Hạ Lệnh Thù nói với Phượng Lê: “Bãi giá cung Phượng Huyền.”

Dứt lời, ôm tiểu công chúa lên, nói với Triệu vương: “Vương gia và vương phi cũng ở lại ăn bữa cơm đi! Triệu vương cũng tiện thể kiểm tra những gì hai vị hoàng tử mới học, nhìn xem ai có thể đảm đương nghiệp lớn, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn sàng.”

Triệu vương liếc nhìn thái tử, sắc mặt cậu đã xám trắng, khom người nói: “Tuân chỉ.”

Một chuỗi tiếng vang choang choang, hai chậu cây cảnh ở cửa đại điện đã bị đập nát, san hô đỏ, sứ bạch ngọc, bùn xanh văng ra ngoài, từng tiếng vang lên giống như tiếng khóc nức nở của đứa trẻ, lại như tiếng chuông cảnh báo trong lòng.

Nước mắt thái tử rơi xuống, trước khi chạy chỉ để lại một câu: “Con hận người!”

Ba chữ ngắn ngủn phiêu đáng trong cung điện, rất lâu vẫn không tiêu tan. Không có ai nói chuyện, cũng không có ai cử động, các cung nhân càng không dám ngẩng đầu nhìn vẻ mặt hoàng hậu, không khí nặng nề đầy áp lực.

Triệu vương phi lo lắng đỡ tay Hạ Lệnh Thù: “Muội cần gì phải khổ như vậy.”

Hạ Lệnh Thù cười buồn bã: “Tỷ tỷ, năm đó tỷ cần gì phải để con trai trưởng mới vừa một tuổi lại, một mình mang theo tiểu quận chúa vượt ngàn dặm trở về hoàng thành, chia lìa với tỷ phu, đó là vì cái gì?”

Năm ấy, hoàng đế chèn ép Triệu vương, Hạ gia không thể không tuân theo, đành bảo Triệu vương phi trở về, ở trong hoàng thành làm con tin với Triệu vương. Khi đó Triệu vương phi phải bãn lĩnh tới mức nào, khí độ tới mức nào mới có thể không hề nề hà, cùng muội muội kéo gần khoảng cách giữa hoàng tộc và thế gia, tránh cho quân thần hiềm nghi.

“Nói đến cùng, cũng là vì bình an của người nhà.”

“Ta cũng vậy.” Hạ Lệnh Thù nói, “Cho nên thay vì chờ người khác cho nó hưởng đau khổ nhân gian, không bằng ta tự tay đẩy nó xuống vách núi, để nó học được cách tự sinh tồn. Thoát khỏi sự bảo vệ của cha mẹ, nó sẽ càng hiểu được lòng người xung quanh.”

Triệu vương phi nói: “Chỉ sợ khéo quá hóa hỏng.”

Triệu vương tiến lên một bước, hừ lạnh: “Nam tử hán đại trượng phu, phải nếm trải đau khổ mới trưởng thành được. Các người đúng là toàn lòng dạ đàn bà.”

Mấy người lớn vừa đi vừa nói chuyện, ăn trưa tại cung Phượng Huyền. Hai vị hoàng tử đều đã hơn mười tuổi, có người của mình ở tại thư viện Bạch Lộ. Bề ngoài thì nhị hoàng tử có vể trầm tĩnh, đại hoàng tử lại mạnh mẽ, đại công chúa mảnh mai có thừa nhưng kiên định không đủ, người lớn lên trong hoàng cung đều hiểu được phải nhìn mặt mà đoán lòng, trước khi đến đã được mẫu phi nhắc nhở, nay nhìn thấy Hạ Lệnh Thù lại càng thêm cẩn thận.

Triệu vương im lặng quan sát hai vị hoàng tử, Triệu vương phi tự mình gắp thức ăn cho mọi người, Hạ Lệnh Thù ngẫu nhiên hỏi việc học tập của đại công chúa, một bữa cơm này cũng coi như hòa thuận vui vẻ.

Sau khi ăn xong, ba vị công chúa lúc trước Triệu vương phái người đi mời đã vào cung. Hoàng đế bệnh nặng, Triệu vương phụ trách việc triều chính, Định Đường vương nắm binh quyền, lại có thế lực của quyền thần cưỡng chế khắp nơi, tạm thời có thể giữ cho Đại Nhạn yên ổn.

Cả buổi chiều, Triệu vương và các đại thần xử lý tấu chương, Triệu vương phi không thể để mặc Hạ Lệnh Thù một mình, ở lại trò chuyện với nàng.

Tiểu công chúa vẫn ngủ bên cạnh Cố Song Huyền, hoàn toàn di truyền tật xấu trước kia của tiểu thái tử, ăn no liền đái dầm. Đứa bé nho nhỏ lập tức tạo thành hồ nước trên quần áo hoàng đế, chỉ một lúc đã bị nhiệt độ cơ thể hắn hong khô. Người hầu ngửi tới ngửi lui vẫn không biết sao lại có mùi lạ, cuối cùng đành phải lâu người cho hoàng thượng và công chúa một lần, lại đổi chăn đệm…, tới khi ngay cả mông của công chúa cũng thơm tho mới chịu dừng tay.

Trong lúc đó, Hạ Lệnh Thù đã đi cùng Triệu vương phi tới Dịch đình.

Ban ngày, tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, phủ kín khắp đất đai, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng, hiện lên ánh sáng trắng trong như ngọc.

Trong Dịch đình có phòng giam dành riêng cho cung nữ và phi tần, trong ngoài đều bọc sắt, giữa khe hở còn chất đầy cát và đá, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh giá. Lâu ngày, trên tường sắt đầy những vết máu ướt rồi lại khô, mỗi khi ẩm ướt, mùi máu tanh lan tràn tới từng ngõ ngách trong phòng, ngay cả than củi đang cháy hừng hực trong lò cũng giống như máu thịt của con người.

Quảng Tiệp dư còn chưa bị định tội, thị vệ giải nàng đến đây đã biết đối phương không còn đường sống nên cũng không để nàng ta trong phòng giam mà trực tiếp đẩy vào phòng tra tấn. Ngọn lửa chiếu sáng trên vách tường, tiếng khóa sắt lại vang lên giống như sự thật và dối trá luân phiên giãy dụa, giới hạn cũng không rõ ràng.

Người tra tấn là một phụ nữ béo lùn khỏe mạnh, mặt mũi hiền lành tròn trịa, khi cười lên, ánh mắt bà ta híp lại thành một đường nhỏ, miệng rất lớn, tiếng nói ồm ồm: “Hồi bẩm nương nương, nàng ta không chịu nhận tội. Luôn nói là mình bị người khác hãm hại, nhưng khi hỏi người đứng sau là ai thì nàng ta lại lắc đầu, hỏi gì cũng không biết.”

Nữ nhi Hạ gia không phải nữ tử tầm thường, trong gia tộc có hình phòng, đương nhiên là đã nhìn thấy kiểu tra tấn như thế này rồi nên không hề sợ hãi, chỉ bảo: “Các ngươi cứ tiếp tục đi.”

Có lời này, người phụ nữ to béo dường như được tiếp sức, rút roi ở bên hông ra, “Vụt” một tiếng lên người Quảng Tiệp dư. Dáng vẻ xinh đẹp lập tức tuôn đầy máu thịt dưới tiếng roi. Quảng Tiệp dư cũng là người kiên cường, chỉ rơi lệ kêu rên nhưng không hề mở miệng xin tha, bởi vì nàng ta biết cầu xin cũng vô dụng. Chỉ không ngừng hỏi: “Hoàng thượng sao rồi?”

Hạ Lệnh Thù hỏi: “Thuốc tới từ đây?”

Nàng ta im lặng.

Tiếng roi quất lại vang lên, giữa hai chân đã thành máu thịt mơ hồ, không thể tìm được chỗ nào lành lặn. Quảng Tiệp dư rơi nước mắt: “Trước đây Hoàng thượng cho ta uống thuốc bổ, nói có thể kéo dài tuổi thọ. Ta nghĩ hoàng thượng bị bệnh, không bằng cho thuốc này vào canh, mỗi ngày để hoàng thượng uống một chút, sớm muộn gì cũng bình phục. Nào biết đâu rằng… Hoàng thượng bây giờ thế nào rồi?”

Hạ Lệnh Thù nói: “Thái y còn đang chữa trị.”

Quảng Tiệp dư lại hỏi: “Người sẽ tỉnh lại đúng không?”

Hạ Lệnh Thù tiến lên ép hỏi: “Làm sao ngươi giấu diếm được y nữ thử độc? Nếu là thuốc bổ thì vì sao ngươi không dám công khai lấy ra dùng, để Thái y kiểm chứng xong mới cho hoàng thượng uống, sao phải lén lút? Ngươi đã biết trước là Hoàng thượng uống canh bổ xong thì bệnh tình sẽ nặng hơn đúng không?”

“Không phải, không đúng!” Quảng Tiệp dư lớn tiếng phản bác, “Ta không biết.”

“Ngươi oán hận Hoàng thượng hay là oán hận ta? Hay là người câu kết với người ngoài hợp mưu giết hoàng thượng bằng thuốc độc, như thế thì ngươi được lợi gì? Làm người đứng đầu hậu cung sao? Mẫu nghi thiên hạ sao? Lúc ấy thì ai tới làm hoàng đế hả?”

“Không, ta không hề nghĩ như thế!”

“Ngươi chỉ không nghĩ thuốc người khác đưa cho ngươi là kịch độc mà thôi, đó vốn không phải là thuốc bổ, là thuốc độc. Ngươi muốn độc chết hoàng thượng!”

“Không phải!” Quảng Tiệp dư hét ầm lên, “Ta yêu người, ta không hề nghĩ tới việc hại người, người đó nói đấy là thuốc bổ, là thuốc bổ.”

Hạ Lệnh Thù hừ lạnh: “Người đó? Là ai?” Nàng vốn dĩ không cho Quảng Tiệp dư cơ hội tỉnh táo lại, lập tức rút cây trâm gài tóc trên đầu mình ra, chĩa mũi nhọn vào mắt Quảng Tiệp dư, từ trên cao nhìn xuống nàng ta: “Là người trong hoàng thất, hay là thế gia, hay là đại thận, hoặc là… Tạ…”

“Không phải, đều không phải, ta không biết gì hết!” Quảng Tiệp dư kêu to, sợ hãi vì bị bức ép đến phát điên, càng hét càng to hơn, vô cùng thê lương.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương