Cái Xiềng Của Tostearad
C15: Phần 1- Chương 8




Người đại mạc gọi mưa là phúc ân của các vị thần. Truyền thuyết về nàng Ahra Alsahra có giọng hát hay mê đắm cả mặt trời, gió và cát. Khi nàng lìa đời, các thần đều trở lại ban mưa xuống mảnh đất quê hương mà nàng Ahra Alsahra đã dành trọn đời yêu mến.

Sau những tháng nắng gắt, người ở Athrayir ào ra bãi chợ hò reo trong điệu nhảy Dakrae cảm tạ cơn mưa. Những người đàn ông đánh trần và phụ nữ nắm tay nhau giậm chân lên cát hòa nhịp sôi nổi. Con trai hò reo, ném quần áo và bắt đầu kì cọ, và con gái bưng những chiếc bình gốm ra hứng nước mưa. Cơn mưa tạm ngừng điều luật Korad khắt khe. Gột rửa xích mích giữa con người. Người Otman, bản địa và nhiều người khác nắm tay thành vòng tròn giậm chân theo nhạc. Đồng thanh hô vang lời khấn bằng tiếng bản địa tỏ lòng biết ơn sâu sắc dâng thần Umtir.




Mầm đậu Tul đã nhú được gần một đốt tay trẻ con. Laahad trú mưa dưới tấm bạt của một sạp hàng sát rìa ngoài bãi đất lớn, giúp Sambiraa giữ con, để cô nhảy múa cùng đoàn người. Bararamal cuối cùng đã tỏ tình với Aghniar, cô nàng kéo anh chàng đỏ mặt lao vào trong vũ điệu tập thể. Amahr đang bận nhận chúc phúc từ người Do Thái. Trưởng đoàn, vì chân phải còn sưng phải bắc ghế ngồi xa đám đông để khỏi bị xô đẩy, ở góc bãi đất, để nước chảy ướt nước da đen sạm.


Cô gái nhỏ thấy những kẻ buôn nô lệ tập trung hàng hóa dưới gốc cọ palm. Chúng đã bỏ áo lữ hành đen, cũng giơ cao hai tay lên trời làm dấu tạ ơn. Nhóm nô lệ có người da đen, người bản địa và trẻ con, bị cùm chặt trong gông. Họ bị cố định tay, và cố gắng kì cọ cơ thể bằng chân. Miệng mở hướng lên trời để uống nước mưa. Ít ngày nữa Laahad sẽ đi cùng những người nô lệ. Đồng hành là Amahr, thêm Jashar và Dadru của nhóm nhạc công. Ngài Mubarit cương quyết bắt cô phải mang thêm hai người ông tin tưởng đi cùng bảo vệ. Trừ vũ công, hai người còn lại là anh em ruột. Một người 15 và một 17 tuổi. Họ lẫn đâu đó trong đoàn người đương nắm tay nhảy vòng tròn.




Lúc gần trưa, ngài Mubarit trở lại báo tin đã ngã giá được với Samahunda, để gã sắp xếp nhóm Laahad ở vị trí thuận lợi trong toán nô lệ. Họ sẽ đứng cuối hàng ngoại quốc, những người được phép mặc quần áo và khoác áo choàng tránh nắng thiêu sạm màu da đáng tiền. Không phải đóng khố như người bản địa, hay trần truồng như người da đen. Đó là sự nhượng bộ lớn vì uy tín của ngài Mubarit. Họ sẽ được ăn một bữa trong ngày, đi vệ sinh hai lần vào giữa trưa và sẩm tối lúc hạ trại như những kẻ khác. Laahad cúi đầu thật thấp cảm ơn trưởng đoàn cầu mưa. Ông vỗ vai cô, nhấn mạnh họ phải rất thận trọng khi đi ở Lihal. Đôi mắt ông già tối sẫm dưới hàng lông mày dày đổ sụp.

Laahad ngửi thấy mùi cây hương thảo. Sambiraa đã trở lại nhận đứa bé, mỉm cười huých cô bé ra nhảy cùng thành viên đoàn Due rahma. Amahr vẫy tay từ xa.

"Anh không mạnh như Bararamal. Nhưng anh sẽ bảo vệ em từ giờ."

Lúc nhận đề nghị, anh bạn vũ công đã gật đầu ngay. Anh em nhà Itraudra tự nguyện làm dấu tuyên thệ trước cả khi Amahr trừng mắt với họ. Cô gái nhỏ thấy ấm áp và biết ơn.




Lá cọ đánh nhịp theo cơn mưa. Vài đứa trẻ nhanh nhẹn khoắng tiền từ đống trang phục của dân Otman chất dưới gốc cọ. Dân mắt xám có thể đáng tội nghiệp trong tình cảnh này. Họ sẽ nhận lấy thất vọng sau hạnh phúc. Nhưng là cái giá nhỏ trả cho sự hài lòng ít nhiều của những người thuộc địa đã luôn im lặng.

"Chúng ta yêu và cũng phải dè chừng sa mạc."


Hira Tostearad bên đống lửa chờ xiên thịt rắn đuôi chuông chín. Đôi mắt luôn khép nhìn em gái, nghiêm nghị như một người du mục khiêm tốn. Nhịp giậm Dakra của Laahad đều đặn. Nắm tay Aghniar và Amahr, tận hưởng nước mưa lạnh ngắt có mùi ngái và cát mềm dưới lòng bàn chân trần. Vòng tròn người đang nhảy theo nhịp nhạc đệm từ những lữ đoàn cầu mưa, và gương mặt họ hạnh phúc.




----

-Jashar (eajalat khashabia/Mokusei hoīru Jashar): Bánh xe gỗ.

-Dadra (sandan alhidad/ anbiru Idadru): Đe rèn.

-Làng Udra (alnabatat alnudra): Cây mọng nước


-Họ Itraudra (tin qaryat Udra Itraudra): Đất sét của làng Udra

-Ahra Alsahra (ajmal zahratan fi alsahra): Bông hoa đẹp nhất sa mạc.





-Truyền thuyết về nàng Ahra Alsahra: Nàng Ahra Alsahra là người con gái có giọng hát hay đã vì quá yêu quê hương, từ chối lời mời đi cùng người tình là thần Gió Đại Dương, chọn ở lại lục địa. Thời đó Arabiapan vẫn còn là đồng bằng màu mỡ. Thần Gió Đại dương là kẻ thích phiêu lưu, hàng ngày nàng Ahra Alsahra đều hát gửi tình yêu đến cho gió. Giọng hát của nàng quá hay khiến cả thần mặt trời Shams trên cao cũng phải say đắm. Thần Shams vì ngắm nhìn nàng Ahra Alsahra, vô tình tiến quá gần đến mức thiêu cháy Arabiapan thành sa mạc. Thần sa mạc Sahral vô tình được sinh ra. Giọng hát của mẹ cũng khiến ngài say mê. Ngài hóa thành gió cát quấn quýt bên mẹ, khiến cho bão cát vô tình giết chết nàng Ahra Alsahra. Thần Gió Đại dương biết tin trở về, khóc thành mưa trên mảnh đất chôn cất nàng Ahra Alsahra là dãy núi Ar Tairiyad. Vì vậy hàng năm vào thời điểm nàng Ahra Alsahra lìa đời, thần mặt trời Shams, bão cát của thần Sahral và thần Gió Đại dương Janulg quy tụ về cùng một chỗ gây mưa ở Arabiapan.

-Thần Janulg (Hư cấu, từ cụm alriyah aljanubiat algharbia nghĩa là gió Tây Nam): Thần gió Đại dương Janulg còn được gọi là gió ở Tây Nam. Hàng năm vào tháng 5-10 cơn gió thổi từ Ấn Độ Dương vào lên theo hướng Tây Bắc, tức tiếp cận Arabiapan từ bờ Tây Nam.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương