Hư Nguyệt Hoa Mãn
-
Chương 1: Không nguyệt
*
Từ hai năm nay, Bằng quốc chìm trong loạn lạc, ta mặc dù không hiểu chuyện, nhưng cũng biết mọi chuyện trong cung đang rối như tơ vò.
Tỷ tỷ từng gửi bồ câu đưa thư cho ta, trong thư viết: Trong nước khắp nơi đều là người chết đói, dân chúng cực khổ, lầm than.
Khi đó ta đã không có dũng khí đi ra bên ngoài tìm hiểu, ta nghĩ những lời này là của tỷ tỷ, nhưng chỉ vì không thấy thảm trạng ở dân gian, nên trong lòng cũng chỉ là suy đoán. Bởi vì vài chữ đơn giản này không thể nói lên điều gì.
Ta chỉ biết, nội loạn đã lan tràn đến mức khó mà kiềm chế được, không hề đơn giản như hoàng thất vẫn tưởng, ta không biết vị Trì Vân đại tướng kia vì sao phải dấy lên bạo loạn, nếu nói vì cái gọi là công bằng chính trực, như vậy cuối cùng thu lại được cái gì? Chẳng lẽ là thế sự loạn lạc không biết khi nào mới dứt?
Phụ hoàng đã qua đời không hiểu, mẫu hậu tuổi đã cao cũng không hiểu, ta không hiểu, lại càng không có người hiểu.
Đêm đó phụ hoàng bị người ám toán, mẫu hậu đem ta cùng tỷ tỷ đưa ra khỏi cung. Mẫu hậu là một phụ nữ kiên cường như sắt đá, bà muốn chống đỡ đại cục, muốn một tay che cả bầu trời. Bà nghĩ bà có thể, nhưng ta biết, mẫu hậu thật sâu trong tim là yếu ớt như thế nào.
Năm đầu tiên chúng ta sống bên ngoài cung, nhận hết bao nhiêu cực khổ, liên miên không dứt, bốn người hộ vệ đại nội mang theo chúng ta đi về hướng tây, một đường vượt qua đại mạc, đáng tiếc đến tận đây vẫn không tránh được truy sát. Nhưng chúng ta biết rõ, cả hai vẫn bị truy sát, nghĩa là mẫu hậu đã thua dưới quyền lực của Trì Vân tướng quân.
Diệt cỏ tận gốc, đạo lý này ta hiểu, nhưng thực ra cũng không hiểu.
Sau một năm lưu lạc, tỷ tỷ gả đến Khích Diệp thành giữa đại mạc xa xôi, phu quân của nàng là một người họ Võ, hắn không dám nói là xuất chúng, nhưng là một người thành thật, thẳng thắn. Tỷ tỷ nói, cứ đi lang thang khắp nơi, không bằng dừng lại ở nơi nào đó, nàng nói tâm cùng thân đều quá mệt mỏi, không biết sau này sẽ thế nào.
Ta nghĩ, tiếp tục hành trình cuối cùng chỉ có một mình ta.
Chúng ta trao đổi bồ câu đưa thư, bằng bất cứ giá nào, ta vẫn cùng với hai người hộ vệ trở lại Bằng quốc. Ta tin, nơi loạn lạc vĩnh viễn an toàn.
Cũng từ sau đó, ta mới biết được cái gọi là địa ngục trần gian. Hỗn loạn, lòng người chung quy đều là hỗn loạn.
Ba người chúng ta gian nan vất vả tìm đến nơi cực bắc của Bằng quốc, tại đây có một ngọn núi, tên gọi Khương Sơn, núi hình dáng như gừng đỏ. Nơi này cực kì hẻo lánh, hiếm khi có người ngoài xâm nhập.
Trên đỉnh núi tọa lạc một am ni cô, tên gọi Vô Lai Am. Sườn núi có một ngôi chùa, tên gọi Thông Lạc Tự. Đều đã chịu thử thách của Phật , nhưng ta chỉ hi vọng được một phần giác ngộ mà thôi.
Hai hộ vệ đi theo ta là những người võ công tốt nhất trong cung, một người tên Sùng, người còn lại tên là Tuyên.
Ta vốn muốn ở nhờ tại Vô Lai am, nhưng hai người họ đối với người ngoài có điều lo lắng, đều nhất trí phản đối.
Vậy nên chúng ta định cư ở chân núi, ở đây quanh năm không có người lai vãng, trong thôn trang chỉ có hơn hai chục nóc nhà, xen lẫn với đồng ruộng.
Cuộc sống an nhàn như vậy, tại sao không ở lại?
Quãng thời gian lưu lạc khắp chốn cuối cùng cũng chấm dứt.
Chúng ta cải trang thành ba huynh muội một nhà, sáng sáng thức dậy, chăm lo cho mảnh vườn nhỏ sau nhà.
Mỗi ngày Sùng theo ta lên Vô Lai Am dâng hương bái Phật, ta thứ nhất trả thù nhà, thứ nhì lo nợ nước, thứ ba vì mẫu hậu. Kỳ thực như vậy chẳng qua là do chính mình tạo nghiệt, xưa kia ta đã từng là kẻ được hưởng thụ sung sướng vô kể nhưng lại vô cùng ích kỉ cùng bất tài.
Mỗi ngày lên núi, chẳng qua là để giết thời gian mà thôi.
Suốt một năm ở lại đây, ta chưa từng một lần bước chân lên Thông Lạc Tự, chỉ vì Sùng không muốn, hắn nói trong chùa toàn là nam tử, khiến hắn tâm bất an. Ta biết, thật ra hắn chỉ là lo nghĩ quá nhiều mà thôi.
Bởi vì một năm dần dần qua đi, còn ai nhớ được ta đã từng là Hoài Cơ công chúa?
Tỷ tỷ đã mấy lần gửi thư, hỏi ta sống ở nơi nào, còn hứa chắc chắn sẽ đến thăm ta, khiến ta thỉnh thoảng lại nhớ về thời gian tươi đẹp trước kia, khi còn là Hoài Cơ cùng Nguyên Cơ công chúa, ít nhất chúng ta còn may mắn, khi cách xa ngàn dặm vẫn còn nhớ đến nhau.
Cả một năm, 365 ngày, ta mỗi sáng đều lên núi, tình cảm đối với ni cô trong am rất tốt.
Ngẫu nhiên có một đêm, trời đổ mưa lớn, bên ngoài gió lạnh rít gào, mái nhà vì thế mà bị sụp, khi đó đã là đêm khuya, chung quanh nhà cửa đều đã tắt đèn, đóng cửa cài then chặt chẽ, không có ai muốn giữa đêm tối mở cửa cho người không thân thích vào nhà.
Ta cùng hai người quyết định đến ngôi chùa ở sườn núi tránh mưa.
Ta vẫn nhỡ cũ cơn mưa đêm đó, rất lớn rất lớn, cho dù Sùng và Tuyên đều nhường áo tơi cho ta mặc, nhưng cái lạnh vẫn không ngừng lan đến tận xương tủy. Đường núi lầy lội, bọn họ thay phiên nhau cõng ta, nhưng đi mãi hơn nửa đêm mới đến Thông Lạc Tự.
Cửa chùa đã đóng chặt, gõ cửa hồi lâu đều không người ra mở.
Tuyên vẫn còn là một đứa trẻ, tính tình có phần nóng vội, muốn đem ta nhảy qua tường mà vào nhưng bị Sùng ngăn lại, nói không thể tiết lộ bản thân, nếu đã muốn ẩn giấu thì không thể hành động vội vàng.
Vậy nên ba người chúng ta chỉ có thể trú mưa dưới mái hiên chùa.
Mưa vốn rất to, gió tây lại thổi mạnh, ta nhìn trời giăng kín nước, nhớ tới dĩ vãng đã qua, như là một giấc mơ, bất giác muốn khóc thật lớn, nhưng nước mắt lại không chảy xuống.
Ta đứng dậy muốn đi khỏi. Sùng và Tuyên kéo tay ta, nói đường núi quanh co, không nên đi loạn, ta nói chỉ muốn đi nhìn quanh tường ngôi chùa, chỉ là nhìn mà thôi.
Kỳ thực ta chỉ muốn ở một mình.
Ngôi chùa không lớn không nhỏ, ta đi một vòng, mưa rơi nhỏ lại, dần dần tạnh hẳn.
Cởi áo tơi khoác trên mình, ta ngẩng đầu nhìn trời.
Đêm nay, u tối không có trăng.
Bỗng nhiên xa xa một đám người đi tới, đều mặc áo choàng xanh xám, áo tơi ướt đẫm, mũ nón treo ở sau người.
Đó là người ở Thông Lạc Tự. Bọn họ lẳng lặng đi tới, nhưng không có người nhìn ta.
Ta đứng ở ven đường nhìn đoàn người chậm rãi đi qua, bất giác cảm thấy tứ đại giai không có gì không tốt?
Đang nghĩ ngợi, đột nhiên một viên phật châu trong chuỗi tràng hạt từ trong đoàn tăng lữ rơi xuống, lăn đến chỗ ta đứng. Nhưng bọn họ không ai dừng lại. Ta cúi người nhặt lên.
“Không biết phật châu này là của vị sư phụ nào?”
Ta đã lâu không nói gì, lại bị dính mưa, thanh âm có chút khàn khàn. Bọn họ đều dừng lại quay đầu nhìn ta, có lẽ giọng nói của ta làm họ giật mình.
Đúng vậy, đêm đó không trăng không sao, thế gian âm u, mịt mờ, xa xa dưới núi ánh lửa leo lắt ẩn hiện trong màn mưa.
Thế nhưng ta lại thấy rõ ràng, khoảnh khắc vừa nhìn đến dung mạo người đó, bản thân vô thức lùi lại.
Một khoảnh khắc đó, giống như cả thế giới chỉ còn là màu xanh xám, Phật tổ khiến ta phải nhìn chăm chú, chẳng qua chỉ vì khuôn mặt thuần túy thanh tịnh của người đó.
Ta càng không nghĩ tới hắn từ trong đám tăng nhân đi tới, gật đầu nhìn ta, đưa tay. Tay hắn không lớn, ngón tay dài mà thẳng, đường vân rõ ràng.
Phật châu là của hắn.
Ta cúi đầu trước hắn, một lọn tóc khẽ chạm vào tay hắn.
“Đa tạ thí chủ”.
Cứ như vậy, hắn xoay người chậm rãi rời đi.
Lúc đó ta nghĩ, có lẽ, hắn không nên là một tăng nhân.
Về sau ta mới biết, nơi đêm đó chúng ta dừng lại chính là cửa sau Thông Lạc Tự, bởi vì Thông Lạc Tự không hề khóa cửa chính.
Đây có thể chỉ là một chút nhạc đệm xen vào.
Sau khi căn nhà bị sập, ba người chúng ta lại mua một căn nhà khác, vẫn tại chân núi. Vì vậy cuộc sống vẫn như trước, ta nghĩ, cuối cùng đã tìm được cuộc sống mới.
Ta vẫn mỗi ngày đều lên Vô Lai Am, dâng hương hoặc vãn cảnh, ta nghĩ, người nơi đây đều rất thanh tịnh, thân thiết hơn cũng không sao. Ngẫu nhiên dâng hương lại nghĩ đến mẫu hậu. Trước mặt đức Phật, người đời đều là yếu đuối. Sùng mỗi ngày đều theo ta, luôn luôn bảo vệ quá mức, tại nơi thôn quê dân dã này, thực sự không thích hợp làm như vậy. Ngày hôm đó Tuyên đi ra bờ sông bắt cá, ta khuyên nhủ hết lời, mới khiến cho hắn rời đi.
Sau khi sửa sang lại quần áo và đồ dùng, ta mang theo một giỏ rau xanh của nhà trồng, một mình lên núi.
Không ngờ vừa đi đến lưng chừng núi thì trời đổ mưa, con đường đá vốn đã gồ ghề giờ lại càng khó đi, ta ngẩng đầu thì nhìn thấy cửa sau Thông Lạc Tự, mưa đổ xuống quá mau, bắt buộc ta phải dừng lại tránh mưa.
Chậm rãi đi tới, dưới mái hiên ta bắt gặp một vị tăng nhân đứng ở ven đường, mắt nhìn ra xa phía chân núi, khuôn mặt hắn nhiễm mưa, vạt áo dài cũng ướt, nhưng lại có vẻ thanh sạch, thần thái uyển chuyển, tựa như muốn hòa mình vào cảnh sắc xung quanh.
Ta nhìn đến ngẩn người, đột nhiên chân bị trượt, thân mình ngã xuống đất, giỏ rau trong tay cũng lăn xuống dưới.
Hắn quay đầu nhìn ta, nhìn hồi lâu, nhưng chỉ là nhìn mà thôi.
Ta nghĩ hắn có lẽ sẽ đến đỡ ta, nhưng hắn không làm vậy, chỉ đi qua giúp ta nhặt lại chỗ rau rơi xuống đất. Nhặt xong liền đặt ở cạnh ta.
“Ngươi vì sao không đến giúp ta”.
Hắn quay đầu, “Ngươi giúp ta nhặt lại phật châu, ta liền giúp ngươi thu dọn chỗ rau”.
Ta ngồi đó, ngây người, nghĩ hắn thực sự là bị tiêm nhiễm giáo lý nhà Phật có ân tất trả quá mức cần thiết.
Hắn đi tới cửa chùa, dừng bước nhưng không quay lại, “Mưa lớn như vậy, không bằng vào trong chùa, đợi mưa tạnh hãy đi”.
Ta gật đầu đứng dậy, “Đa tạ”.
Ngôi chùa cũng không lớn, trụ trì là một lão tăng nhân tốt bụng, thấy ta lẻ loi một mình lên núi không may gặp mưa liền giữ ta ở lại, dùng chung bữa cơm.
Trước bữa cơm ta lại gặp lại hắn, người đó đã thay một bộ trường bào màu trắng, vừa vào cửa hắn ngẩng đầu, cùng ta đối diện giây lát.
Ở trong cung, người địa vị thấp hơn ta, không dám đối mặt với ta, kẻ địa vị cao hơn ta, chẳng đáng để ta đối mặt. Hoặc là nam nhân trong gia đình của người nào đó, khi vào cung cũng không được phép nhìn thẳng mặt ta.
Cái liếc mắt của hắn dường như rất sâu, hay là ta cảm giác sai.
Chỉ có vậy thôi nhưng lại khiến tâm ta thêm rối loạn.
Ăn cơm xong, tăng nhân trong chùa đồng loạt tụng kinh, kỳ thực hắn không có gì đặc biệt, chỉ là ta mỗi lần nhìn lại tựa hồ đều nhìn thấy hắn. Ta ngồi dưới mái hiên ở chính điện, nhìn mưa rơi, nghe tiếng chuông và khánh vang vọng trong mưa, nghĩ đến cuộc sống chỉ là những ngày tháng như vậy.
Ngày xưa giàu sang phú quý, đều là một hồi mộng mị, tan rồi lại tan, có gì đáng thương cảm.
Một lúc sau mưa ngớt một chút, ta lúc này mới chuẩn bị đi, mới đi được hai bước liền nhớ ra mình quên làm cái gì, quay đầu lại, bất ngờ nhìn thấy ánh mắt hắn.
Hôm đó chính điện khói hương quanh quất, nến đỏ linh lung, tượng Phật thần thái an nhàn, tăng nhân áo bào trắng rạng rỡ.
Nhưng ta lại cảm thấy, tất cả chẳng qua là vì hắn ngoái đầu nhìn lại một lần.
Đây là lần thứ ba hắn nhìn vào ta.
Lần đầu tiên là hờ hững, lần thứ hai là nhạt nhẽo, lần thứ ba … ta không có can đảm nhìn tiếp.
Từ hai năm nay, Bằng quốc chìm trong loạn lạc, ta mặc dù không hiểu chuyện, nhưng cũng biết mọi chuyện trong cung đang rối như tơ vò.
Tỷ tỷ từng gửi bồ câu đưa thư cho ta, trong thư viết: Trong nước khắp nơi đều là người chết đói, dân chúng cực khổ, lầm than.
Khi đó ta đã không có dũng khí đi ra bên ngoài tìm hiểu, ta nghĩ những lời này là của tỷ tỷ, nhưng chỉ vì không thấy thảm trạng ở dân gian, nên trong lòng cũng chỉ là suy đoán. Bởi vì vài chữ đơn giản này không thể nói lên điều gì.
Ta chỉ biết, nội loạn đã lan tràn đến mức khó mà kiềm chế được, không hề đơn giản như hoàng thất vẫn tưởng, ta không biết vị Trì Vân đại tướng kia vì sao phải dấy lên bạo loạn, nếu nói vì cái gọi là công bằng chính trực, như vậy cuối cùng thu lại được cái gì? Chẳng lẽ là thế sự loạn lạc không biết khi nào mới dứt?
Phụ hoàng đã qua đời không hiểu, mẫu hậu tuổi đã cao cũng không hiểu, ta không hiểu, lại càng không có người hiểu.
Đêm đó phụ hoàng bị người ám toán, mẫu hậu đem ta cùng tỷ tỷ đưa ra khỏi cung. Mẫu hậu là một phụ nữ kiên cường như sắt đá, bà muốn chống đỡ đại cục, muốn một tay che cả bầu trời. Bà nghĩ bà có thể, nhưng ta biết, mẫu hậu thật sâu trong tim là yếu ớt như thế nào.
Năm đầu tiên chúng ta sống bên ngoài cung, nhận hết bao nhiêu cực khổ, liên miên không dứt, bốn người hộ vệ đại nội mang theo chúng ta đi về hướng tây, một đường vượt qua đại mạc, đáng tiếc đến tận đây vẫn không tránh được truy sát. Nhưng chúng ta biết rõ, cả hai vẫn bị truy sát, nghĩa là mẫu hậu đã thua dưới quyền lực của Trì Vân tướng quân.
Diệt cỏ tận gốc, đạo lý này ta hiểu, nhưng thực ra cũng không hiểu.
Sau một năm lưu lạc, tỷ tỷ gả đến Khích Diệp thành giữa đại mạc xa xôi, phu quân của nàng là một người họ Võ, hắn không dám nói là xuất chúng, nhưng là một người thành thật, thẳng thắn. Tỷ tỷ nói, cứ đi lang thang khắp nơi, không bằng dừng lại ở nơi nào đó, nàng nói tâm cùng thân đều quá mệt mỏi, không biết sau này sẽ thế nào.
Ta nghĩ, tiếp tục hành trình cuối cùng chỉ có một mình ta.
Chúng ta trao đổi bồ câu đưa thư, bằng bất cứ giá nào, ta vẫn cùng với hai người hộ vệ trở lại Bằng quốc. Ta tin, nơi loạn lạc vĩnh viễn an toàn.
Cũng từ sau đó, ta mới biết được cái gọi là địa ngục trần gian. Hỗn loạn, lòng người chung quy đều là hỗn loạn.
Ba người chúng ta gian nan vất vả tìm đến nơi cực bắc của Bằng quốc, tại đây có một ngọn núi, tên gọi Khương Sơn, núi hình dáng như gừng đỏ. Nơi này cực kì hẻo lánh, hiếm khi có người ngoài xâm nhập.
Trên đỉnh núi tọa lạc một am ni cô, tên gọi Vô Lai Am. Sườn núi có một ngôi chùa, tên gọi Thông Lạc Tự. Đều đã chịu thử thách của Phật , nhưng ta chỉ hi vọng được một phần giác ngộ mà thôi.
Hai hộ vệ đi theo ta là những người võ công tốt nhất trong cung, một người tên Sùng, người còn lại tên là Tuyên.
Ta vốn muốn ở nhờ tại Vô Lai am, nhưng hai người họ đối với người ngoài có điều lo lắng, đều nhất trí phản đối.
Vậy nên chúng ta định cư ở chân núi, ở đây quanh năm không có người lai vãng, trong thôn trang chỉ có hơn hai chục nóc nhà, xen lẫn với đồng ruộng.
Cuộc sống an nhàn như vậy, tại sao không ở lại?
Quãng thời gian lưu lạc khắp chốn cuối cùng cũng chấm dứt.
Chúng ta cải trang thành ba huynh muội một nhà, sáng sáng thức dậy, chăm lo cho mảnh vườn nhỏ sau nhà.
Mỗi ngày Sùng theo ta lên Vô Lai Am dâng hương bái Phật, ta thứ nhất trả thù nhà, thứ nhì lo nợ nước, thứ ba vì mẫu hậu. Kỳ thực như vậy chẳng qua là do chính mình tạo nghiệt, xưa kia ta đã từng là kẻ được hưởng thụ sung sướng vô kể nhưng lại vô cùng ích kỉ cùng bất tài.
Mỗi ngày lên núi, chẳng qua là để giết thời gian mà thôi.
Suốt một năm ở lại đây, ta chưa từng một lần bước chân lên Thông Lạc Tự, chỉ vì Sùng không muốn, hắn nói trong chùa toàn là nam tử, khiến hắn tâm bất an. Ta biết, thật ra hắn chỉ là lo nghĩ quá nhiều mà thôi.
Bởi vì một năm dần dần qua đi, còn ai nhớ được ta đã từng là Hoài Cơ công chúa?
Tỷ tỷ đã mấy lần gửi thư, hỏi ta sống ở nơi nào, còn hứa chắc chắn sẽ đến thăm ta, khiến ta thỉnh thoảng lại nhớ về thời gian tươi đẹp trước kia, khi còn là Hoài Cơ cùng Nguyên Cơ công chúa, ít nhất chúng ta còn may mắn, khi cách xa ngàn dặm vẫn còn nhớ đến nhau.
Cả một năm, 365 ngày, ta mỗi sáng đều lên núi, tình cảm đối với ni cô trong am rất tốt.
Ngẫu nhiên có một đêm, trời đổ mưa lớn, bên ngoài gió lạnh rít gào, mái nhà vì thế mà bị sụp, khi đó đã là đêm khuya, chung quanh nhà cửa đều đã tắt đèn, đóng cửa cài then chặt chẽ, không có ai muốn giữa đêm tối mở cửa cho người không thân thích vào nhà.
Ta cùng hai người quyết định đến ngôi chùa ở sườn núi tránh mưa.
Ta vẫn nhỡ cũ cơn mưa đêm đó, rất lớn rất lớn, cho dù Sùng và Tuyên đều nhường áo tơi cho ta mặc, nhưng cái lạnh vẫn không ngừng lan đến tận xương tủy. Đường núi lầy lội, bọn họ thay phiên nhau cõng ta, nhưng đi mãi hơn nửa đêm mới đến Thông Lạc Tự.
Cửa chùa đã đóng chặt, gõ cửa hồi lâu đều không người ra mở.
Tuyên vẫn còn là một đứa trẻ, tính tình có phần nóng vội, muốn đem ta nhảy qua tường mà vào nhưng bị Sùng ngăn lại, nói không thể tiết lộ bản thân, nếu đã muốn ẩn giấu thì không thể hành động vội vàng.
Vậy nên ba người chúng ta chỉ có thể trú mưa dưới mái hiên chùa.
Mưa vốn rất to, gió tây lại thổi mạnh, ta nhìn trời giăng kín nước, nhớ tới dĩ vãng đã qua, như là một giấc mơ, bất giác muốn khóc thật lớn, nhưng nước mắt lại không chảy xuống.
Ta đứng dậy muốn đi khỏi. Sùng và Tuyên kéo tay ta, nói đường núi quanh co, không nên đi loạn, ta nói chỉ muốn đi nhìn quanh tường ngôi chùa, chỉ là nhìn mà thôi.
Kỳ thực ta chỉ muốn ở một mình.
Ngôi chùa không lớn không nhỏ, ta đi một vòng, mưa rơi nhỏ lại, dần dần tạnh hẳn.
Cởi áo tơi khoác trên mình, ta ngẩng đầu nhìn trời.
Đêm nay, u tối không có trăng.
Bỗng nhiên xa xa một đám người đi tới, đều mặc áo choàng xanh xám, áo tơi ướt đẫm, mũ nón treo ở sau người.
Đó là người ở Thông Lạc Tự. Bọn họ lẳng lặng đi tới, nhưng không có người nhìn ta.
Ta đứng ở ven đường nhìn đoàn người chậm rãi đi qua, bất giác cảm thấy tứ đại giai không có gì không tốt?
Đang nghĩ ngợi, đột nhiên một viên phật châu trong chuỗi tràng hạt từ trong đoàn tăng lữ rơi xuống, lăn đến chỗ ta đứng. Nhưng bọn họ không ai dừng lại. Ta cúi người nhặt lên.
“Không biết phật châu này là của vị sư phụ nào?”
Ta đã lâu không nói gì, lại bị dính mưa, thanh âm có chút khàn khàn. Bọn họ đều dừng lại quay đầu nhìn ta, có lẽ giọng nói của ta làm họ giật mình.
Đúng vậy, đêm đó không trăng không sao, thế gian âm u, mịt mờ, xa xa dưới núi ánh lửa leo lắt ẩn hiện trong màn mưa.
Thế nhưng ta lại thấy rõ ràng, khoảnh khắc vừa nhìn đến dung mạo người đó, bản thân vô thức lùi lại.
Một khoảnh khắc đó, giống như cả thế giới chỉ còn là màu xanh xám, Phật tổ khiến ta phải nhìn chăm chú, chẳng qua chỉ vì khuôn mặt thuần túy thanh tịnh của người đó.
Ta càng không nghĩ tới hắn từ trong đám tăng nhân đi tới, gật đầu nhìn ta, đưa tay. Tay hắn không lớn, ngón tay dài mà thẳng, đường vân rõ ràng.
Phật châu là của hắn.
Ta cúi đầu trước hắn, một lọn tóc khẽ chạm vào tay hắn.
“Đa tạ thí chủ”.
Cứ như vậy, hắn xoay người chậm rãi rời đi.
Lúc đó ta nghĩ, có lẽ, hắn không nên là một tăng nhân.
Về sau ta mới biết, nơi đêm đó chúng ta dừng lại chính là cửa sau Thông Lạc Tự, bởi vì Thông Lạc Tự không hề khóa cửa chính.
Đây có thể chỉ là một chút nhạc đệm xen vào.
Sau khi căn nhà bị sập, ba người chúng ta lại mua một căn nhà khác, vẫn tại chân núi. Vì vậy cuộc sống vẫn như trước, ta nghĩ, cuối cùng đã tìm được cuộc sống mới.
Ta vẫn mỗi ngày đều lên Vô Lai Am, dâng hương hoặc vãn cảnh, ta nghĩ, người nơi đây đều rất thanh tịnh, thân thiết hơn cũng không sao. Ngẫu nhiên dâng hương lại nghĩ đến mẫu hậu. Trước mặt đức Phật, người đời đều là yếu đuối. Sùng mỗi ngày đều theo ta, luôn luôn bảo vệ quá mức, tại nơi thôn quê dân dã này, thực sự không thích hợp làm như vậy. Ngày hôm đó Tuyên đi ra bờ sông bắt cá, ta khuyên nhủ hết lời, mới khiến cho hắn rời đi.
Sau khi sửa sang lại quần áo và đồ dùng, ta mang theo một giỏ rau xanh của nhà trồng, một mình lên núi.
Không ngờ vừa đi đến lưng chừng núi thì trời đổ mưa, con đường đá vốn đã gồ ghề giờ lại càng khó đi, ta ngẩng đầu thì nhìn thấy cửa sau Thông Lạc Tự, mưa đổ xuống quá mau, bắt buộc ta phải dừng lại tránh mưa.
Chậm rãi đi tới, dưới mái hiên ta bắt gặp một vị tăng nhân đứng ở ven đường, mắt nhìn ra xa phía chân núi, khuôn mặt hắn nhiễm mưa, vạt áo dài cũng ướt, nhưng lại có vẻ thanh sạch, thần thái uyển chuyển, tựa như muốn hòa mình vào cảnh sắc xung quanh.
Ta nhìn đến ngẩn người, đột nhiên chân bị trượt, thân mình ngã xuống đất, giỏ rau trong tay cũng lăn xuống dưới.
Hắn quay đầu nhìn ta, nhìn hồi lâu, nhưng chỉ là nhìn mà thôi.
Ta nghĩ hắn có lẽ sẽ đến đỡ ta, nhưng hắn không làm vậy, chỉ đi qua giúp ta nhặt lại chỗ rau rơi xuống đất. Nhặt xong liền đặt ở cạnh ta.
“Ngươi vì sao không đến giúp ta”.
Hắn quay đầu, “Ngươi giúp ta nhặt lại phật châu, ta liền giúp ngươi thu dọn chỗ rau”.
Ta ngồi đó, ngây người, nghĩ hắn thực sự là bị tiêm nhiễm giáo lý nhà Phật có ân tất trả quá mức cần thiết.
Hắn đi tới cửa chùa, dừng bước nhưng không quay lại, “Mưa lớn như vậy, không bằng vào trong chùa, đợi mưa tạnh hãy đi”.
Ta gật đầu đứng dậy, “Đa tạ”.
Ngôi chùa cũng không lớn, trụ trì là một lão tăng nhân tốt bụng, thấy ta lẻ loi một mình lên núi không may gặp mưa liền giữ ta ở lại, dùng chung bữa cơm.
Trước bữa cơm ta lại gặp lại hắn, người đó đã thay một bộ trường bào màu trắng, vừa vào cửa hắn ngẩng đầu, cùng ta đối diện giây lát.
Ở trong cung, người địa vị thấp hơn ta, không dám đối mặt với ta, kẻ địa vị cao hơn ta, chẳng đáng để ta đối mặt. Hoặc là nam nhân trong gia đình của người nào đó, khi vào cung cũng không được phép nhìn thẳng mặt ta.
Cái liếc mắt của hắn dường như rất sâu, hay là ta cảm giác sai.
Chỉ có vậy thôi nhưng lại khiến tâm ta thêm rối loạn.
Ăn cơm xong, tăng nhân trong chùa đồng loạt tụng kinh, kỳ thực hắn không có gì đặc biệt, chỉ là ta mỗi lần nhìn lại tựa hồ đều nhìn thấy hắn. Ta ngồi dưới mái hiên ở chính điện, nhìn mưa rơi, nghe tiếng chuông và khánh vang vọng trong mưa, nghĩ đến cuộc sống chỉ là những ngày tháng như vậy.
Ngày xưa giàu sang phú quý, đều là một hồi mộng mị, tan rồi lại tan, có gì đáng thương cảm.
Một lúc sau mưa ngớt một chút, ta lúc này mới chuẩn bị đi, mới đi được hai bước liền nhớ ra mình quên làm cái gì, quay đầu lại, bất ngờ nhìn thấy ánh mắt hắn.
Hôm đó chính điện khói hương quanh quất, nến đỏ linh lung, tượng Phật thần thái an nhàn, tăng nhân áo bào trắng rạng rỡ.
Nhưng ta lại cảm thấy, tất cả chẳng qua là vì hắn ngoái đầu nhìn lại một lần.
Đây là lần thứ ba hắn nhìn vào ta.
Lần đầu tiên là hờ hững, lần thứ hai là nhạt nhẽo, lần thứ ba … ta không có can đảm nhìn tiếp.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook