Hoa Tư Dẫn
-
Chương 1
Tháng tư, sắc xuân ngập tràn núi rừng, Quân sư phụ cuối cùng đã trở về sau sáu tháng biệt tăm. Có nghĩa là những vết khâu trên cơ thể tôi không lâu nữa có thể cắt chỉ.
Sáu tháng nay, toàn thân tôi bị băng bó kín. Ban đầu, tôi còn có hứng thú nhảy ra ngoài dọa đồng môn. Nhưng không lâu sau, tôi phát hiện chẳng môn sinh nào sợ hãi khi họ đã bị dọa một lần. Mà tôi lại không thể nhận ra những ai đã từng bị dọa, những ai chưa. Vậy là tôi mất hứng đi trêu mọi người.
Hai tháng trôi qua, tôi đã thấy hơi khó chịu.
Nhiều đồng môn tưởng tôi không chịu đựng nổi hàng ngày mang cơ thể quấn đầy băng, đi ngâm bốn canh giờ trong bể thuốc. Thực ra, ngâm thuốc như vậy dưỡng thương rất tốt. Chỉ có điều, sau khi ngâm, phải giữ nguyên những lớp băng ướt sũng như vậy ngồi chờ cho đến lúc khô, điều này khiến tôi vô cùng khó chịu. Sự khó chịu càng tăng khi thời tiết lạnh dần.
Về sau, tôi nghĩ phàm những anh hùng cái thế, đều phải chấp nhận những thử thách rèn luyện đặc biệt hà khắc của sư phụ. Quân sư phụ ắt là muốn giúp tôi rèn luyện bản lĩnh, nghị lực. Vì vậy, dẫu trong những ngày tháng chạp buốt giá căm căm, tôi cũng cắn răng chịu đựng, quyết không bỏ cuộc, cho dù có thể bị nhiễm thương hàn.
Kiên trì được nửa năm, qua mấy lần cảm thương hàn, quả nhiên khả năng kháng hàn của tôi tăng lên rõ rệt. Tôi nói chuyện đó với Quân sư phụ, sư phụ trầm tư giây lát, rồi hóm hỉnh trả lời: "À... ta quên không bảo con, cạnh nhà tắm có một cái lò có thể giúp vải băng trên người khô nhanh, ha ha...".
Quân sư phụ chính là tông chủ Quân Vu giáo. Quân Vu giáo lập nghiệp trên núi Quân Vu, thuộc địa phận nước Trần. Nghe nói, ông tổ khai sơn lập giáo không phải họ Quân mà là họ Vương, xuất thân nghèo khó, cha mẹ đặt tên là Vương Tiểu Nhị(*).
Về sau, Vương Tiểu Nhị được một bậc cao nhân truyền võ, sau khi thành tài, lập ra giáo phái trên núi Quân Vu. Nhưng không chiêu mộ được đệ tử tốt, hỏi ra mới biết, khi nghe danh giáo chủ Quân Vu là Vương Tiểu Nhị, mọi người đều cho rằng đó là lớp dạy nghề phụ việc, đệ tử học xong sẽ phục vụ trong các quán ăn trên khắp nước.
Vương Tiểu Nhị đành mời một ông thầy đồ gần đó đổi tên cho. Ông thầy xem xét đại thế thiên hạ, rồi phán, các họ lớn như Đông Phương, Tây Môn, Nam Quan, Bắc Đường, Thượng Quan, Mộ Dung đều đã lập giáo phái riêng; Hai họ Đông Quách và Nam Quách mặc dù chưa lập giáo, song nếu lấy họ này sẽ khó khăn trong việc giải thích lai lịch, chi bằng lấy ngay tên địa danh, lập giáo phái trên núi Quân Vu, vậy lấy họ Quân Vu, coi như sáng tạo ra một họ kép mới, họ Quân Vu.
Nhưng lại nghĩ, tạo ra họ kép phải lập hồ sơ trình quan phủ, thủ tục phức tạp, lại không có người tiến cử, chi bằng tốt nhất dùng ngay họ "Quân", vả lại họ này nghe rất khí thế, rất "quân tử". Vương Tiểu Nhị thấy có lý, bèn đổi thành họ "Quân" và nghe theo đề nghị của ông thầy, dựa theo âm cổ dịch trực tiếp hai chữ "Tiểu Nhị" thành Thiếu Song, tên đầy đủ là Quân Thiếu Song.
Sau khi Vương Tiểu Nhị đổi tên thành Quân Thiếu Song quả nhiên chiêu mộ được rất nhiều đồ đệ. Từ đó thanh thế của Quân Vu giáo mạnh dần. Quân sư phụ chính là cháu bảy đời của sư tổ Quân Thiếu Song.
Từ nhỏ tôi đã biết Quân sư phụ. Lúc đó tôi còn sống trong Thanh Ngôn tông - quốc tông của nước Vệ. Sư phụ đầu tiên của tôi là Huệ Nhất, tuổi tuy cao nhưng vẫn tráng kiện, ăn uống cũng tốt, đến món đậu phộng rang vẫn còn nhai được. Quân sư phụ đưa con trai đến sống gần Thanh Ngôn tông, ở trong một căn nhà tranh cách núi Nhạn Hồi hai dặm, thường đến chơi cờ với sư phụ tôi.
Lúc sư phụ đưa tôi lên núi ngắm mặt trời mọc, thường nghỉ lại ở căn nhà đó của Quân sư phụ. Trong nhà chỉ có một chiếc giường. Mỗi lần tôi và sư phụ đến, bao giờ tôi cũng được dành cho chiếc giường đó. Ba người còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Điều đó khiến tôi rất khoái trá, vì mỗi lần tới đó, tôi trở thành người đặc biệt.
Sau này, tôi nói chuyện đó với Quân Vỹ, con trai của Quân sư phụ. Quân Vỹ nói: "Như thế chứng tỏ có lẽ muội là một công chúa bẩm sinh, chỉ có công chúa mới thích khác người". Nhưng tôi không đồng ý với lý giải của Quân Vỹ, công chúa không phải là thích khác người, mà là quen với sự khác người. Chủ yếu là do không ai dám giống công chúa. Giữa thích và quen rất khác nhau. Điều này nhiều năm sau khi phải đối diện với cái chết, tôi mới thấu hiểu sâu sắc.
Quân Vỹ là người am tường kim cổ, anh ta biết rất rành về lai lịch những thê thiếp của hoàng đế các triều đại, thậm chí cả những người được hoàng đế ân sủng một đêm, chưa kịp rước về.
Quân Vỹ cho rằng, gia sự ảnh hưởng quốc sự, quốc sự là việc lớn của thiên hạ, mà gia sự của các bậc đế vương hầu hết là do hậu cung gây ra. Thực ra, chỉ cần các vị hoàng đế không quá ham mê nữ sắc, không nạp nhiều phi tần là sẽ không xảy ra chuyện gì. Nhưng không nạp thêm phi tần thì quả là tàn nhẫn đối với hoàng đế, hoàng đế cảm thấy không thể tàn nhẫn với bản thân, thế là họ lựa chọn tàn nhẫn với thiên hạ.
Quan điểm của Quân Vỹ là hòa hợp hậu cung của hoàng đế chính là hòa hợp toàn thiên hạ. Từ đó, cả đời anh ta tập trung suy nghĩ, làm thế nào để hòa hợp hậu cung của hoàng đế.
Ngoài đại sự cả đời đó, Quân Vỹ còn có một niềm đam mê khác. Đam mê viết tiểu thuyết. Nhưng Quân sư phụ rất không tán thành. Bởi lẽ, sư phụ mong muốn con trai sẽ trở thành một kiếm khách nổi tiếng thiên hạ. Hễ thấy anh ta viết tiểu thuyết là tịch thu bản thảo, phạt chép kiếm pháp. Thế là anh ta đành văn võ kết hợp, lén viết tiểu thuyết trong quá trình chép phạt kiếm pháp.
Trong những bản kiếm pháp Quân Vỹ chép phạt, thỉnh thoảng có đoạn đại loại như: "Mỗi ngày khi mặt trời chiếu sáng, nàng dùng đôi tay trần cởi từng lớp xiêm y, để tấm thân như men sứ lõa lồ dưới ánh mặt trời. Đó là nơi cực lạnh, nàng ngồi trên chiếc giường băng lạnh, phát ra tia sáng trắng lạnh người, lạnh, rất lạnh, vô cùng lạnh, nàng cứ ngồi khoanh chân như thế, mặt hướng về bắc, lưng quay về nam. Hơi khí vận hành đủ một vòng viên mãn. Nàng không hề biết, xa xa cách đó mười trượng, phía sau lớp lớp giậu tường vi mùa đông đang có một đôi mắt đen thẫm lần theo từng tấc da thịt nàng".
Thực ra không ai nghĩ, đó là bốn câu luận về tâm thái trong kiếm pháp: "Lúc trời lạnh nhất, ngồi trên giường băng, lõa thể mặt hướng về bắc, vận khí đủ một vòng". Sau này, Quân Vỹ trở thành kiếm khách giỏi viết tiểu thuyết nhất và tiểu thuyết gia kiếm pháp cao cường nhất.
Bản thân tôi vì lớn lên trong Thanh Ngôn tông phái, tông phái quy định đàn ông không được để tóc. Cả tông môn gần hai ngàn người, trừ tôi tất cả đều là đàn ông. Vì vậy, toàn tông môn chỉ có mình tôi để tóc dài. Điều này khiến tôi có những lệch lạc trong nhận thức đầu tiên về giới tính, trong một thời gian dài tôi cho là sự khác biệt lớn nhất giữa đàn ông và đàn bà là đàn bà thì để tóc dài, đàn ông thì đầu trọc. Thế là đương nhiên tôi cho rằng Quân sư phụ và Quân Vỹ đều là đàn bà. Cảm giác tương đồng giới tính khiến tôi trở nên thân thiết với họ.
Rất tự nhiên, sau này tôi cuối cùng cũng vỡ lẽ, cha con họ đều là đàn ông. Nhưng ý nghĩ họ là đàn bà đã thâm căn cố đế trong tôi, khiến sau này tôi không thể nào đối xử với Quân Vỹ theo tình cảm nam nữ. Luôn coi anh ta là chị em của tôi, quan hệ vốn là thanh mai trúc mã, bị tôi biến thành chỉ thuần thanh mai.
Lúc ba tuổi, vì một cơ duyên ngẫu nhiên tôi biết mình là công chúa nước Vệ, nhưng tôi thấy chuyện này cũng rất bình thường. Chủ yếu là do lúc đó tôi chẳng hiểu "công chúa" là gì. Quân Vỹ lớn hơn tôi một tuổi. Biết hơn tôi một chút, anh ta nói: "Công chúa thực ra là một tầng lớp đặc quyền". Tôi hỏi: "Đặc quyền nghĩa là gì?". Quân Vỹ trả lời: "Là mọi điều muội muốn đều có thể làm, những điều không thích có thể không làm". Nghe Quân Vỹ nói vậy, trưa hôm đó tôi dứt khoát không chịu rửa bát, buổi tối cũng không giặt quần áo, kết quả tôi bị sư phụ phạt quỳ tới nửa đêm.
Từ đó về sau, tôi thực sự quên mình là công chúa. Cũng năm đó, sư phụ thấy tôi cũng đã lớn liền dạy tôi cầm kỳ thi họa. Sư phụ cho rằng, con người ta sống trên đời nên có gì đó để gửi gắm nỗi lòng. Nguồn tại http://TruyệnFULL.vn
Nếu cầm kỳ thi họa tôi đều tinh thông đương nhiên là tốt nhất, coi như đã thành nhân tài. Hoặc nếu chỉ giỏi một trong tứ tài đó cũng tốt, ít nhất cũng là một chuyên gia. Tôi hỏi sư phụ: "Ngộ nhỡ sau này con không những không giỏi mà còn hoài nghi ý nghĩa những thứ phải học đó thì sao?". Sư phụ trầm ngâm rồi trả lời: "Triết gia, dù gì cũng là một nhà gì đó...".
Không biết tại sao, Quân Vỹ không bái sư phụ tôi làm thầy nhưng lại có thể cùng học với tôi. Sư phụ giải thích là học thuật vốn không biên giới, không phân biệt sư môn. Quân Vỹ lại bí mật tiết lộ với tôi, đó là do cha anh ta đã tặng sư phụ mười cây nhân sâm nghìn tuổi.
Quả nhiên, học thuật là không biên giới, biên giới quốc gia cũng có thể mua được. Học cùng với Quân Vỹ, lúc tập viết chữ còn có thể chịu được, nhưng lúc học đàn thì tôi thực sự khó chịu. Lúc đầu, chúng tôi mỗi người một cây đàn, ngồi đối diện ở hai đầu phòng, cùng chơi đàn. Hậu quả trực tiếp là ở cái tuổi tôi còn chưa hiểu tại sao dư âm của nó có thể dai dẳng ba ngày không dứt, điều đầu tiên tôi hiểu là tại sao tiếng đàn như quỷ ám đó có thể khiến người ta như bị cắn xé, tan nát cõi lòng.
Chúng tôi mỗi người đều cảm thấy người kia chơi quá tuyệt, làm cho mình đau khổ, lại càng cố tạo ra âm thanh diệu kỳ khiến người kia càng đau khổ để trả thù. Cây đàn trong ấn tượng của tôi là một hung khí, không phải nhạc cụ. Điều đó cũng lý giải vì sao tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn mà mãi mãi không học được cách dùng tiếng đàn để cứu người, đó hoàn toàn là ám ảnh tâm lý Quân Vỹ tạo cho tôi. Nhưng sau khi tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn, muốn dùng tiếng đàn để cứu người thì tất cả đã chết.
Lúc mười tuổi, tôi nhặt được một con hổ con vừa mở mắt. Con hổ đó theo tôi suốt đời, thể hiện lòng trung thành tột bậc của một con dã thú. Mặc dù nghĩ lại hồi đó, tôi và Quân Vỹ nhặt con hổ đó chẳng qua chỉ vì định giết thịt nó. Đúng lúc cha Quân Vỹ bị sư phụ tôi thuyết phục, quyết làm một người bảo vệ động vật, khiến Quân Vỹ ba tháng liền không biết tới mùi thịt. Còn tôi sống trong tông phái cũng ít ăn thịt, đúng lúc chúng tôi thèm thịt nhất.
Sau này, không ăn thịt con hổ đó hoàn toàn là do chúng tôi thấy có thể nuôi nó lớn hơn chút nữa, như vậy thịt mới có thể làm được nhiều món khác nhau. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó tôi có thể kìm chế cơn thèm, không giết Tiểu Hoàng đúng là một việc đáng khâm phục. Tiểu Hoàng là tên con hổ đó. Sau này, khi đã tìm hiểu kỹ tôi phát hiện con hổ đó thuộc loài hổ quý. Tôi và Quân Vỹ đều rất vui, bởi vì bán nó có thể kiếm được món tiền to. Nhưng khổ nỗi không tìm được người mua, đành giữ nó lại.
Đến khi chúng tôi tìm được người mua, thì cả hai đã lớn, chúng tôi cũng dần dần có tiền, không cần phải trông vào tiền bán hổ nữa. Điều đó khiến chúng tôi không khỏi than thở, đời người là vậy, con đường phát tài sao mà gian khổ.
Số mệnh đã an bài mỗi lần tôi gặp chuyện lớn đều chỉ có một mình, hơn nữa còn bị thương. Sư phụ nói, "Con đã nghe nói chưa, ông trời đặt trọng trách lên vai người nào, trước tiên cũng đều thử gân cốt người đó...". Tôi có thể tưởng tượng, trọng trách lớn nhất mà ông trời có thể đặt lên vai tôi chắc chắc không ngoài khả năng sau khi sư phụ qua đời, tiếp nhận tông y, trở thành tông chủ. Nhưng về sau, Quân Vỹ lén lấy tông quy cho tôi xem, trong đó quy định rõ, nữ nhi và phù thủy không được đảm nhận chức vụ trong quốc tông, thế là giấc mộng của tôi tan thành mây khói.
Nhiều người sau khi vỡ mộng thường đi vào tà đạo. Dưới chân núi cũng có một thích khách do mưu việc lớn không thành mà lưu lạc giang hồ, sau chuyển nghề mổ lợn. Lại có nho sinh do hỏng thi mà chuyển sang viết tiểu thuyết dâm ô, vẽ tranh khiêu dâm. Nhưng trước sau tôi vẫn cho rằng, mơ mộng và lấy vợ cũng gần như nhau, cái cũ chưa qua, cái mới sao đến được, hơn nữa cái mới thường tốt hơn cái cũ, mộng cũ tan vỡ là để xây mộng mới. Đó là việc đáng mừng, có gì đáng chán nản.
Tôi chia sẻ suy nghĩ này với Quân Vỹ, anh ta cũng cho là có lý. Thế là buổi chiều anh ta hăm hở xuống núi an ủi Vương Mục Tượng, người đàn ông vừa mất vợ: "Vợ mất thì sớm muộn cũng có người đàn bà mới đến với anh. Vợ mới chắc chắn tốt hơn vợ cũ. Đó là một việc đáng mừng. Anh cứ vui lên, việc gì phải đau lòng". Hậu quả là bị Vương Mục Tượng vác chổi đuổi đánh, Quân Vỹ không thể giải thích được gì, thậm chí còn thấy bị tổn thương. Tôi đành an ủi anh ta: "Người đời thường tỏ ra tức giận khi chân tướng bị bại lộ để che đậy nỗi xấu hổ trong lòng".
Trong cái đêm giấc mộng trở thành tông chủ tan vỡ, tôi dự định lúc trời sẩm tối sẽ ra ngoài, vào rừng bẫy chim để thay đổi tâm trạng, tìm cảm giác mới mẻ, dệt giấc mơ mới, lấy lại niềm tin. Có thể thấy, tôi thực sự là một người theo chủ nghĩa tích cực.
Ngoài ra, tính cách tích cực đó còn thể hiện trong cuộc sống riêng tư của tôi. Ví dụ, tôi không bao giờ hoài nghi, một ngày nào sau này tôi có chồng, chẳng may anh ta mất sớm, tôi sẽ không ngần ngại thu dọn hành trang ra đi ngay trong đêm anh ta tắt thở, đi tìm người chồng mới.
Nhưng cho tới cái đêm tôi bị lây cảm cúm từ Quân sư phụ, vẫn quen cho rằng người chồng tương lai của mình là Quân Vỹ, thấy anh ta vô tư nhảy nhót trước mặt mình, tôi thầm nghĩ: Ôi trời, sao mình có thể lập tức đi tìm hạnh phúc mới khi con người này vừa tắt thở?
May mà suy nghĩ đó chỉ kéo dài đến cái đêm giữa hạ khi tôi mười bốn tuổi, đêm dự định xây lại giấc mơ đó.
Về cái đêm giữa hạ đó, có bao nhiêu mỹ tự để mô tả, nhưng chân thực nhất chính là ba chữ: quá tàn nhẫn. Nghe nói trong đêm giữa hạ, rắn độc đặc biệt trở nên hung dữ. Trong tông môn đã có ba người bị rắn độc cắn khi đi ra ngoài vào ban đêm, mong những người khác cảnh giác, phải cẩn thận hơn khi ra ngoài.
Khi còn nhỏ, tôi luôn tin rằng mình là người đặc biệt, sẽ không giống ba người bất hạnh kia, lần ra ngoài đó không mang theo hùng hoàng(*). Bây giờ nghĩ lại, ba người trong tông môn chết vì bị rắn độc chắc cũng nghĩ rằng mình đặc biệt. Con người ta ai cũng cho rằng mình đặc biệt, thực ra trong mắt người khác chẳng có gì đặc biệt, trong mắt rắn độc lại càng không có gì đặc biệt.
Có lẽ đối với loài rắn độc, chỉ có người mang theo hùng hoàng thì mới đặc biệt. Lúc còn nhỏ, chúng ta thường muốn tỏ ra khác người, lúc trưởng thành lại muốn giống mọi người. Nếu có thể ngược lại, chẳng phải quá tốt hay sao, chí ít tính mạng của ba người trong môn phái cũng được bảo toàn, cho dù trở thành người thực vật. Nhưng tôi lại không mang theo hùng hoàng, rõ ràng rắn độc thấy tôi chẳng có gì đặc biệt
Một con rắn xanh, đuôi nhỏ, mồm có viền trắng đớp vào chân tôi một cái, chất độc ngấm vào máu truyền khắp cơ thể. Tôi lảo đảo một lúc, dần dần ngã gục, vào lúc ý thức mơ hồ, cuối cùng tôi hiểu ra đạo lý tôi đã nói ở trên. Tôi lại còn nhớ đến hai bức tranh vẽ ngôi cổ tự trong núi mà tôi phải vẽ hai ngày mới xong, không biết đã được bồi dán chưa, sau khi nhớ lại, cảm thấy chẳng có gì lưu luyến, có thể yên tâm nhắm mắt, tôi dần dần thanh thản nhắm mắt, rồi không mở ra được nữa .
Đúng lúc đó, có tiếng giày đạp trên lá khô lạo xạo vẳng lại mỗi lúc một gần, cuối cùng dừng lại bên tôi, ôm lấy tôi, thoảng ngửi thấy mùi hương mai thanh lạnh, có thể hình dung ra trong đêm thanh vắng dưới muôn ánh sao sán lạn, hoa mai tháng hai nở đầy các triền núi.
Lúc tỉnh dậy, cảm thấy huyết dịch sôi sục trong người, chảy xuống tụ ở vùng bụng, tay sờ lên bụng, từng trận đau âm ỉ. Gót chân chỗ bị rắn cắn tê cứng, chạm vào vật gì mềm mềm âm ấm, đầu gối hơi co, bắp chân như bị treo trên không. Toàn thân cảm giác kỳ dị như vậy, tôi không chịu được, muốn mở mắt xem có chuyện gì. Vừa mở ra, thấy ngay một cảnh tượng khủng khiếp. Đó là cảnh trong hang núi, tôi nằm trên chiếc giường đá, dưới ánh trăng bàng bạc, chân phải bị một người đàn ông nắm chặt. Ngón tay mảnh khảnh, trắng muốt, miệng anh ta ngậm chặt vết thương ở gót chân tôi. Tôi chỉ nhìn được phía đó, phía bên kia đã bị món tóc xõa che khuất, khiến tôi chỉ muốn vén tóc anh ta để nhìn cho kỹ. Anh ta không biết tôi đã tỉnh, toàn thân anh ta y phục đen tuyền, lặng lẽ ngồi cạnh mép giường, miệng vẫn ngậm chặt gót chân tôi. Ống tay áo dài rộng trùm trên chân tôi, cúi đầu, có thể nhìn thấy những đường viền hoa văn cùng màu ở cổ tay.
Mọi vật xung quanh mờ mờ, không thể nhìn rõ. Món tóc đen mướt xõa xuống, chạm vào chân tôi. Trộm nghĩ nếu cả hai không ở tư thế kỳ quặc như vậy, sự hội ngộ giữa một thiếu nữ xinh đẹp và một chàng công tử hào hoa sẽ bay bổng lãng mạn như nét chữ thảo của nhà đại thư pháp. Tự nhiên, tôi cảm thấy đang bị người ta cợt nhả, liền thuận thế đạp cho anh ta một cái. Cú đạp quá mạnh, khiến máu ở chỗ kín trong người ục ra.
Tôi và người đó lần đầu gặp nhau, tôi đạp anh ta một cái, hậu quả là bật ra máu tháng đầu tiên.
Anh ta đương nhiên không bị đạp ngã, nhìn thấy tôi ra chân, anh ta lập tức lùi về sau, có thể thấy anh ta phản ứng rất nhanh. Còn tôi hoàn toàn không nhận ra rút cục anh ta làm thế nào đang từ tư thế ngồi chuyển sang tư thế đứng. Tôi nheo mắt nhìn anh ta, dưới ánh trăng màu bạc rọi vào cửa hang, dáng người anh ta to cao thẳng tắp, một chiếc mặt nạ màu bạc che nửa khuôn mặt bắt đầu từ sống mũi tới trán, phía dưới là đôi môi mỏng lạnh lùng, hàm dưới là một đường vòng cung tuyệt đẹp.
Một thoáng yên lặng.
Anh ta lau vết máu dính trên môi, nhếch mép: "Ghê gớm thật, tôi cứu cô, vậy mà cô lấy oán trả ơn".
Nhưng cơ thể ra quá nhiều máu khiến tôi hoảng sợ, không thể giải thích được gì, đột nhiên òa khóc. Trong khi khóc, vùng bụng vận động quá mạnh, khiến váy tôi dần dần ướt hết, máu trào từng đợt, càng lúc càng nghiêm trọng. Nhưng tồi tệ nhất là, hôm đó tôi mặc váy trắng. Ánh mắt anh ta bắt đầu hướng vào chiếc váy của tôi, ngập ngừng một lát, anh ta hỏi: "Nước hồi à?".
Tôi nức nở: "Cám ơn, tôi không khát. Nhưng có lẽ tôi bị xuất huyết, sắp chết rồi".
Anh ta tiếp tục chú ý tới chiếc váy của tôi, chặc lưỡi một tiếng: "Cô không chết đâu, chỉ là thấy nước hồi mà thôi".
Tôi không hiểu: "Nước hồi là gì?".
Anh ta lưỡng lự một lát: "Chuyện này mẹ cô nên nói với cô chứ".
Tôi nói: "Anh à, tôi không có mẹ, anh hãy nói với tôi đi".
Thật khó tưởng tượng, tôi nhận được toàn bộ kiến thức về "nước hồi" từ một người đàn ông xa lạ. Nhưng càng khó tưởng tượng nếu sư phụ đích thân nói với tôi là, "Nước hồi chính là tử cung xuất huyết có quy luật, theo chu kỳ...". Ngay ông trời cũng cảm thấy như vậy là làm khó cho một ông lão bảy mươi chín tuổi, nên đã không để cho ông phải nói.
Anh ta bảo tên anh ta là Mộ Ngôn. Đương nhiên đó không phải là tên thật. Nếu một người đeo mặt nạ, thì cái tên tất nhiên cũng sẽ là tên giả, nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc giấu mặt.
Tôi nói với anh ta tôi tên là Quân Phú Quý, hoàn toàn chỉ là do lo sợ, biết đâu con người này là kẻ thù của cha tôi. Một khi biết tôi là con gái của ông rất có thể hắn sẽ giết tôi để rửa hận. Trong lịch sử đã có những bi kịch như vậy, rất nhiều công chúa bị liên lụy, mất mạng, nếu không cũng bị ép gả cho người nào đó, để rồi sống trong hôn nhân bất hạnh.
Vậy là, chúng tôi ở bốn, năm ngày trong hang núi, uống nước suối bên ngoài, ăn các loài cá dưới suối. Tôi không thể về nhà ngay được vì chất độc còn chưa giải hết, bởi vì Mộ Ngôn cho rằng, đã cứu người phải cứu tới cùng, cũng như tiễn Phật phải tiễn đến tận Tây Thiên, làm nửa vời không phải là tính cách của anh ta.
Hằng ngày tôi đều phải uống một loại thuốc, sau đó chích cổ tay lấy ra nửa cốc máu. Khi tôi chích máu, Mộ Ngôn thường ngồi trên phiến đá trước giường chơi đàn. Đó là một loại đàn bảy dây, dây được làm bằng tơ tằm, mỗi lần gảy phát ra những âm thanh tròn mượt. Mỗi lần Mộ Ngôn chơi đàn đều khiến tôi nhớ tới Quân Vỹ và tiếng đàn khiến người ta chỉ muốn chết ngay cho xong của anh ta. Rồi lại thấy tiếc là anh ta không được nghe tiếng đàn tuyệt diệu của người ngồi trước mặt tôi, để anh ta xấu hổ mà tự sát, không dám đầu độc tôi bằng tiếng đàn của mình nữa.
Trong năm ngày, tôi thực sự rất muốn lật mặt nạ của Mộ Ngôn, để xem rốt cuộc mặt mũi anh ta thế nào. Nhưng cứ nghĩ tới làm vậy có thể bị anh ta chém chết, lại không dám động đậy. Cũng chỉ hiếu kỳ mà thôi, có lúc chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng vẫn muốn làm cho rõ, đúng là bới việc ra làm.
Buổi chiều ngày thứ sáu, vết thương ở chân tôi cũng đã khá hơn nhiều, có thể đi lại được. Mộ Ngôn dặn tôi: "Không cần phải chích máu nữa, sáng sớm mai tôi sẽ đưa cô về".
Không ngờ lại chia tay nhanh như vậy, quan trọng là tôi vẫn chưa lật được mặt nạ của anh ta, tôi nhất thời không chịu được, đứng chôn chân tại chỗ. Anh ta hỏi: "Sao, chưa muốn đi hả?".
Tôi lắc đầu trả lời: "Không phải, không phải. Nhưng mà, anh không đi với tôi sao? Cái hang núi này làm gì có nhiều đồ, anh cũng đâu phải sẽ sống mãi ở đây".
Anh ta trầm ngâm trả lời: "Tôi không đi được, tôi phải ở lại đây".
Tôi nói: "Nhưng anh ở lại đây làm gì? Anh có một mình, ở lại đây chẳng có ai nói chuyện với anh, chẳng có ai nghe anh đàn".
Anh ta gục đầu trên cây đàn: "Tôi phải đợi một người, e là nếu tôi đi, người tôi cần đợi sẽ không tìm thấy tôi".
Tôi lập tức cảm thấy bối rối, nếu tiếp tục hỏi sợ rằng can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư của anh ta, nhưng nếu không hỏi sẽ mãi mãi không biết câu trả lời. Tôi nói: "Chuyện này...".
Anh ta đứng dậy, cười: "Nói đến là đến, hôm nay có thể là ngày may mắn".
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook