiêm Phượng Lâu căng thẳng, vội vàng xoay người đi không muốn để hắn nhìn thấy thần tình ảo não của chính mình. Cố Minh Cử đằng sau lưng đã nhịn không được mà bật cười: “Phượng khanh, ngươi a…”
Nghiêm Phượng Lâu vốn tưởng rằng hắn chỉ biết cười, ai ngờ, sau khi cười một trận lại nghe thấy tiếng hắn thở dài: “Người ta thường nói tam niên thanh tri huyện, thập vạn tuyết hoa ngân. Ngươi làm quan một chốn đã năm năm, tài sản tích góp được lại ngay cả một cái tiểu viện tử tế cũng không mua nổi.”
“Ngươi đỗ tiến sĩ năm Thiên Hữu thứ hai mươi mốt, đầu tiên được bổ nhiệm tới huyện Hứa Xương, sau lại chuyển về Tân Hoài. Vì đắc tội với thượng cấp, chưa đầy một năm lại bị điều tới Thái Châu. Trong lễ đại thọ của tri phủ Thái Châu, ngươi không đem theo lễ vật, sau năm đó liền bị phân về Ký Châu. Mới an ổn được ba tháng, thẩm một thung án tử mất trộm, làm liên lụy tới cháu trai của một người đồng liêu, vậy nên lại chuyển tới Nam An. Năm đó cùng nhau thi đỗ, ta thì thôi không nói tới, nhưng nói những kẻ có kết quả thi còn không bằng ngươi kia, hoặc được điều đến kinh thành hoặc quản hạt một phương, bằng không thì cũng là một tri phủ, chỉ có ngươi, từ chức huyện thừa dự bị đến huyện thừa, chỉ như vậy thôi đã là cả một bước tiến lớn, trên công đường vẫn bị dồn ép vào thế khó xử. Nghiêm Phượng Lâu, ta ngồi trong kinh thành ở nơi xa, luôn cảm thấy thương cảm cho ngươi.”
Hắn tỉ mỉ kể ra quá trình một đường làm quan của y, năm nào tháng nào ngày nào điều đến nơi nào, nguyên nhân bị thuyên chuyển là gì, so với Nghiêm Phượng Lâu tự mình ghi nhớ còn nhớ được rõ ràng hơn.
Nghiêm Phượng Lâu mím chặt môi lắng nghe. Cố Minh Cử lại buông một tiếng thở dài, chầm chậm đi đến phía sau lưng y: “Nghiêm Phượng Lâu, ngươi có biết làm quan thế nào không? Một cái Nam An huyện nho nhỏ như vậy, ta thử hỏi ngươi, ngươi biết có mấy nhà phú hộ? Những hộ này làm giàu như thế nào? Trong nhà có mấy người làm quan, làm quan gì? Nhà ai cần phải kết giao, nhà ai không thể dễ dàng đắc tội? Vị Trương tri phủ phía trên ngươi kia từ nhỏ có sở thích gì? Gia thế của đám đồng liêu như thế nào? Gánh hát đứng đầu thiên hạ hiện giờ là của nhà ai? Hoa khôi xinh đẹp nhất là người nào? Mua tranh chữ phải tìm đến tiệm nào, chơi đồ cổ thì nên đến cửa hiệu nhà ai?”
Hắn càng nói Nghiêm Phượng Lâu lại càng im lặng, hỏi xong liền một mạch, Cố Minh Cử đưa tay đặt lên vai y, khẩu khí bỗng nhiên trầm xuống: “Vậy nên ta mới không muốn để cho ngươi làm quan, thực sự rất sợ một ngày nào đó vừa tỉnh giấc, liền nghe được tin ngươi đã chết không minh bạch.”
Nghiêm Phượng Lâu trầm giọng nói: “Ngươi và ta đã không còn quan hệ, chuyện của ta có liên lụy thế nào cũng sẽ không liên lụy tới ngươi, ngươi sợ cái gì?”
Cố Minh Cử vạch vạch lên đầu vai y, cúi thấp người xuống nhìn vào đôi mắt đang tận lực tránh né của y: “Ta sợ chính là sợ ta và ngươi không còn quan hệ.”
Mây đen vẫn âm u bao trùm bên ngoài thư phòng, từng tia ánh sáng trong phòng dần dần tối lại. Nghiêm Phượng Lâu quay đầu đi, đứng dậy muốn tới thắp lên ngọn đèn trên bàn, người còn chưa đứng dậy đã lại bị Cố Minh Cử ấn mạnh xuống: “Phượng khanh…”
Hắn gọi y, trong ngữ khí có sự nôn nóng và áp lực không thể nói rõ.
Nghiêm Phượng Lâu bị ấn ngồi trên ghế chậm rãi ngẩng đầu lên, ánh mắt từng chút từng chút đối diện với đôi mắt sáng ngời như sao xa của hắn: “Ngươi vừa nhắc tới những người năm đó cùng thi đỗ với ta và ngươi, so với kẻ còn sống, ta thua kém. Nhưng nếu so với những kẻ đã chết, vận may của ta còn hơn nhiều lắm, không phải sao?”
Ánh quang mang trong mắt Cố Minh Cử bỗng nhiên tắt lịm: “Phượng khanh…”
Nghiêm Phượng Lâu không nhìn hắn nữa, đứng dậy “sạt ──” một tiếng vang nhỏ, đốt lên ngọn đèn trong phòng: “Cố Minh Cử, những gì ngươi nói ta đều biết. Có điều, làm quan phụ mẫu, con dân đã kính ngưỡng mà gọi một tiếng phụ mẫu, ta nói cho cùng vẫn nên có một chút dáng vẻ của người làm cha mẹ, không phải sao?”
Ta và ngươi không giống nhau, từ lúc còn chưa thi đỗ, mỗi người đều đã bước trên hai con đường hoàn toàn khác biệt.
Vì sao làm quan?
Ta nói, vì bách tính một phương.
Ngươi đáp, vì địa vị có thể nắm trong tay quyền thế thiên hạ.
“A, đã nhiều năm như vậy rồi, tính khí của ngươi vẫn không thay đổi, ngay cả ngốc nghếch cũng vẫn y như trước.” Nam nhân đứng thẳng người có một bóng lưng đĩnh bạt như trường thương, Cố Minh Cử nhìn bóng lưng của y mà cười, thẳng người dậy, đi vòng qua bàn trở lại vị trí mặt đối mặt với Nghiêm Phượng Lâu, “Vậy nên ta mới nói, con người ngươi chính là dạy thế nào cũng dạy không được. Cũng chẳng trách trên công đường lại bị người ta chèn ép thành như vậy.”
Đứng đối diện nhau cách một chiếc bàn sách, Cố Minh Cử nhìn thấy ánh sáng mỏng manh của ngọn nến con nhuộm lên gương mặt trắng ngần của Nghiêm Phượng Lâu một tầng sắc thái ấm áp mờ nhạt: “Lúc ta ở ngoài công đường có nghe thấy người ta nói. Khổ chủ của án tử này không muốn tái cáo nữa, tái cáo cũng sẽ không có kết quả gì tốt hơn. Ngươi phán Tôn gia có tội thì lại thế nào? Tờ báo án đã gửi đi, thượng cấp còn có thể bãi bỏ sao? Hơn nữa nếu như vậy, còn chẳng bằng cầm lấy ngân lượng của người ta mà an táng nữ nhi cho thật tốt, số tiền còn lại biết đâu có thể giúp lão Tam Hán sống qua ngày được tốt hơn.”
Nghiêm Phượng Lâu gật đầu: “Ta biết.”
Cố Minh Cử chớp chớp mắt, tỉ mỉ đánh giá y: “Ngươi biết?”
Nghiêm Phượng Lâu nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ nói: “Ngân lượng ta đã trả lại cho Tôn gia.”
Ngày đó y đã nói với tên tiểu tư của nhà họ Tôn như vậy: “Ông lớn nhà ngươi là một người hào phóng, nhưng bản huyện cũng nhân đây nói cho rõ ràng. Án tử này đến cùng là nhà ai thiếu nợ nhà ai, trong lòng mỗi người chúng ta đều tự mình hiểu rõ. Ông lớn nhà các ngươi nếu đã thừa ngân lượng để tặng cho bản huyện như thế, vậy hãy lo liệu cho con gái nhà người ta một cái tang sự tử tế, rồi chăm sóc khổ chủ thật tốt cho đến khi người ta lâm chung, có lẽ làm vậy cũng sẽ đỡ đau lòng.”
Thì ra ngươi đã biết trước kết quả từ sớm, lại vẫn còn… Cố Minh Cử lắc đầu liên hồi: “Nghiêm Phượng Lâu, ngươi đúng là kẻ…”
Nghiêm Phượng Lâu bình tĩnh nhìn hắn: “Điều ta có thể làm chỉ có bấy nhiêu thôi. Đây là con đường cuối cùng.”
Con đường cuối cùng… Kỳ thực, đường lớn có tới nghìn vạn cái, nhưng chỉ có một con đường sống này.
Lúc rời đi, Cố Minh Cử thuận tay treo lồng chim trong tay lên giá sách: “Phải rồi, cái này tặng cho ngươi.”
Con chim trong lồng kêu: “Quan vận hanh thông, quan vận hanh thông! (4)“
Thẳng thắn bước ra khỏi thư phòng, bất chợt hắn lại quay đầu về: “Phượng khanh, lúc xem ngươi thăng đường xử án, bên cạnh ta có người đã khen ngươi, nói ngươi là một vị quan tốt.”
Nghiêm đại nhân là một vị quan tốt, đáng tiếc, thế đời hiện tại không dung nạp được quan tốt. Vị đại thẩm rất thích hợp làm thuyết thư kia trước khi rời đi đã nói như vậy.
Nửa câu còn lại Cố Minh Cử không nói ra. Nhìn thấy trên mặt Nghiêm Phượng Lâu trong thoáng chốc hiện lên thần sắc kinh ngạc, Cố Minh Cử hiếm có một hôm dậy thật sớm bỗng nhiên cảm thấy thần thanh khí sảng.
__ Hết chương 3__
*Chú thích:
(1) Bát Ca: một loài chim quý
(2) thủy hỏa côn: Là loại côn mà nha dịch thời xưa sử dụng. Hình dáng như một cây côn ngắn. Một nửa sơn màu đỏ, một nửa sơn màu đen. Đỏ là màu của hỏa, đen là màu của thủy.
(3) minh kính cao huyền: dùng để so sánh với viên quan xử án công chính liêm minh, chấp pháp nghiêm chỉnh, phán án công bằng, làm việc công chính vô tư. Cũng dùng để so sánh với ánh mắt mẫn tuệ sắc bén, kiến thức cao thâm, có thể nhìn thấu rõ tất cả mọi việc.
Ai xem Bao Thanh Thiên chắc đều quen với cảnh xử án trên công đường rồi phải không?:D Sau lưng vị quan là tấm họa đồ sông nước, bên trên là tấm biển công chính liêm minh. Đây là hình ảnh minh họa nhé ^_^
(4) quan vận hanh thông: là một thành ngữ. Quan vận nghĩa là vận khí trong chốn quan trường, hanh thông nghĩa là thuận lợi. Ý chỉ con đường làm quan thuận lợi, từng bước thăng tiến.
(5) nguyên văn là “khứ nhĩ đích” (qt dịch là “đi chết đi”): là câu từ chối mang thiện ý. Mình search baike thì thấy có ba trường hợp sử dụng như thế này:
1. lời bày tỏ giữa tình nhân hoặc luyến nhân, một người nói ra ý nghĩ, người còn lại trả lời như đánh yêu. Ví dụ: nam tử nói: “Hôm nay động phòng hoa chúc, sang năm sinh cho ta một tiểu tử béo mập”, nữ tử ngượng ngùng nói “Đi chết đi”.
2. Một người nói xấu sau lưng một người khác, người nghe nói: “Đi chết đi, chỉ toàn nói linh tinh.”
3. Trong lúc hai người bạn nói giỡn, một người nói đùa thái quá, người còn lại tỏ vẻ không đồng ý. Ví dụ: “Chờ tôi trúng giải độc đắc, tôi sẽ mua cho anh một chiếc ô tô cao cấp.” Người kia trả lời: “Đi chết đi, anh mà trúng giải độc đắc thì mọi người đều tìm không ra cho coi.”
Sau khi Nghiêm huyện thừa tới, dịch quán bên này cuối cùng cũng an tĩnh lại. Không còn ầm ĩ đòi đổi cái này cái kia, cũng không còn ba ngày thì hết hai ngày ồn ào nháo loạn. Đám hạ nhân có người đứng ở bên cạnh dè dặt hỏi: “Đại nhân, ngài đây là…”
Cố Minh Cử ngẩng đầu lên từ trang sách, xa xăm nhìn về phía ngoài cánh cửa vắng vẻ, bên môi mang theo một tia cười mỉm như có như không: “Ai bảo hắn là tên Nghiêm Phượng Lâu có làm cách nào cũng không dạy bảo được kia chứ?”
Hai ngày sau, Nghiêm Phượng Lâu thăng đường xử án, chính là xử vụ án mạng kiện Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn kia. Cố thị lang như thiên kim đại tiểu thư dưỡng trong khuê phòng chẳng thấy bước ra khỏi đại môn nửa bước cũng hiếm có được một ngày dậy thật sớm: “Làm khó Trương tri phủ phải đưa tới đây một con Bát Ca (1) để ta giải sầu, dù sao cứ để nó trong dịch quán mãi cũng sẽ chán chết mất, mang nó ra ngoài tản bộ đi.”
Hắn mặc một bộ thường phục màu xanh nhạt, nhàn nhã thong dong xách theo lồng chim, vừa đi vừa không quên chỉ chỉ trỏ trỏ hai bên đường: “Nhà bán bút nghiên này thì ra vẫn còn, à, nghiên mực của nhà này làm là tốt nhất Thanh Châu đấy. Di? Trước kia ở cách vách có một quán cơm nhỏ, sao bây giờ không thấy nữa rồi? Rượu Nữ Nhi Hồng của bà chủ nhà này ủ là tuyệt nhất thành Nam An nha!”
Bên cạnh có người nhịn không được bèn hỏi dò: “Đại nhân sao lại quen thuộc với Nam An như vậy?”
Hắn lúc này mới như bừng tỉnh từ giấc mộng, chậm rãi thu tay về, ngẩn ngơ đứng trên con phố dài, nhất thời vô hạn cảm khái: “Năm đó ta chính là từ Nam An tiến vào kinh thành a…”
Trải qua năm tháng cách biệt, vẫn thường hay nói cảnh còn người mất, nhưng nào có ai ngờ, cố nhân vẫn như xưa, Nam An huyện thành trong ký ức mặc dù không được phồn hoa nhưng cũng náo nhiệt đáng yêu vô cùng lại đã không còn nữa. Thế đời sa sút, người đi bên đường lác đác ít ỏi, trước cửa các quán hàng đều vắng tanh vắng ngắt, mặc cho gió thu thét gào cuốn theo lá vàng từng trận cuộn bay, suốt dọc đường đi chưa từng nghe được một tiếng cười đùa thoải mái.
Có người nam nhân tráng kiện từ đằng xa chạy tới, vừa chạy vừa chửi mắng: “Thằng nhóc con kia, ngươi không muốn sống nữa phải không! Dám ăn trộm đồ trong cửa hàng của ông ngươi, xem ông có đánh chết ngươi không!”
Cố Minh Cử bỗng nhiên cảm thấy thắt lưng bị đụng mạnh, nghe thấy dưới chân có tiếng người đau đớn kêu lên “ôi chao”, cúi đầu nhìn liền thấy một hài tử tuổi chỉ tầm năm sáu đang té ngã lăn quay trước mặt mình, gương mặt nhỏ nhắn lem luốc, quần áo cũng dơ bẩn đáng thương, chỉ có chiếc màn thầu nắm chặt trong tay là màu trắng.
“Ôi chao ơi, mi, mi, mi… mi là thằng quỷ con ở đâu ra, muốn chết phải không? Đại nhân nhà ta là để cho mi đụng vào hay sao? Có tịch biên diệt tộc cũng không đủ để mi bồi thường!”
Tên thị tòng khiếp hãi hung hăng xắn tay áo lên, nhấc bổng thằng nhỏ từ trên mặt đất dậy như đang xách một con gà con. Cố Minh Cử thấy thằng nhỏ kia có một đôi mắt hắc bạch phân minh. Nó không khóc cũng không giãy dụa, chỉ lạnh lùng liếc nhìn Cố Minh Cử, rồi lại quay đầu nhìn nam nhân tráng kiện đã đuổi tới trước mặt kia. Rõ ràng tuổi của nó chỉ bằng một đứa nhỏ nên gối đầu lên chân mẹ làm nũng, trên gương mặt lại tràn đầy vẻ thản nhiên của một nhân tài khi đương đầu với cái chết nên có.
Thiên hạ này… thế đời đã trở thành như vậy, không biết nếu Nghiêm Phượng Lâu chứng kiến một màn ấy, trong lòng sẽ có cảm tưởng gì đây.
“Bỏ đi, chúng ta đi thôi.” Điềm nhiên khoát khoát tay, Cố Minh Cử chọc đùa chú chim Bát Ca trong lồng, cất bước đi vòng qua người đứa bé nọ.
Đám thị tòng vẫn còn hùng hổ mắng mỏ không ngớt, hung hăng kéo vặn khuôn mặt nhỏ nhắn của đứa bé kia: “Xem như tên tiểu tử nhà ngươi mạng lớn! Đại nhân nhà ta là khách từ phương xa đến, mới không muốn kiếm chuyện trong địa giới Nam An huyện này. Đây mà là kinh thành xem… Hừ!”
Phía sau lại là một hồi tiếng bước chân chạy gấp gáp, sau đó là tiếng quát mắng của nam nhân kia: “Chạy! Ngươi còn dám chạy! Ta đánh gãy chân ngươi!”
Lồng chim trong tay được chế tác vô cùng tinh xảo, chạm khắc hoa văn, vừa nhìn liền biết được làm từ tay một vị danh gia nổi tiếng nào đó, chưa kể xúc cảm ôn nhuận trơn mịn mà nó mang lại, có khi là cổ vật từ mấy triều đại trước chưa biết chừng.
Một cái lồng nuôi thú này ước chừng có thể mua được một tòa tửu lâu làm ăn xem như phát đạt ở Nam An huyện. Cố Minh Cử xuyên qua lồng chim nhìn sang bên cạnh, người đi đường vội vàng như thoi đưa, đều vì kế sinh nhai của chính mình mà bận rộn, ai cũng không hề dừng chân liếc nhìn đứa bé nọ, càng không người nào dũng cảm ra mặt, mua cho nó cái bánh màn thầu kia.
Lúc đi đến trước cửa huyện nha, nhân tài dần dần nhiều lên, nhưng so với dự đoán thì vẫn ít hơn rất nhiều. Cố Minh Cử tìm một góc yên lặng đứng xem, thời điểm thăng đường đã đến, hai hàng nha dịch đứng chỉnh tề ngay ngắn trên công đường, thân mặc quan phục, tay cầm thủy hỏa côn (2), cũng rất oai phong hiển hách. Nghiêm Phượng Lâu ngồi trên đường thượng, sau lưng là một bức hải đồ Trường Giang Hoàng Hà gợn sóng, trên đầu là tấm biển đề “minh kính cao huyền” (3).
Viên huyện thừa trẻ tuổi thần thái nghiêm túc, dáng ngồi như núi, giữa hai hàng lông mày là một cỗ chính khí lẫm liệt.
Một vị đại thẩm xách giỏ thức ăn đứng bên cạnh Cố Minh Cử nói: “Nếu không phải để được nhìn thấy Nghiêm đại nhân, ta cũng chẳng đến đây xem náo nhiệt đâu!”
Cố Minh Cử nghe vậy cảm thấy buồn cười: “Vị phu nhân này không phải tới để nghe thẩm án sao?”
“Thẩm án? Cái này có gì hay mà nghe?” Bà như nghe được một câu chuyện cười, khom lưng cười khúc khích một trận, “Tứ thiếu gia nhà họ Tôn bức tử Phượng Nhi của nhà lão Tam Hán trên phố Tây, có ai là không biết chuyện này a! Vị công tử này, ngươi từ nơi khác đến phải không? Nhìn mặt rất lạ nha!”
Tên thị tòng lắm miệng định đáp lời liền bị Cố Minh Cử phất tay chặn lại, hắn quay mặt sang chắp tay nói: “Vâng, vừa mới tới Nam An. Học trò là đến thư viện Nam An để cầu học.”
“Ôi chao, thì ra là một thư sinh!” Bà cười càng nhiệt tình, xách giỏ thức ăn tiếp tục cùng hắn trò chuyện: “Thư sinh là tốt a, tương lai thi đậu là có thể ra làm quan rồi! Thời thế bây giờ nha, chỉ làm quan mới có đường sống, ngươi nhìn những người đang đi trên phố kia xem, những kẻ não lớn cổ thô không phải làm quan thì cũng là gia quyến của quan, nếu không thì cũng là nô tài trong phủ đại nhân kia. Còn như chúng ta mấy con tiểu miêu tiểu cẩu này, bất quá chỉ là sống cho qua ngày đoạn tháng. Thôi thì cố gắng gom góp mà sống, lẽ nào lại có thể tự mình cắt cổ tự vẫn hay sao?”
Cố Minh Cử càng thêm hứng thú hỏi bà: “Đại thẩm nói như vậy, không sợ bị kẻ xấu nghe thấy được sẽ đi tố cáo thẩm tâm hoài bất quý, mưu đồ tạo phản sao?”
Bà lại chẳng để tâm, giọng nói vẫn vang dội như chiêng đồng chẳng hề thay đổi: “Nói cũng đã nói rồi, hoàng thượng ở tận kinh thành cơ, không nghe được đâu!”
Trong lúc nói chuyện, án tử của Nghiêm Phượng Lâu đã thẩm vấn được quá nửa. Đại thẩm nhiệt tình kể liên miên cho Cố Minh Cử nghe, người bị hại chết kia là khuê nữ Phượng Nhi của nhà lão Tam Hán. Lão Tam Hán là một người góa vợ, vợ lão mất sớm, chỉ để lại một đứa con gái là Phượng Nhi, càng lớn càng xinh đẹp yêu kiều. Thế nhưng mỹ mạo sinh trên người con nhà phú quý thì là phúc khí, sinh ở người con nhà bần hàn thì chỉ là đại họa. Lúc cô nương đi trên phố, một phút không lưu thần liền bị vị Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn nhìn thấy, từ đấy rước lấy mầm họa.
Nhà họ Tôn là thế gia vọng tộc của bản thành, ỷ vào việc có một người họ hàng xa ở kinh thành, đã quen với việc ngạo nghễ tung hoành trong huyện. Vị tứ thiếu gia kia lại càng là một tên văn dốt võ nát, vợ bé rước vào cửa đã có tới chín vị, lại càng không cần kể tới những cô nương bị hắn làm nhục rồi vứt bỏ ở bên ngoài. Đêm ấy gặp được Phượng Nhi, liền có người tới nhà lão Tam Hán đòi người. Phượng Nhi cô nương kia hiển nhiên là liều chết không theo, lão Tam Hán cũng là một người tính tình cứng rắn, liền nhấc chổi đuổi hắn đi ngay lập tức.
Tôn gia là gia đình mà ngay cả tri phủ của bản châu cũng phải nhường nhịn ba phần, làm sao lại quan tâm đến lời cự tuyệt của một lão Hán bện giỏ trúc? Nửa đêm khuya khoắt liền xông vào phủ kéo bắt cô nương nhà người ta đi. Thế là từ một cô nương xinh đẹp như hoa tươi, ngày hôm sau đưa về nhà lại chỉ còn là một khối thi thể băng lãnh. Lão Tam Hán tức giận vô cùng, oán khí tích tụ đã nhiều năm, liền đi đánh trống kêu oan, đệ đơn kiện lên huyện nha.
“Ài, người ta vẫn thường hay nói đấu tranh đến hơi thở cuối cùng, kỳ thực nha, lúc phải cúi đầu, cho dù là nghiến răng nuốt máu cũng không thể không cúi đầu a. Vị công tử này, ngươi nói có phải hay không?” Bà nói không ngừng không nghỉ, lời kể liên miên như dẫn thêm hoa, đem một cái thảm án kể đến thoải mái trầm bổng, hệt như được tận mắt chứng kiến.
Cố Minh Cử mỉm cười xu nịnh: “Nếu tương lai ta có thể làm quan, nhất định phải mời thẩm đến phủ làm thuyết thư.”
Nữ nhân thẳng thắn cười ha hả, túm cánh tay Cố Minh Cử không muốn buông ra: “Thư sinh các người nha, chính là rất biết cách ăn nói. Chẳng trách những kẻ làm quan đều biết nói dối hơn người thường đấy!”
Cố Minh Cử thần sắc như thường, nhưng sắc mặt của đám thị tòng bên cạnh đã có chút khó coi.
Ôn Nhã Thần từng nói, làm người bất hạnh nhất chính là sinh vào thời cuối thịnh thế đầu loạn thế. Triều đại khai quốc đã có hơn hai trăm năm, trước kia cũng từng có thời sông núi rừng xanh bốn phương thái bình, tiếc là hoa đẹp không tươi mãi, tiệc ngon cuối cùng cũng phải tàn, gia sản có nhiều đến đâu cũng không chịu nổi sự bòn rút của đám con cháu bất tài suốt ngày hồ thiên hồ địa. Gia nghiệp truyền đến đời hiện tại, kỳ thực cũng chỉ còn là vẻ bề ngoài nhìn đẹp đẽ mà thôi. Đương kim thánh thượng trước khi tới năm mươi tuổi xem như còn cần mẫn, đến hiện giờ tuổi tác đã cao, tai lãng mắt mờ lại quanh năm ốm đau bệnh tật, đối với sự vụ triều chính thực sự là lực bất tòng tâm, huống chi, ngay cả phần “tâm” kia cũng không biết còn có bao nhiêu chắc chắn.
Giang sơn không thể một ngày không có người chủ tài năng đức hạnh, quân chủ một khi đã hoa mắt ù tai, kẻ tiểu nhân thừa nước đục thả câu cũng là điều đương nhiên. Một khi kẻ tiểu nhân đã lên nắm quyền, những chuyện như kết bè kéo cánh, tranh quyền đoạt lợi chính là xu hướng phát triển tất yếu.
Người làm quan là phụ mẫu của vạn dân, nếu phụ mẫu chỉ một lòng lo tư lợi cho bản thân, vậy còn có ai chăm lo đến những đứa trẻ gào khóc vì đói đây? Phúc của quốc gia suy nhược, ngay cả ông trời cũng nhìn không được. Mấy năm liên tiếp hai miền Nam Bắc ngập lụt, bão lũ hoành hành, lương thực thu hoạch cả năm cũng không đủ để cầm cự qua được nửa năm.
Tình cảnh mất mùa liên miên, hoàng gia lại không biết thương cảm. Vừa xây dựng đài cao, lại vừa kiến tạo Quỳnh lâu, một con thuyền rồng theo dòng sông Hàng xuôi về phương Nam không biết đã tốn bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân, một lần tế tổ hiển hách lẫy lừng lại không biết đã lấy đi bao nhiêu sức lao động của khổ dịch dân phu trai tráng. Dưới tình cảnh nghèo nàn khắc nghiệt như vậy, mỗi người đều vì mình mà âu lo tính toán, còn có ai lo được tới sống chết của người ngoài?
Vẫn thường hay nói khi quốc gia thương vong, yêu nghiệt sẽ hiện thân ra hết. Trước mắt dù chưa thấy kiếp nạn lớn, nhưng những chuyện đầy chua xót như nhà hào phú quan gia khi dễ dân chúng đã nhìn tới quen mắt. Thời thịnh thế chỉ e thực sự đã đi đến hồi cuối, mơ hồ đã thấy điềm báo của thời buổi loạn ly.
Thẩm vấn trên công đường đã đi đến hồi kết, những người tụ tập bên ngoài công đường nghe phán xử cũng đã tốp năm tốp ba tản đi không ít. Đại thẩm nọ vẫn nói đến hào hứng phấn chấn, nhìn xung quanh nói: “Ai cũng đều hiểu rõ chuyện là như thế nào, đều biết phán xét cuối cùng sẽ cho kết quả ra sao. Mọi người đều vội vã chạy đi tìm kế sinh nhai cho chính mình cả rồi, còn ai bận tâm đến nơi này nữa?”
Cố Minh Cử nâng mắt lên kiếm tìm hình bóng Nghiêm Phượng Lâu trên đường thượng, cách quá xa, từ đầu đến cuối đều không nhìn thấy rõ biểu tình của y. Chỉ nghe được giọng y nói, so với trước kia lúc đến gặp mình thì trầm thấp hơn ít nhiều.
Nhân chứng cần truyền đều đã từng người từng người bước ra công đường. Người phu canh* ban đầu nói tận mắt chứng kiến Phượng Nhi cô nương bị bắt đi, bây giờ lại đã sửa lời khai, nói ngày đó gã căn bản không đi qua ngõ nhà lão Tam Hán, cũng không thấy gia đinh và nhuyễn kiệu gì của Tôn gia. Người trùng hợp đi qua đầu ngõ hôm ấy nói, đêm đó hắn uống say bí tỉ, nghe thấy tiếng la hét nhốn nháo hóa ra là từ sòng bạc truyền tới. Còn có một cô nương là bạn cùng phố của Phượng Nhi, từ đầu đến cuối nàng chỉ khóc, không chịu nói một câu nào…
(*phu canh: người đi tuần đêm điểm canh)
Vị tứ thiếu gia của nhà họ Tôn kia ngay cả mặt mũi cũng chưa từng xuất hiện, chỉ phái tới một người quản gia có bộ dáng còn xấu xí hơn cả Trương tri phủ: “Tứ thiếu gia nhà chúng tôi bị bệnh, đang ở trong phủ tĩnh dưỡng, thực sự không thể đến được. Đại nhân ngài xem, đây là đơn thuốc của Vương đại phu ở Hồi Xuân đường kê cho.”
Ngoại trừ sự thực mà lão Tam Hán một mực khẳng định, không còn ai nhìn thấy Phượng Nhi cô nương bị cướp đi, càng không có ai nhìn thấy Phượng Nhi cô nương chết như thế nào. Tôn gia nói, có lẽ do đêm hôm đó trời mưa đường trơn, Phượng Nhi cô nương bị ngã xuống sông. Bất quá Tôn tứ gia thiện tâm, không nhìn được cảnh người khác chịu khổ, nguyện ý tặng cho lão Tam Hán năm mươi lượng bạc ròng, xem như là cho Phượng Nhi cô nương một bộ quần áo mới.
Viên huyện thừa trẻ tuổi của Nam An ngồi dưới tấm biển “minh kính cao huyền” (3), từng chữ nói ra vô cùng cực khổ: “Án này… còn có điểm đáng ngờ, chờ bản huyện ngày khác sẽ tái phán.” Hàm chứa trong lời nói là sự mệt mỏi và thất bại tràn đầy, làm cách nào cũng không thể che đi được.
Lúc này đã là giữa trưa, vầng thái dương chói chang bên ngoài chiếu rọi cả đất trời đến lóa mắt. Ánh mặt trời lại không thể chiếu được vào bên trong công đường, bóng đen thâm trầm của tấm biển treo trên đầu bao trùm thật nặng lên người Nghiêm Phượng Lâu, Cố Minh Cử nheo mắt quan sát thật tỉ mỉ, cũng chỉ mơ hồ thấy một bóng ảnh mờ nhạt đang suy sụp tinh thần.
“Đại nhân, quan vận hanh thông! Quan vận hanh thông! (4)” Cuối cùng, ngay cả vị đại thẩm “đến để xem Nghiêm đại nhân” cũng đã rời đi, bên ngoài huyện nha ảm đạm vắng vẻ, chỉ còn lại một mình Cố Minh Cử. Con chim Bát Ca mà Trương tri phủ đem tới tặng kia bỗng nhiên kêu lên vui vẻ, ở trong lồng không ngừng nhảy nhót.
Cố Minh Cử dùng ngón tay gõ gõ lên lồng sắt, chọt chọt đôi cánh đen thui của nó: “Đồ tiểu yêu nhà ngươi! (5)“
***
Mấy ngày trước có người mang thiếp tới bái phỏng, chính là ông lớn thanh danh lan truyền của Tôn gia. Cái bụng của gã tròn vo, cả người béo tròn mập mạp, cười rộ lên trông như tượng Phật Di Lặc bên ngoài cửa miếu: “Là tại hạ quản giáo không nghiêm, gây thêm phiền toái cho đại nhân. Vì việc này, ta vội vã tới để thỉnh tội với đại nhân.”
Gã khách sáo ngồi xuống chính là khiến người ta thông suốt không thể cự tuyệt, nói liên miên một hồi về những gian nan của việc làm quan, dạt dào lưu loát từ mặt đất nói đến chân trời, lúc nói Đông khi lại nói Tây, khiến người ta không thể mò ra đầu mối, lại tuyệt nhiên không hề đề cập tới chuyện của tên Tứ đệ hỗn trướng nhà mình, như vô tình rồi lại như hữu ý, trong câu chuyện bị mây mù che phủ chợt lộ ra một câu: “Năm đó lúc Nghiêm đại nhân còn ở kinh thành, không biết có từng gặp qua người cậu kia của nhà ta không? Ha ha, nói là cậu vậy thôi, kỳ thực lão nhân gia hắn với nhà chúng ta cũng chỉ là họ hàng xa, bây giờ cũng ít khi qua lại rồi.”
Nghiêm Phượng Lâu ậm ừ cho có lệ vài câu. Gã cũng không giận, ngồi một lúc liền vui vẻ đứng dậy cáo từ.
Đi chưa được bao lâu, liền có quản gia của nhà họ Tôn đưa tới một chiếc hộp gỗ: “Ông lớn nhà tiểu nhân nói, biết rõ Nghiêm đại nhân ngài là quan thanh liêm, bởi vậy không dám mạo phạm. Bất quá nào có đạo lý tới nhà bái phỏng lại không mang theo vật gì? Đại nhân ngài nếu thực sự không chịu nhận, vậy đem thưởng cho các vị bên dưới của quan gia cũng xem như là cảm tạ các vị ấy vẫn luôn cực khổ.”
Nghiêm Phượng Lâu sai người mở hộp ra xem, bên trong xếp chỉnh tề một chồng ngân phiếu, nói nhiều không nhiều, nói ít không ít, theo lệ thường trên chốn quan trường, xem như đủ để đền bù một mạng người.
“Nghiêm đại nhân ngài đừng nên trách móc, ông lớn nhà tiểu nhân là một người rất thẳng thắn, không giỏi những thứ hư đầu hư não.” Tên tiểu tư kia trời sinh một cái miệng lưỡi trơn tru, nụ cười ngọt ngào giống y chang vị Tôn đại gia nọ, “Ông lớn nhà tiểu nhân nói, mặc dù chúng ta sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, nhưng quy củ ở bên ngoài, nhất là trên chốn quan trường ở kinh thành, chúng ta vẫn là biết.”
Tra xét ra án tử của Tôn gia không khó, bọn chúng hành sự quá sức lớn mật, ngay cả che giấu đầu mối cũng lười không muốn phí công, quả thực mà nói chính là cậy mạnh cướp người ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Khó có được ở đây nở ra mấy khuôn mặt tươi cười, cùng một câu nói nhẹ nhàng “Nhà ta có người cậu ở kinh thành”.
Ngay cả vị Trương tri phủ từ trước tới giờ chưa từng ghi nhớ nổi cái tên của mình kia cũng đặc biệt phái người tới cảnh cáo: “Nghiêm đại nhân, ngươi làm quan cũng không phải mới ngày một ngày hai, có một số việc chính là phải như vậy, đừng hỏi tại sao, cũng đừng lúc nào cũng muốn những thứ không thể có, ngươi trước hết tự mình ngẫm lại đi. Ngươi a, nếu thực sự nhịn không được muốn bắt người ta, vậy ngươi cũng phải nghĩ cho ta. Trần đại nhân hiện giờ ở Hình bộ thế lực lớn vô cùng, đến lúc đó nếu bên trên muốn truy cứu, tội của ngươi bản phủ cũng phải gánh cho ngươi một phần…”
Lúc tra án bị áp lực đè nặng vô cùng, không cách nào nặn ra được một nụ cười, đến khi thẩm vấn lại thành một câu chuyện cười. Nhân chứng ban đầu tìm được không chỉ có những người này, nhưng vừa nghe nói phải lên công đường, liền có người thối lui từng bước.
Miễn cưỡng thuyết phục được vài người, tới khi lên công đường lại liên tiếp thay đổi lời khai, nói nhìn thấy rồi lại bảo không thấy, rõ ràng nhìn thấy rồi lại nói nhìn sai. Cũng không phải mất đi nhân tính, chỉ là bị tình thế bức bách, mỗi người chung quy vẫn phải vì mình và vì người thân mà cân nhắc thật kỹ trước khi mở miệng.
Thẩm vấn đến cuối, Nghiêm Phượng Lâu gần như không dám nhìn tới gương mặt đau khổ của lão phụ dưới công đường kia, rất sợ chỉ cần nhìn thấy nước mắt chan hòa của lão, chính bản thân mình cũng không thể chống đỡ nổi nữa.
***
Lúc Cố Minh Cử đến nhà, Nghiêm Phượng Lâu đang ngồi ngẩn người trong thư phòng, đầu vẫn ngập đầy những màn trước sau của buổi thăng đường. Ánh mặt trời sau ngọ mới đó đã bị từng đám mây đen che lấp, bầu trời âm u, nổi lên từng trận gió lạnh, lại lần lữa chưa thấy mưa rơi. Gió xuyên qua ô cửa sổ rộng mở thổi quét vào trong phòng, trang sách trên bàn bị lật giở vang lên âm hưởng “sàn sạt”.
“Hôm nay trên công đường, thấy Nghiêm đại nhân phong thái vẫn như trước kia a.”
Tiếng trêu đùa thoải mái trong bầu không gian hoàn toàn yên tĩnh truyền vào tai y, Nghiêm Phượng Lâu nghe thấy liền quay đầu lại, thấy Cố Minh Cử đang đứng tựa bên ngưỡng cửa: “Ngươi tới làm gì?”
“Nghiêm đại nhân.” Hắn trong miệng cung kính gọi một tiếng “Nghiêm đại nhân”, người lại vẫn lười biếng dựa bên khung cửa như trước, nhấc lồng chim lên, đùa đùa chú chim nhỏ, hoàn toàn không thấy một chút nghiêm chỉnh, “Ngươi là Nam An huyện thừa thất phẩm, ta là tứ phẩm trung thư thị lang. Thấy ta, ngươi chí ít cũng nên đứng dậy hành lễ mới phải.”
Hắn nói rất nghiêm trang, tựa như thầy giáo trên học đường đang dạy đứa trẻ mới nhập học.
Tâm tình vốn đã khó chịu, nhìn thấy hắn lại càng thêm một tầng bực bội, Nghiêm Phượng Lâu quay đầu đi không muốn phí hơi thừa lời với hắn. Cố Minh Cử thấy vậy chỉ cúi đầu cười khẽ, thong thả bước tới trước bàn: “Chậc chậc, ta đã từng đi qua nhiều phủ huyện nha như vậy. Theo lý thường, Nam An huyện của ngươi không phải nơi nghèo khổ nhất, thế nhưng phủ huyện thừa của ngươi lại là nơi keo kiệt nhất mà ta từng thấy. Sách trên giá này nhiều đến không bỏ xuống được, vậy nhưng ngươi cũng không nên để xuống đất. Cho dù không có tiền mời thợ đến làm một cái giá sách mới, chí ít cũng nên tìm người đến tân trang lại giá cũ một chút mới phải.”
Nghiêm Phượng Lâu căm giận đáp trả hắn một câu: “Hàn xá đơn sơ, ủy khuất thị lang đại nhân ngài.”
Hắn lắc đầu như có như không, cách một chiếc bàn sách nho nhỏ cúi người xuống trước mặt Nghiêm Phượng Lâu quan sát: “Phượng khanh, đã qua nhiều năm như vậy rồi, tính tình của ngươi vẫn chẳng thay đổi.”
Trong lời nói có một loại ý vị không thể giải thích rõ, như cảm hoài hồi tưởng, lại như trào phúng. Nghiêm Phượng Lâu lạnh lùng nói: “Bản lĩnh nghe gió nói mưa của Cố thị lang không phải mọi người đều biết.”
Không biết nên khen hắn giỏi kiềm chế hay nên nói hắn thật giả tạo, sắc mặt Cố Minh Cử trước sau vẫn không thay đổi. Chỉ có tầm mắt bỗng nhiên hạ xuống, chuyển đến khay thức ăn đã nguội lạnh trên bàn: “Cho dù bị người ta khi dễ thì cũng không nên bỏ cơm a. Ta thấy, không bằng để Phiêu Tuyết cô nương cầm đi hâm nóng lại một chút đi.”
Tựa hồ đã sớm biết đằng sau lưng có người, hắn chầm chậm xoay người lại, trên mặt mang một nụ cười ôn hòa. Nghiêm Phượng Lâu không kiềm được dõi theo động tác của hắn, Phiêu Tuyết một thân hồng y không biết từ khi nào đã đứng ngoài ngưỡng cửa.
Cố Minh Cử nói: “Trăm nghe không bằng một thấy, Phiêu Tuyết cô nương so với lời đồn lại càng xinh đẹp động nhân.”
Phiêu Tuyết cũng cười, uyển chuyển đi đến trước bàn tiếp nhận khay đồ ăn: “Cố đại nhân so với lời đồn cũng càng anh tuấn.”
Không đợi Cố Minh Cử trả lời, nàng đã nhẹ nhàng xoay người bước chầm chậm ra khỏi phòng. Cố Minh Cử quay đầu lại, trong nụ cười lộ ra một tia hư giả: “Trên đường đi nhậm chức còn có thể cứu được một nữ tử thanh lâu không muốn làm kỹ nữ, Phượng khanh, vận đào hoa của ngươi thật đúng là ngoài dự đoán của ta.”
“Cái này cũng có thể khiến ngươi cảm thán sao?” Nghiêm Phượng Lâu nhịn không được cười giễu vẻ khoa trương của hắn, “Luận về phong lưu, ta làm sao có thể sánh được với ngươi?”
Trong lời đồn, Cố thị lang trên quan trường vô cùng thuận lợi, trên tình trường cũng thuận buồm xuôi gió khiến người ta phải đỏ mắt ghen tỵ. Đầu bài của Lê Viên, hoa khôi trong thanh lâu, đi đến nơi nào thì nơi ấy liền có hồng nhan tri kỷ: “Cố thị lang cho dù cái gì cũng không biết làm, chỉ cần dựa vào một gương mặt anh tuấn này thôi đã đủ để ở cạnh nữ nhân ăn dưng cả đời.”
Nói xong mới giật mình phát hiện lời nói của mình quá sức khác thường, sắc mặt Nghiêm Phượng Lâu căng thẳng, vội vàng xoay người đi không muốn để hắn nhìn thấy thần tình ảo não của chính mình. Cố Minh Cử đằng sau lưng đã nhịn không được mà bật cười: “Phượng khanh, ngươi a…”
Nghiêm Phượng Lâu vốn tưởng rằng hắn chỉ biết cười, ai ngờ, sau khi cười một trận lại nghe thấy tiếng hắn thở dài: “Người ta thường nói tam niên thanh tri huyện, thập vạn tuyết hoa ngân. Ngươi làm quan một chốn đã năm năm, tài sản tích góp được lại ngay cả một cái tiểu viện tử tế cũng không mua nổi.”
“Ngươi đỗ tiến sĩ năm Thiên Hữu thứ hai mươi mốt, đầu tiên được bổ nhiệm tới huyện Hứa Xương, sau lại chuyển về Tân Hoài. Vì đắc tội với thượng cấp, chưa đầy một năm lại bị điều tới Thái Châu. Trong lễ đại thọ của tri phủ Thái Châu, ngươi không đem theo lễ vật, sau năm đó liền bị phân về Ký Châu. Mới an ổn được ba tháng, thẩm một thung án tử mất trộm, làm liên lụy tới cháu trai của một người đồng liêu, vậy nên lại chuyển tới Nam An. Năm đó cùng nhau thi đỗ, ta thì thôi không nói tới, nhưng nói những kẻ có kết quả thi còn không bằng ngươi kia, hoặc được điều đến kinh thành hoặc quản hạt một phương, bằng không thì cũng là một tri phủ, chỉ có ngươi, từ chức huyện thừa dự bị đến huyện thừa, chỉ như vậy thôi đã là cả một bước tiến lớn, trên công đường vẫn bị dồn ép vào thế khó xử. Nghiêm Phượng Lâu, ta ngồi trong kinh thành ở nơi xa, luôn cảm thấy thương cảm cho ngươi.”
Hắn tỉ mỉ kể ra quá trình một đường làm quan của y, năm nào tháng nào ngày nào điều đến nơi nào, nguyên nhân bị thuyên chuyển là gì, so với Nghiêm Phượng Lâu tự mình ghi nhớ còn nhớ được rõ ràng hơn.
Nghiêm Phượng Lâu mím chặt môi lắng nghe. Cố Minh Cử lại buông một tiếng thở dài, chầm chậm đi đến phía sau lưng y: “Nghiêm Phượng Lâu, ngươi có biết làm quan thế nào không? Một cái Nam An huyện nho nhỏ như vậy, ta thử hỏi ngươi, ngươi biết có mấy nhà phú hộ? Những hộ này làm giàu như thế nào? Trong nhà có mấy người làm quan, làm quan gì? Nhà ai cần phải kết giao, nhà ai không thể dễ dàng đắc tội? Vị Trương tri phủ phía trên ngươi kia từ nhỏ có sở thích gì? Gia thế của đám đồng liêu như thế nào? Gánh hát đứng đầu thiên hạ hiện giờ là của nhà ai? Hoa khôi xinh đẹp nhất là người nào? Mua tranh chữ phải tìm đến tiệm nào, chơi đồ cổ thì nên đến cửa hiệu nhà ai?”
Hắn càng nói Nghiêm Phượng Lâu lại càng im lặng, hỏi xong liền một mạch, Cố Minh Cử đưa tay đặt lên vai y, khẩu khí bỗng nhiên trầm xuống: “Vậy nên ta mới không muốn để cho ngươi làm quan, thực sự rất sợ một ngày nào đó vừa tỉnh giấc, liền nghe được tin ngươi đã chết không minh bạch.”
Nghiêm Phượng Lâu trầm giọng nói: “Ngươi và ta đã không còn quan hệ, chuyện của ta có liên lụy thế nào cũng sẽ không liên lụy tới ngươi, ngươi sợ cái gì?”
Cố Minh Cử vạch vạch lên đầu vai y, cúi thấp người xuống nhìn vào đôi mắt đang tận lực tránh né của y: “Ta sợ chính là sợ ta và ngươi không còn quan hệ.”
Mây đen vẫn âm u bao trùm bên ngoài thư phòng, từng tia ánh sáng trong phòng dần dần tối lại. Nghiêm Phượng Lâu quay đầu đi, đứng dậy muốn tới thắp lên ngọn đèn trên bàn, người còn chưa đứng dậy đã lại bị Cố Minh Cử ấn mạnh xuống: “Phượng khanh…”
Hắn gọi y, trong ngữ khí có sự nôn nóng và áp lực không thể nói rõ.
Nghiêm Phượng Lâu bị ấn ngồi trên ghế chậm rãi ngẩng đầu lên, ánh mắt từng chút từng chút đối diện với đôi mắt sáng ngời như sao xa của hắn: “Ngươi vừa nhắc tới những người năm đó cùng thi đỗ với ta và ngươi, so với kẻ còn sống, ta thua kém. Nhưng nếu so với những kẻ đã chết, vận may của ta còn hơn nhiều lắm, không phải sao?”
Ánh quang mang trong mắt Cố Minh Cử bỗng nhiên tắt lịm: “Phượng khanh…”
Nghiêm Phượng Lâu không nhìn hắn nữa, đứng dậy “sạt ──” một tiếng vang nhỏ, đốt lên ngọn đèn trong phòng: “Cố Minh Cử, những gì ngươi nói ta đều biết. Có điều, làm quan phụ mẫu, con dân đã kính ngưỡng mà gọi một tiếng phụ mẫu, ta nói cho cùng vẫn nên có một chút dáng vẻ của người làm cha mẹ, không phải sao?”
Ta và ngươi không giống nhau, từ lúc còn chưa thi đỗ, mỗi người đều đã bước trên hai con đường hoàn toàn khác biệt.
Vì sao làm quan?
Ta nói, vì bách tính một phương.
Ngươi đáp, vì địa vị có thể nắm trong tay quyền thế thiên hạ.
“A, đã nhiều năm như vậy rồi, tính khí của ngươi vẫn không thay đổi, ngay cả ngốc nghếch cũng vẫn y như trước.” Nam nhân đứng thẳng người có một bóng lưng đĩnh bạt như trường thương, Cố Minh Cử nhìn bóng lưng của y mà cười, thẳng người dậy, đi vòng qua bàn trở lại vị trí mặt đối mặt với Nghiêm Phượng Lâu, “Vậy nên ta mới nói, con người ngươi chính là dạy thế nào cũng dạy không được. Cũng chẳng trách trên công đường lại bị người ta chèn ép thành như vậy.”
Đứng đối diện nhau cách một chiếc bàn sách, Cố Minh Cử nhìn thấy ánh sáng mỏng manh của ngọn nến con nhuộm lên gương mặt trắng ngần của Nghiêm Phượng Lâu một tầng sắc thái ấm áp mờ nhạt: “Lúc ta ở ngoài công đường có nghe thấy người ta nói. Khổ chủ của án tử này không muốn tái cáo nữa, tái cáo cũng sẽ không có kết quả gì tốt hơn. Ngươi phán Tôn gia có tội thì lại thế nào? Tờ báo án đã gửi đi, thượng cấp còn có thể bãi bỏ sao? Hơn nữa nếu như vậy, còn chẳng bằng cầm lấy ngân lượng của người ta mà an táng nữ nhi cho thật tốt, số tiền còn lại biết đâu có thể giúp lão Tam Hán sống qua ngày được tốt hơn.”
Nghiêm Phượng Lâu gật đầu: “Ta biết.”
Cố Minh Cử chớp chớp mắt, tỉ mỉ đánh giá y: “Ngươi biết?”
Nghiêm Phượng Lâu nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ nói: “Ngân lượng ta đã trả lại cho Tôn gia.”
Ngày đó y đã nói với tên tiểu tư của nhà họ Tôn như vậy: “Ông lớn nhà ngươi là một người hào phóng, nhưng bản huyện cũng nhân đây nói cho rõ ràng. Án tử này đến cùng là nhà ai thiếu nợ nhà ai, trong lòng mỗi người chúng ta đều tự mình hiểu rõ. Ông lớn nhà các ngươi nếu đã thừa ngân lượng để tặng cho bản huyện như thế, vậy hãy lo liệu cho con gái nhà người ta một cái tang sự tử tế, rồi chăm sóc khổ chủ thật tốt cho đến khi người ta lâm chung, có lẽ làm vậy cũng sẽ đỡ đau lòng.”
Thì ra ngươi đã biết trước kết quả từ sớm, lại vẫn còn… Cố Minh Cử lắc đầu liên hồi: “Nghiêm Phượng Lâu, ngươi đúng là kẻ…”
Nghiêm Phượng Lâu bình tĩnh nhìn hắn: “Điều ta có thể làm chỉ có bấy nhiêu thôi. Đây là con đường cuối cùng.”
Con đường cuối cùng… Kỳ thực, đường lớn có tới nghìn vạn cái, nhưng chỉ có một con đường sống này.
Lúc rời đi, Cố Minh Cử thuận tay treo lồng chim trong tay lên giá sách: “Phải rồi, cái này tặng cho ngươi.”
Con chim trong lồng kêu: “Quan vận hanh thông, quan vận hanh thông! (4)“
Thẳng thắn bước ra khỏi thư phòng, bất chợt hắn lại quay đầu về: “Phượng khanh, lúc xem ngươi thăng đường xử án, bên cạnh ta có người đã khen ngươi, nói ngươi là một vị quan tốt.”
Nghiêm đại nhân là một vị quan tốt, đáng tiếc, thế đời hiện tại không dung nạp được quan tốt. Vị đại thẩm rất thích hợp làm thuyết thư kia trước khi rời đi đã nói như vậy.
Nửa câu còn lại Cố Minh Cử không nói ra. Nhìn thấy trên mặt Nghiêm Phượng Lâu trong thoáng chốc hiện lên thần sắc kinh ngạc, Cố Minh Cử hiếm có một hôm dậy thật sớm bỗng nhiên cảm thấy thần thanh khí sảng.
__ Hết chương 3__
*Chú thích:
(1) Bát Ca: một loài chim quý
(2) thủy hỏa côn: Là loại côn mà nha dịch thời xưa sử dụng. Hình dáng như một cây côn ngắn. Một nửa sơn màu đỏ, một nửa sơn màu đen. Đỏ là màu của hỏa, đen là màu của thủy.
(3) minh kính cao huyền: dùng để so sánh với viên quan xử án công chính liêm minh, chấp pháp nghiêm chỉnh, phán án công bằng, làm việc công chính vô tư. Cũng dùng để so sánh với ánh mắt mẫn tuệ sắc bén, kiến thức cao thâm, có thể nhìn thấu rõ tất cả mọi việc.
Ai xem Bao Thanh Thiên chắc đều quen với cảnh xử án trên công đường rồi phải không?:D Sau lưng vị quan là tấm họa đồ sông nước, bên trên là tấm biển công chính liêm minh. Đây là hình ảnh minh họa nhé ^_^
(4) quan vận hanh thông: là một thành ngữ. Quan vận nghĩa là vận khí trong chốn quan trường, hanh thông nghĩa là thuận lợi. Ý chỉ con đường làm quan thuận lợi, từng bước thăng tiến.
(5) nguyên văn là “khứ nhĩ đích” (qt dịch là “đi chết đi”): là câu từ chối mang thiện ý. Mình search baike thì thấy có ba trường hợp sử dụng như thế này:
1. lời bày tỏ giữa tình nhân hoặc luyến nhân, một người nói ra ý nghĩ, người còn lại trả lời như đánh yêu. Ví dụ: nam tử nói: “Hôm nay động phòng hoa chúc, sang năm sinh cho ta một tiểu tử béo mập”, nữ tử ngượng ngùng nói “Đi chết đi”.
2. Một người nói xấu sau lưng một người khác, người nghe nói: “Đi chết đi, chỉ toàn nói linh tinh.”
3. Trong lúc hai người bạn nói giỡn, một người nói đùa thái quá, người còn lại tỏ vẻ không đồng ý. Ví dụ: “Chờ tôi trúng giải độc đắc, tôi sẽ mua cho anh một chiếc ô tô cao cấp.” Người kia trả lời: “Đi chết đi, anh mà trúng giải độc đắc thì mọi người đều tìm không ra cho coi.”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook