Cái Xiềng Của Tostearad
C14: Phần 1- Chương 7







Tay buôn nô lệ tên Samahunda là một người Otman. Một kẻ cao lớn, râu rậm và có cái mũi diều hâu khoằm. Ngài Mubarit đã đích thân đi gặp gã thương lượng. Cô gái nhỏ gửi ông 30 Diras vàng, cái giá cao nhất trong khoảng chấp nhận được để thuyết phục Samahunda đồng ý cho thêm hai "nô lệ trên danh nghĩa" gia nhập đoàn của gã, băng qua hoang mạc Lihal đến khi vào trong Thành đô Gumaunten. Laahad đã phải bán mảnh trầm hương Comrha duy nhất còn lại, và chắt toàn bộ tiền trong chiếc túi của tay buôn lạc đà làm phí trao đổi. Một nô lệ thì không cần mang tiền.




Cô đang ngồi cạnh cặp chị em song sinh, dùng bữa sáng trong phòng của họ. Trên bàn bày bánh mì mè và nước cam. Sambiraa đang bón cho đứa con cháo bột mì. Cô bé trông không hề thích nó, quay đầu liên tục và nhăn mặt. Người đàn bà trẻ có những câu dỗ dành tức cười, trong đôi mắt là sự nhẫn nại hiền dịu. Laahad dùng bữa từ tốn, tập trung quá mức vào đứa bé để không thấy việc Aghniar đang gặm phần bánh mì như muốn nghiền nát nó. Đó là sự ghen tị, nhưng không phải với đứa trẻ hơn một tuổi. Cô gái lớn có ánh mắt căm thù ấm ức, nhìn chằm chằm qua cửa sổ hướng đoàn lữ hành dựng đài tế. Gặm phần ăn theo quy tắc bốn nhịp một lần. Một trong cặp song sinh đang đợi lời tỏ tình. Cũng như bất cứ điều luật dân Otman bắt buộc phụ nữ phải tuân thủ, như không được ra ngoài một mình mà không đi kèm người giám hộ, cấm nói chuyện với người lạ khác giới, và vân vân, luật Korad bắt buộc tỏ tình phải là bên nam. Điều đó trói buộc cô gái bản địa dữ dội. Chiếc bánh mì thứ tư bị nghiền nát. Bararamal có thể múa cùng một lúc hai thanh đao bốc cháy rừng rực, đủ khỏe để quật ngã một con ngựa hoa mai thuần chủng, nhưng lại là người ngại ngùng.


"Cặp đôi tội nghiệp. Cầu cho anh ấy không bị nghiền nát như cái bánh mì."

Laahad uống nốt nước cam trong cốc, xoa bụng. Ngạc nhiên Sambiraa cũng vừa bón xong bột. Đứa bé phồng đôi má phúng phính ấm ức vì bị lừa liên tục. Nó bị dụ ăn nho, và mỗi lần cắn được một miếng nhỏ Sambiraa lập tức nhồi thêm một thìa bột mạch mì đầy ứ. Bên trên, mẹ nó nhìn bằng ánh mắt của kẻ chiến thắng. Laahad cho rằng anh của cô cũng có thể đã làm như thế, hối hận nhớ đến người mất tích. Cô chưa bao giờ hỏi. Thứ duy nhất cô gái nhỏ còn nhớ là cảm giác kinh sợ vị sữa lạc đà.





Dấu hiệu của mưa đã tới từ nửa đêm. Về sáng trở thành cơn oi bức đặc trưng. Muộn nhất đến trưa sẽ mưa. Người ở Athrayir cũng nhận ra. Con hẻm nhộn nhịp, ồn ào hơn bình thường. Cư dân sa mạc đã sẵn sàng cho cơn hạnh phúc nung nấu sẽ vỡ òa theo điệu nhảy Dakrae, cùng những giọt nước ngấm ướt trang phục.

Sảnh lớn vẫn tấp nập, tiếng người vọng khắp nhà trọ. Có tiếng của người Otman, tiếng Digan và của người Do Thái trầm khàn lẫn trong tiếng rít tẩu Shisha. Mỗi ngày đều có xô xát ít nhất một lần. Gần nhất hôm qua, một kẻ mắt xám đã bắt tội người phục vụ vì áo anh ta mặc dính cà phê. Một trong những điều luật kì quặc nữa của dân xâm lược, cấm làm công việc liên quan giao tiếp khi trang phục không sạch sẽ. Không phải bất cứ người Otman đều xấu. Anh em Tostearad đã từng ở kinh đô hai năm, họ gặp nhiều người Otman sùng đạo và lịch sự. Giống mắt xám cực đoan, nhưng có thể được tính là một trong những dân tộc trung thành tôn giáo nhất. Những kẻ đã chạy trốn khỏi Gumaunten quay lưng lại với thần Saidanja, họ dùng cách gây sự để tự báng bổ mình như một hình phạt. Mong muốn chuộc lỗi bằng cách tạo thời cơ cho một cuộc xung đột lớn, để kinh đô có cớ dồn binh cướp lại quyền kiểm soát thánh địa. Đại sảnh hôm nay sẽ không có tiếng cãi vã. Vì ngay cả những kẻ xâm lược cũng phải tôn trọng thần Umtir.

Laahad giúp Aghniar dọn dẹp bàn, quét vụn bánh mì vương vãi. Thỉnh thoảng quay đầu về hướng trưởng đoàn đã chống nạng đi. Sâu trong lòng dâng lên cảm giác lo sợ tự nhiên nhất của con người đối mặt với sa mạc. Như một nô lệ với dây thừng quanh cổ tay và chân. Phải vượt qua hàng trăm dặm đường cát khắc nghiệt, và những toán cướp ở hành lang Lihal.




----


-Mubarit Jagait: Sự biện minh của loài báo đốm.

-Samahunda (yahimun ealaa wujuhuhum alqada/ Ashi o samayō): Dấu chân lạc đà.

-Aghniar và Sambiraa (Từ cụm "alaghniat mubaraka" nghĩa là Khúc ca được ban phước): Khúc ca và Phước lành.


-Kinh Korad(Hư cấu): Thánh kinh của đạo Chishamga của người Otman. Khi người Otman xâm lược Arabiapan, điều luật trong kinh Korad được áp dụng cho toàn thể người ở Đại Mạc.

-Comrha (Commiphora myrrha): Cây một dược. Đây là loài cây bản địa có ở Ả Rập đến Châu Phi. Nó mọc tốt nhất ở đất mỏng, chủ yếu khu vực có đá vôi. Loại trầm Comrha ở phương Bắc Arabiapan mọc trong điều kiện khắc nghiệt, có mùi nồng hơn trầm ở khối núi Ar Tairiyad, vì thế giá đắt hơn.


-Tẩu Shisha: Chú thích phần 1 chương 2.





-Điệu nhảy Dakrae (Hư cấu, từ điệu nhảy Dabke và từ Dayira nghĩa là vòng tròn): Là một điệu nhảy bản địa dùng trong sự kiện tập thể ăn mừng cơn mưa đầu tiên của mùa mưa . Dakrae có quy tắc cố định về các kiểu di chuyển và các bước, thông qua việc thực hiện lặp đi lặp lại, phục vụ để củng cố các chuẩn mực hành vi văn hóa bình đằng. Vũ công bất kể phụ nữ hay nam giới nắm tay thành vòng tròn. Vòng tròn càng lớn thể hiện sự cảm tạ chân thành càng lớn đến thần mưa Umtir.






Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương