Hậu Cung Chân Huyên Truyện
-
Quyển 4 - Chương 29: Rong chơi mạn Bắc
Giữa tiết thu se lạnh, Huyền Thanh giục ngựa đi tới, hưng phấn nói: “Hoàng huynh vừa cho phép ta lên miền Bắc du ngoạn hai tháng, ta đã chuẩn bị xong hành trang rồi, chúng ta cùng đi nhé!”
Tôi ngẩn người. “Huynh lên miền Bắc ngao du, sao muội có thể đi theo được?”
Y cười đáp: “Ta xưa nay vẫn luôn độc lai độc vãng, vi hành ra ngoài, có ai biết ta là vương gia chứ. Còn hoàng huynh, từ sau khi có được tân sủng Phó thị, huynh ấy đâu còn thời gian rảnh mà để ý tới người khác nữa. Lần này ta chỉ mang theo mình A Tấn, chúng ta sẽ cùng nhau du ngoạn Thượng Kinh, nàng thấy thế nào?”
Tôi có chút do dự. “Nhưng muội mình mặc áo ni cô, còn đang tu hành nữa.”
Cận Tịch đứng bên cười, nói: “Nương tử ngày ngày ngồi không ở đỉnh Lăng Vân này thực là bí bách lắm, cứ ra ngoài vui chơi cho khuây khỏa cũng hay. Dù sao chúng ta cũng ở riêng bên ngoài, ai mà biết được nương tử có còn ở đây không. Chỉ cần thay áo ni cô ra là được, chúng ta vẫn còn rất nhiều quần áo cũ từ ngày xưa mà, mặc vào rồi há chẳng phải sẽ giống một nữ tử bình thường sao?”
Hoán Bích cũng mỉm cười, nói: “Bên cạnh tiểu thư không thể không có người hầu hạ, chi bằng hãy mang theo cả nô tỳ nữa.”
A Tấn cười hì hì, vỗ tay nói: “Bích cô nương hầu hạ nương tử, A Tấn ta hầu hạ Vương gia, bốn người chúng ta cùng đi với nhau là tuyệt nhất.”
Cận Tịch ôn tồn nói: “Nương tử và Hoán Bích cô nương cứ đi đi, nô tỳ ở lại đây trông nhà. Tới Thượng Kinh vào mùa này là hợp nhất đấy, phong cảnh đang rất đẹp.”
Trong mắt Huyền Thanh tràn ngập nét cười. “Chúng ta chưa từng ra ngoài chơi với nhau bao giờ đâu đấy, nàng có bằng lòng không?”
Đại Chu hồi mới lập quốc đã từng định đô ở Dương Kinh mười hai năm nên nơi đó còn có tên là Thượng Kinh, cách kinh đô Trung Kinh hiện giờ khoảng chừng ba trăm dặm. Đại Chu năm Kiến Nguyên thứ mười, tộc Hách Hách ở miền Bắc liên tục đưa quân xâm phạm khu vực phụ cận Thượng Kinh, trong lần tồi tệ nhất, Tế Cách Khả hãn của tộc Hách Hách thậm chí còn dẫn theo năm ngàn tinh binh đánh thẳng tới Nhạn Minh quan, cửa ải cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.
Nhạn Minh quan tây giáp sông Hi Lăng, phía nam gần địa giới Dương Kinh, phía bắc có Chỉ Tiên quan nối liền với sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay luôn là vùng đất nhà binh ắt phải tranh đoạt. Bên ngoài núi Lạc Thiết là một vùng thảo nguyên và sa mạc mênh mông, toàn bộ là lãnh địa của người Hách Hách. Do đó Nhạn Minh quan là vùng yếu địa bảo vệ giang sơn Đại Chu trước sự tấn công của tộc Hách Hách, quan trọng vô cùng. Vì cửa quan đó được dựng ở nơi hiểm trở, dễ thủ khó công, ngẩng đầu là gần như có thể chạm tới trời, ngay đến chim nhạn cũng khó lòng bay qua được, mỗi lần đến cuối thu lại thường xuyên nghe thấy từng đàn chim nhạn bay lòng vòng xung quanh mà cất tiếng hót bi thương, do đó mới có tên là Nhạn Minh quan. Thế nhưng không chỉ chim nhạn mới cất tiếng hót bi thương, cuộc sống của người dân xung quanh Nhạn Minh quan cũng kham khổ vô cùng. Tộc Hách Hách vốn sống ở phương Bắc, thường xuyên di cư theo nguồn nước và thảm cỏ, khi nào nước đầy cỏ rậm thì còn đỡ, một khi tới mùa thu nước cạn cỏ khô, sự ấm no của bộ tộc bị đe dọa, bọn họ sẽ xua quân xuống miền Nam, băng qua núi Lạc Thiết mà chém giết cướp bóc, khiến dân cư Đại Chu nơi biên thùy cửa nhà bị hủy, gặp hồi chiến loạn liên miên, khổ sở không lời nào tả xiết.
Năm Kiến Nguyên thứ mười vừa khéo xảy ra một cơn đại hạn, ngàn dặm thảo nguyên tươi tốt của người Hách Hách biến thành một vùng hoang vu, vào thu chỉ chừng mười ngày thời tiết đã biến đổi hẳn, trở nên giá lạnh vô cùng, vài ngày sau thì tuyết rơi, băng dày ba thước. Người Hách Hách vì muốn giữ vận nước, duy trì sự sinh tồn của bộ tộc, liền dốc hết quốc lực mà xua mười vạn đại quân đánh xuống miền Nam.
Khi đó Đại Chu cũng đang trong cơn hạn hán, lại vừa phải trải qua mấy năm chinh chiến liên miên, đất nước đang cần có thời gian phục hồi nguyên khí, sức nước suy yếu vô cùng, vấn đề lương thảo ở nơi biên ải khó lòng giải quyết, đã thế lại gặp cơn tuyết lớn, tướng sĩ giữ ải không ai ngờ được giữa trời tuyết lớn mênh mang lại thình lình có mấy vạn thiết kỵ Hách Hách xông ra, thế là tất cả chỉ biết trợn tròn mắt há hốc miệng, ngơ ngác nhìn nhau, để mặc cho vó ngựa của đối phương tràn xuống phía Nam.
Nếu Nhạn Minh quan bị phá, Thượng Kinh e chẳng còn gì che chắn, hoàn toàn hé lộ trước mặt kẻ địch. Thái Tổ chinh chiến mất mười mấy năm mới giành được một mảnh giang sơn gấm vóc, vậy mà tưởng như sắp rơi vào tay lũ giặc man di tới nơi, lập tức lòng người cả nước đều hoang mang khôn tả, thậm chí có người còn khuyên Thái Tổ lui xuống bờ Nam sông Trường Giang, giữ lấy một nửa giang sơn để giằng co với người Hách Hách.
Trong cơn nguy cấp, may mà có Đại tướng Tề Bất Trì chẳng ngại mang tấm thân già nua đã chinh chiến sa trường nửa đời người, khoác áo giáp trở ra chiến trận, với tuổi lục tuần mà vẫn xung phong đi trước sĩ tốt, một mũi tên bắn xuyên qua vai Tế Cách Khả hãn, khiến hắn ngã ngựa, qua đó quét sạch sự ủ dột của tướng sĩ Đại Chu, đồng thời cũng làm cho sĩ khí quân Hách Hách suy giảm hẳn, không còn dám tiến lên phía trước nữa.
Tháng Mười một năm Kiến Nguyên thứ mười, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly lại một lần nữa dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, Tề Bất Trì cầm quân phòng thủ, cho xây dựng tường lũy bên phải cửa quan, đặt tên là Diệt Hách Bình, đồng thời lại chọn nơi hiểm yếu dựng thêm cửa ải, thiết lập đạo phòng tuyến thứ hai, sẵn sàng chờ đợi. Tháng Mười hai cùng năm, Tề Bất Trì và quân Hách Hách giao chiến mấy ngày, rốt cuộc không giữ được, phải lùi về đạo phòng tuyến thứ hai. Tướng sĩ Hách Hách mình mặc giáp dày, dùng móc sắt leo lên tường thành không ngớt, Tề Bất Trì và đệ đệ là Tề Bất Thoái đốc quân tử chiến, dùng cung cứng nỏ mạnh giết chết rất nhiều quân địch, nhưng thế công của đối phương vẫn không suy giảm, Tề Bất Trì sai bộ tướng Mộ Dung Chính dẫn theo một cánh quân tinh nhuệ, dùng đao dài búa lớn tấn công vào hai cánh trái phải của quân Hách Hách, qua đó phá tan nhuệ khí quân địch. Ngày mùng Một tháng Giêng năm Kiến Nguyên thứ mười một, Tề Bất Trì cho đốt núi Lạc Thiết, gõ trống trận vang trời, xuất quân phản kích, lại phái các tướng Vương Hỉ, Vương Vũ tấn công vào đại doanh quân Hách Hách. Đại quân Hách Hách trong cơn kinh hãi đã bˠđánh cho luống cuống chân tay, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly chiến tử, Tế Cách Khả hãn bị thương chưa lành phải dẫn quân tháo chạy, nửa đường vết thương tái phát mạng vong. Tề Bất Trì thừa thế sai Mộ Dung Chính dẫn quân truy kích, giết được hơn vạn tên địch, làm máu chảy thành sông; lại phái Tề Bất Thoái chặn một cánh phục binh trên con đường mà quân Hách Hách ắt phải đi qua khi trốn về nước, tập kích quân Hách Hách thêm lần nữa. Sau trận này, quân Hách Hách đã bị ép phải lùi về đến đô thành Tàng Kinh.
Tề Bất Trì chinh chiến cả đời, kiên trinh can đảm, rốt cuộc vào tuổi sáu mươi đã dựa vào chiến công ở Nhạn Minh quan mà được phong hầu bái tướng, trở thành vị võ tướng tước hầu đầu tiên của triều Đại Chu, Định Huân Hầu. Thái Tổ sai họa sĩ giỏi vẽ lại chân dung ông, cho treo trong Dương Dực điện kề bên Thái miếu ở Thượng Kinh, lưu danh sử sách. Thậm chí năm đó ở vùng phụ cận núi Lạc Thiết, nếu có đứa trẻ nào bướng bỉnh gào khóc không ngơi, người lớn chỉ cần dọa một câu: “Tề Bất Trì tới rồi!”, đứa bé đó ắt sẽ nín bặt, không dám quấy khóc thêm nữa.
Đáng tiếc, ông trời chẳng tha cho ai, sau khi được phong tước ba tháng, Tề Bất Trì đã kiệt sức qua đời, ngậm cười nơi chín suối. Về sau, hậu nhân của ông tuy bị Thái Tông dùng vinh hoa phú quý mà tước đi binh quyền, không còn nắm trong tay thiên binh vạn mã của Đại Chu nữa, thế nhưng gia tộc vẫn hiển hách vô cùng, trải trăm năm không suy chuyển. Nhưng tới năm Càn Nguyên của bản triều, dòng họ Tề nhân đinh dần trở nên thưa thớt, gia tộc cũng theo đó mà suy bại. Thế nhưng dù sao cũng là gia tộc đã sừng sững trăm năm, dư uy của bọn họ vẫn còn, không ai dám xem nhẹ. Hậu nhân của Tề Bất Trì chính là Đoan Phi Tề Nguyệt Tân trong cung hiện nay, đây cũng là nguyên nhân Tề Nguyệt Tân từ nhỏ đã được nuôi trong thâm cung để Huyền Lăng chọn làm phi tần.
Mấy năm sau khi Tề Bất Trì qua đời, tin tức vẫn bị triều đình Đại Chu phong tỏa chặt chẽ. Người Hách Hách trong trận Nhạn Minh quan không chỉ bị mất nguyên soái và mấy vạn binh sĩ, ngay cả Khả hãn cũng bỏ mạng giữa đường, do đó rất sợ uy danh của Tề Bất Trì, thêm vào đó, nguyên khí tổn thương rất nặng, suốt mấy năm liền không dám có hành động gì với Đại Chu, một mực yên phận giữ mình. Không lâu sau, Đại hãn Hách Hách đời kế tiếp là Anh Cách đưa ra đề nghị giải hòa với Đại Chu, đồng ý lấy núi Lạc Thiết làm biên giới, xây dựng chợ Hỗ Thị để tiến hành mậu dịch, dùng trâu bò ngựa dê đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng với lương thực từ Đại Chu, hai bên tự phòng thủ biên giới của mình, mãi mãi không xâm phạm lẫn nhau.
Sau khi Tề Bất Trì qua đời, Đại Chu kỳ thực đã chẳng còn bao nhiêu binh lực để mà điều động, thêm vào đó trận Nhạn Minh quan đã làm quốc lực tổn hao nặng nề, không có vài năm thì đừng hòng hồi phục, do đó thấy Hách Hách đến nghị hòa thì lập tức đồng ý. Thế rồi hai bên Đại Chu và Hách Hách đã tiến hành uống máu ăn thề tại con sông biên giới, sử sách gọi đây là “Hội thề Hà Trì”.
Đại Chu và Hách Hách cùng cho dựng bia ở Thượng Kinh và Tàng Kinh, bên trên khắc rõ các việc có liên quan tới hội thề. Trong hội thề, hai bên đã đồng thời bày tỏ Đại Chu và Hách Hách là huynh đệ một nhà, từ nay về sau sẽ coi nhau như một, cùng giữ biên cương, vĩnh viễn không xâm phạm lẫn nhau để dân chúng được an cư. Ngoài ra hai bên còn bàn bạc các hạng mục trong việc xây dựng Hỗ Thị, ước định bên Hách Hách sẽ dùng các vật như vàng bạc, ngựa dê, da sống, đuôi ngựa để trao đổi, còn bên Đại Chu sẽ dùng các vật như lá trà, tơ lụa, nồi niêu, lương thực để trao đổi; đồng thời lại cho thiết lập Trà Mã ty, chuyên quản việc buôn bán trao đổi giữa hai bên.
Thế nhưng tình cảnh quân Hách Hách tấn công vào năm Kiến Nguyên thứ mười khiến Thái Tổ không sao quên được, nên vào tháng Một năm Kiến Nguyên thứ mười hai, Thái Tổ đã dời đô tới Trung Kinh bây giờ, cho xây dựng Tử Áo Thành để ở, lại gia phong Mậu Thành Quận chúa làm Kim Sơn Công chúa, gả cho Anh Cách Khả hãn làm Đại phi chính thất. Trăm năm qua, tuy vùng biên giới Đại Chu và Hách Hách thỉnh thoảng vẫn phát sinh chút xung đột nhỏ, nhưng rốt cuộc cũng có được trăm năm bình yên, không còn cảnh chiến tranh tàn khốc nữa.
Lúc này, tôi và Huyền Thanh đang dắt tay nhau du ngoạn Thượng Kinh, giả trang làm một cặp vợ chồng bình thường. Tôi vận một chiếc áo lụa màu hồng, lại kết hợp với một chiếc váy gấm dài màu vàng nhạt, Huyền Thanh thấy giờ đang tiết trời thu, liền tiện tay khoác thêm cho tôi một chiếc áo ngoài. Tôi ngồi chăm chú, ngó nhìn vào gương một hồi, không kìm được cười, nói: “Màu sắc thật tươi vui quá chừng.” Huyền Thanh vận một chiếc áo gấm dài màu xanh nhạt, lại càng tôn lên thân thể cao lớn và khí độ ung dung, dịu êm tựa như ánh trăng xuân tháng Ba chiếu xuống nhành dương liễu.
Tôi ngoảnh đầu chăm chú nhìn y, khóe môi hơi nhếch lên, mang theo mấy phần tình ý, khẽ nở nụ cười. “Sao tự nhiên huynh lại chọn mặc màu này thế?”
Huyền Thanh đặt tay lên vai tôi, khiến dáng người vốn thuộc tầm trung của tôi bất giác có vẻ nhỏ nhắn đi nhiều. “Nàng mặc áo màu hồng, ta liền chọn áo màu xanh, hai màu sắc này rất hợp nhau, khiến bầu không khí càng thêm vẻ tươi vui.”
Hoán Bích lúc này đang bưng hộp đồ trang sức trên tay, sau khi chăm chú ngắm nghía tôi và Huyền Thanh một hồi, đột nhiên ngoảnh đầu đi chỉnh trang quần áo, không nhìn chúng tôi nữa, chỉ hờ hững cười, nói: “Tiểu thư và công tử thế này, nhìn cứ như một cặp vợ chồng mới cưới đang chuẩn bị ra ngoài dạo chơi vậy.”
Tôi thoáng cảm thấy giờ đây nụ cười của Hoán Bích ngày một hờ hững hơn, tựa như vầng trăng ẩn sau lớp mây thưa, dù có đôi chút ánh sáng chiếu xuống cũng vô cùng mờ ảo. Hơn nữa, muội ấy còn rất thích cúi đầu, tính tình thì ngày càng điềm đạm, ít nói.
Huyền Thanh nghe vậy thì tỏ ra hết sức mừng rỡ, lập tức ngoảnh lại cười, hỏi: “Thật sự rất giống sao?”
Hoán Bích hơi cúi đầu, cất giọng dịu dàng nói: “Nếu tự bản thân công tử cảm thấy giống, như vậy người ngoài ắt sẽ càng thấy giống.”
Tôi khẽ chọc vào tay Huyền Thanh một cái, hai má đỏ bừng, bật cười khúc khích. “Làm gì có ai đi hỏi như vậy chứ, không biết xấu hổ gì cả. Hoán Bích đang trêu huynh đấy!”
Huyền Thanh lộ ra bộ dạng nghịch ngợm như trẻ con, ung dung nói: “Ta thật sự thấy rất giống mà.”
Nghe y nói như vậy, tôi lại càng xấu hổ, liền không thèm để ý tới y nữa mà kéo tay Hoán Bích qua một bên hỏi: “Lâu lắm không ăn mặc thế này rồi, một nữ tử bình thường nên bới kiểu tóc thế nào đây nhỉ?”
Hoán Bích khẽ nở nụ cười. “Tiểu thư đã muốn cùng Vương gia đóng giả làm vợ chồng tân hôn ra ngoài chơi, vậy tất nhiên phải bới hết tóc lên thành một búi lớn rồi.” Vừa nói, Hoán Bích vừa nhanh nhẹn chải tóc, bới tóc giúp tôi mới bới được một nửa thì lại chợt chăm chú suy tư, sau đó liền gỡ ra mà bới cho tôi một kiểu tóc bình thường, cuối cùng dùng một cây trâm vàng để cố định. Cây trâm đó làm bằng vàng ròng, được đính hai viên minh châu to bằng đầu ngón tay cái, trắng lóa tròn xoe, lấp lánh phát sáng, vô cùng bắt mắt. Hoán Bích ngắm nghía một chút, lại đi chọn thêm đồ trang sức chuẩn bị cài lên cho tôi. Lúc này, chậu thu hải đường đặt dưới cửa sổ đang nở hoa rạng rỡ, có điều đây chỉ là loại thu hải đường bình thường nơi dân gian, tất nhiên không thể so sánh với những giống hoa trân quý nơi cung đình, cánh hoa lốm đốm màu hồng phấn, đượm nét vui tươi. Huyền Thanh hái lấy một cành hoa cài lên búi tóc tôi, sau đó liền mỉm cười nhìn tôi chăm chú, ánh mắt tràn ngập vẻ quyến luyến, yêu thương.
Hoán Bích coi như không nhìn thấy, sau một hồi chọn lựa đã chọn được mấy bông hoa cài đầu hình hoa mai làm bằng phỉ thúy và cẩn thận cài lên mái tóc cho tôi.
Tôi soi mình trong gương, chiếc áo màu hồng rạng rỡ làm tôn lên khuôn mặt vui tươi như tia nắng mùa xuân của tôi, khiến toàn thân tôi tràn đầy sức sống, dường như tôi chưa từng nhìn thấy mình như thế này bao giờ. Tôi và y đứng kề vai nhau, trên chiếc gương đồng có khắc hình một cặp uyên ương vờn nước hết sức bình thường, kỹ thuật khắc có thể nói là khá vụng nhưng vẫn không thể giấu được niềm hạnh phúc viên mãn tròn đầy toát ra từ bên trong. Tôi tựa đầu vào vai y, bên khóe môi luôn thấp thoáng một nụ cười tủm tỉm. Tôi rất ít khi mặc đồ màu hồng, bởi màu sắc này quá mức yêu kiều và diễm lệ, làm tôi cảm thấy nó hơi tầm thường, thậm chí là thô tục. Thế nhưng lúc này mặc vào, tôi lại chỉ thấy nó toát ra một niềm vui vô hạn, thật hợp với mình vô cùng, bởi chỉ có như thế mới thể hiện được tâm trạng của tôi lúc này. Giống như bông hoa thu hải đường đang cài trên mái tóc kia, trái tim tôi lúc này cũng vô cùng vui tươi và mềm mại, thế là tôi bèn quyết định chọn luôn chiếc khăn tay thêu hình hai bông hải đường liền cành màu đỏ tươi mà mang theo bên mình.
Tôi ngẩn người. “Huynh lên miền Bắc ngao du, sao muội có thể đi theo được?”
Y cười đáp: “Ta xưa nay vẫn luôn độc lai độc vãng, vi hành ra ngoài, có ai biết ta là vương gia chứ. Còn hoàng huynh, từ sau khi có được tân sủng Phó thị, huynh ấy đâu còn thời gian rảnh mà để ý tới người khác nữa. Lần này ta chỉ mang theo mình A Tấn, chúng ta sẽ cùng nhau du ngoạn Thượng Kinh, nàng thấy thế nào?”
Tôi có chút do dự. “Nhưng muội mình mặc áo ni cô, còn đang tu hành nữa.”
Cận Tịch đứng bên cười, nói: “Nương tử ngày ngày ngồi không ở đỉnh Lăng Vân này thực là bí bách lắm, cứ ra ngoài vui chơi cho khuây khỏa cũng hay. Dù sao chúng ta cũng ở riêng bên ngoài, ai mà biết được nương tử có còn ở đây không. Chỉ cần thay áo ni cô ra là được, chúng ta vẫn còn rất nhiều quần áo cũ từ ngày xưa mà, mặc vào rồi há chẳng phải sẽ giống một nữ tử bình thường sao?”
Hoán Bích cũng mỉm cười, nói: “Bên cạnh tiểu thư không thể không có người hầu hạ, chi bằng hãy mang theo cả nô tỳ nữa.”
A Tấn cười hì hì, vỗ tay nói: “Bích cô nương hầu hạ nương tử, A Tấn ta hầu hạ Vương gia, bốn người chúng ta cùng đi với nhau là tuyệt nhất.”
Cận Tịch ôn tồn nói: “Nương tử và Hoán Bích cô nương cứ đi đi, nô tỳ ở lại đây trông nhà. Tới Thượng Kinh vào mùa này là hợp nhất đấy, phong cảnh đang rất đẹp.”
Trong mắt Huyền Thanh tràn ngập nét cười. “Chúng ta chưa từng ra ngoài chơi với nhau bao giờ đâu đấy, nàng có bằng lòng không?”
Đại Chu hồi mới lập quốc đã từng định đô ở Dương Kinh mười hai năm nên nơi đó còn có tên là Thượng Kinh, cách kinh đô Trung Kinh hiện giờ khoảng chừng ba trăm dặm. Đại Chu năm Kiến Nguyên thứ mười, tộc Hách Hách ở miền Bắc liên tục đưa quân xâm phạm khu vực phụ cận Thượng Kinh, trong lần tồi tệ nhất, Tế Cách Khả hãn của tộc Hách Hách thậm chí còn dẫn theo năm ngàn tinh binh đánh thẳng tới Nhạn Minh quan, cửa ải cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.
Nhạn Minh quan tây giáp sông Hi Lăng, phía nam gần địa giới Dương Kinh, phía bắc có Chỉ Tiên quan nối liền với sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay luôn là vùng đất nhà binh ắt phải tranh đoạt. Bên ngoài núi Lạc Thiết là một vùng thảo nguyên và sa mạc mênh mông, toàn bộ là lãnh địa của người Hách Hách. Do đó Nhạn Minh quan là vùng yếu địa bảo vệ giang sơn Đại Chu trước sự tấn công của tộc Hách Hách, quan trọng vô cùng. Vì cửa quan đó được dựng ở nơi hiểm trở, dễ thủ khó công, ngẩng đầu là gần như có thể chạm tới trời, ngay đến chim nhạn cũng khó lòng bay qua được, mỗi lần đến cuối thu lại thường xuyên nghe thấy từng đàn chim nhạn bay lòng vòng xung quanh mà cất tiếng hót bi thương, do đó mới có tên là Nhạn Minh quan. Thế nhưng không chỉ chim nhạn mới cất tiếng hót bi thương, cuộc sống của người dân xung quanh Nhạn Minh quan cũng kham khổ vô cùng. Tộc Hách Hách vốn sống ở phương Bắc, thường xuyên di cư theo nguồn nước và thảm cỏ, khi nào nước đầy cỏ rậm thì còn đỡ, một khi tới mùa thu nước cạn cỏ khô, sự ấm no của bộ tộc bị đe dọa, bọn họ sẽ xua quân xuống miền Nam, băng qua núi Lạc Thiết mà chém giết cướp bóc, khiến dân cư Đại Chu nơi biên thùy cửa nhà bị hủy, gặp hồi chiến loạn liên miên, khổ sở không lời nào tả xiết.
Năm Kiến Nguyên thứ mười vừa khéo xảy ra một cơn đại hạn, ngàn dặm thảo nguyên tươi tốt của người Hách Hách biến thành một vùng hoang vu, vào thu chỉ chừng mười ngày thời tiết đã biến đổi hẳn, trở nên giá lạnh vô cùng, vài ngày sau thì tuyết rơi, băng dày ba thước. Người Hách Hách vì muốn giữ vận nước, duy trì sự sinh tồn của bộ tộc, liền dốc hết quốc lực mà xua mười vạn đại quân đánh xuống miền Nam.
Khi đó Đại Chu cũng đang trong cơn hạn hán, lại vừa phải trải qua mấy năm chinh chiến liên miên, đất nước đang cần có thời gian phục hồi nguyên khí, sức nước suy yếu vô cùng, vấn đề lương thảo ở nơi biên ải khó lòng giải quyết, đã thế lại gặp cơn tuyết lớn, tướng sĩ giữ ải không ai ngờ được giữa trời tuyết lớn mênh mang lại thình lình có mấy vạn thiết kỵ Hách Hách xông ra, thế là tất cả chỉ biết trợn tròn mắt há hốc miệng, ngơ ngác nhìn nhau, để mặc cho vó ngựa của đối phương tràn xuống phía Nam.
Nếu Nhạn Minh quan bị phá, Thượng Kinh e chẳng còn gì che chắn, hoàn toàn hé lộ trước mặt kẻ địch. Thái Tổ chinh chiến mất mười mấy năm mới giành được một mảnh giang sơn gấm vóc, vậy mà tưởng như sắp rơi vào tay lũ giặc man di tới nơi, lập tức lòng người cả nước đều hoang mang khôn tả, thậm chí có người còn khuyên Thái Tổ lui xuống bờ Nam sông Trường Giang, giữ lấy một nửa giang sơn để giằng co với người Hách Hách.
Trong cơn nguy cấp, may mà có Đại tướng Tề Bất Trì chẳng ngại mang tấm thân già nua đã chinh chiến sa trường nửa đời người, khoác áo giáp trở ra chiến trận, với tuổi lục tuần mà vẫn xung phong đi trước sĩ tốt, một mũi tên bắn xuyên qua vai Tế Cách Khả hãn, khiến hắn ngã ngựa, qua đó quét sạch sự ủ dột của tướng sĩ Đại Chu, đồng thời cũng làm cho sĩ khí quân Hách Hách suy giảm hẳn, không còn dám tiến lên phía trước nữa.
Tháng Mười một năm Kiến Nguyên thứ mười, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly lại một lần nữa dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, Tề Bất Trì cầm quân phòng thủ, cho xây dựng tường lũy bên phải cửa quan, đặt tên là Diệt Hách Bình, đồng thời lại chọn nơi hiểm yếu dựng thêm cửa ải, thiết lập đạo phòng tuyến thứ hai, sẵn sàng chờ đợi. Tháng Mười hai cùng năm, Tề Bất Trì và quân Hách Hách giao chiến mấy ngày, rốt cuộc không giữ được, phải lùi về đạo phòng tuyến thứ hai. Tướng sĩ Hách Hách mình mặc giáp dày, dùng móc sắt leo lên tường thành không ngớt, Tề Bất Trì và đệ đệ là Tề Bất Thoái đốc quân tử chiến, dùng cung cứng nỏ mạnh giết chết rất nhiều quân địch, nhưng thế công của đối phương vẫn không suy giảm, Tề Bất Trì sai bộ tướng Mộ Dung Chính dẫn theo một cánh quân tinh nhuệ, dùng đao dài búa lớn tấn công vào hai cánh trái phải của quân Hách Hách, qua đó phá tan nhuệ khí quân địch. Ngày mùng Một tháng Giêng năm Kiến Nguyên thứ mười một, Tề Bất Trì cho đốt núi Lạc Thiết, gõ trống trận vang trời, xuất quân phản kích, lại phái các tướng Vương Hỉ, Vương Vũ tấn công vào đại doanh quân Hách Hách. Đại quân Hách Hách trong cơn kinh hãi đã bˠđánh cho luống cuống chân tay, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly chiến tử, Tế Cách Khả hãn bị thương chưa lành phải dẫn quân tháo chạy, nửa đường vết thương tái phát mạng vong. Tề Bất Trì thừa thế sai Mộ Dung Chính dẫn quân truy kích, giết được hơn vạn tên địch, làm máu chảy thành sông; lại phái Tề Bất Thoái chặn một cánh phục binh trên con đường mà quân Hách Hách ắt phải đi qua khi trốn về nước, tập kích quân Hách Hách thêm lần nữa. Sau trận này, quân Hách Hách đã bị ép phải lùi về đến đô thành Tàng Kinh.
Tề Bất Trì chinh chiến cả đời, kiên trinh can đảm, rốt cuộc vào tuổi sáu mươi đã dựa vào chiến công ở Nhạn Minh quan mà được phong hầu bái tướng, trở thành vị võ tướng tước hầu đầu tiên của triều Đại Chu, Định Huân Hầu. Thái Tổ sai họa sĩ giỏi vẽ lại chân dung ông, cho treo trong Dương Dực điện kề bên Thái miếu ở Thượng Kinh, lưu danh sử sách. Thậm chí năm đó ở vùng phụ cận núi Lạc Thiết, nếu có đứa trẻ nào bướng bỉnh gào khóc không ngơi, người lớn chỉ cần dọa một câu: “Tề Bất Trì tới rồi!”, đứa bé đó ắt sẽ nín bặt, không dám quấy khóc thêm nữa.
Đáng tiếc, ông trời chẳng tha cho ai, sau khi được phong tước ba tháng, Tề Bất Trì đã kiệt sức qua đời, ngậm cười nơi chín suối. Về sau, hậu nhân của ông tuy bị Thái Tông dùng vinh hoa phú quý mà tước đi binh quyền, không còn nắm trong tay thiên binh vạn mã của Đại Chu nữa, thế nhưng gia tộc vẫn hiển hách vô cùng, trải trăm năm không suy chuyển. Nhưng tới năm Càn Nguyên của bản triều, dòng họ Tề nhân đinh dần trở nên thưa thớt, gia tộc cũng theo đó mà suy bại. Thế nhưng dù sao cũng là gia tộc đã sừng sững trăm năm, dư uy của bọn họ vẫn còn, không ai dám xem nhẹ. Hậu nhân của Tề Bất Trì chính là Đoan Phi Tề Nguyệt Tân trong cung hiện nay, đây cũng là nguyên nhân Tề Nguyệt Tân từ nhỏ đã được nuôi trong thâm cung để Huyền Lăng chọn làm phi tần.
Mấy năm sau khi Tề Bất Trì qua đời, tin tức vẫn bị triều đình Đại Chu phong tỏa chặt chẽ. Người Hách Hách trong trận Nhạn Minh quan không chỉ bị mất nguyên soái và mấy vạn binh sĩ, ngay cả Khả hãn cũng bỏ mạng giữa đường, do đó rất sợ uy danh của Tề Bất Trì, thêm vào đó, nguyên khí tổn thương rất nặng, suốt mấy năm liền không dám có hành động gì với Đại Chu, một mực yên phận giữ mình. Không lâu sau, Đại hãn Hách Hách đời kế tiếp là Anh Cách đưa ra đề nghị giải hòa với Đại Chu, đồng ý lấy núi Lạc Thiết làm biên giới, xây dựng chợ Hỗ Thị để tiến hành mậu dịch, dùng trâu bò ngựa dê đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng với lương thực từ Đại Chu, hai bên tự phòng thủ biên giới của mình, mãi mãi không xâm phạm lẫn nhau.
Sau khi Tề Bất Trì qua đời, Đại Chu kỳ thực đã chẳng còn bao nhiêu binh lực để mà điều động, thêm vào đó trận Nhạn Minh quan đã làm quốc lực tổn hao nặng nề, không có vài năm thì đừng hòng hồi phục, do đó thấy Hách Hách đến nghị hòa thì lập tức đồng ý. Thế rồi hai bên Đại Chu và Hách Hách đã tiến hành uống máu ăn thề tại con sông biên giới, sử sách gọi đây là “Hội thề Hà Trì”.
Đại Chu và Hách Hách cùng cho dựng bia ở Thượng Kinh và Tàng Kinh, bên trên khắc rõ các việc có liên quan tới hội thề. Trong hội thề, hai bên đã đồng thời bày tỏ Đại Chu và Hách Hách là huynh đệ một nhà, từ nay về sau sẽ coi nhau như một, cùng giữ biên cương, vĩnh viễn không xâm phạm lẫn nhau để dân chúng được an cư. Ngoài ra hai bên còn bàn bạc các hạng mục trong việc xây dựng Hỗ Thị, ước định bên Hách Hách sẽ dùng các vật như vàng bạc, ngựa dê, da sống, đuôi ngựa để trao đổi, còn bên Đại Chu sẽ dùng các vật như lá trà, tơ lụa, nồi niêu, lương thực để trao đổi; đồng thời lại cho thiết lập Trà Mã ty, chuyên quản việc buôn bán trao đổi giữa hai bên.
Thế nhưng tình cảnh quân Hách Hách tấn công vào năm Kiến Nguyên thứ mười khiến Thái Tổ không sao quên được, nên vào tháng Một năm Kiến Nguyên thứ mười hai, Thái Tổ đã dời đô tới Trung Kinh bây giờ, cho xây dựng Tử Áo Thành để ở, lại gia phong Mậu Thành Quận chúa làm Kim Sơn Công chúa, gả cho Anh Cách Khả hãn làm Đại phi chính thất. Trăm năm qua, tuy vùng biên giới Đại Chu và Hách Hách thỉnh thoảng vẫn phát sinh chút xung đột nhỏ, nhưng rốt cuộc cũng có được trăm năm bình yên, không còn cảnh chiến tranh tàn khốc nữa.
Lúc này, tôi và Huyền Thanh đang dắt tay nhau du ngoạn Thượng Kinh, giả trang làm một cặp vợ chồng bình thường. Tôi vận một chiếc áo lụa màu hồng, lại kết hợp với một chiếc váy gấm dài màu vàng nhạt, Huyền Thanh thấy giờ đang tiết trời thu, liền tiện tay khoác thêm cho tôi một chiếc áo ngoài. Tôi ngồi chăm chú, ngó nhìn vào gương một hồi, không kìm được cười, nói: “Màu sắc thật tươi vui quá chừng.” Huyền Thanh vận một chiếc áo gấm dài màu xanh nhạt, lại càng tôn lên thân thể cao lớn và khí độ ung dung, dịu êm tựa như ánh trăng xuân tháng Ba chiếu xuống nhành dương liễu.
Tôi ngoảnh đầu chăm chú nhìn y, khóe môi hơi nhếch lên, mang theo mấy phần tình ý, khẽ nở nụ cười. “Sao tự nhiên huynh lại chọn mặc màu này thế?”
Huyền Thanh đặt tay lên vai tôi, khiến dáng người vốn thuộc tầm trung của tôi bất giác có vẻ nhỏ nhắn đi nhiều. “Nàng mặc áo màu hồng, ta liền chọn áo màu xanh, hai màu sắc này rất hợp nhau, khiến bầu không khí càng thêm vẻ tươi vui.”
Hoán Bích lúc này đang bưng hộp đồ trang sức trên tay, sau khi chăm chú ngắm nghía tôi và Huyền Thanh một hồi, đột nhiên ngoảnh đầu đi chỉnh trang quần áo, không nhìn chúng tôi nữa, chỉ hờ hững cười, nói: “Tiểu thư và công tử thế này, nhìn cứ như một cặp vợ chồng mới cưới đang chuẩn bị ra ngoài dạo chơi vậy.”
Tôi thoáng cảm thấy giờ đây nụ cười của Hoán Bích ngày một hờ hững hơn, tựa như vầng trăng ẩn sau lớp mây thưa, dù có đôi chút ánh sáng chiếu xuống cũng vô cùng mờ ảo. Hơn nữa, muội ấy còn rất thích cúi đầu, tính tình thì ngày càng điềm đạm, ít nói.
Huyền Thanh nghe vậy thì tỏ ra hết sức mừng rỡ, lập tức ngoảnh lại cười, hỏi: “Thật sự rất giống sao?”
Hoán Bích hơi cúi đầu, cất giọng dịu dàng nói: “Nếu tự bản thân công tử cảm thấy giống, như vậy người ngoài ắt sẽ càng thấy giống.”
Tôi khẽ chọc vào tay Huyền Thanh một cái, hai má đỏ bừng, bật cười khúc khích. “Làm gì có ai đi hỏi như vậy chứ, không biết xấu hổ gì cả. Hoán Bích đang trêu huynh đấy!”
Huyền Thanh lộ ra bộ dạng nghịch ngợm như trẻ con, ung dung nói: “Ta thật sự thấy rất giống mà.”
Nghe y nói như vậy, tôi lại càng xấu hổ, liền không thèm để ý tới y nữa mà kéo tay Hoán Bích qua một bên hỏi: “Lâu lắm không ăn mặc thế này rồi, một nữ tử bình thường nên bới kiểu tóc thế nào đây nhỉ?”
Hoán Bích khẽ nở nụ cười. “Tiểu thư đã muốn cùng Vương gia đóng giả làm vợ chồng tân hôn ra ngoài chơi, vậy tất nhiên phải bới hết tóc lên thành một búi lớn rồi.” Vừa nói, Hoán Bích vừa nhanh nhẹn chải tóc, bới tóc giúp tôi mới bới được một nửa thì lại chợt chăm chú suy tư, sau đó liền gỡ ra mà bới cho tôi một kiểu tóc bình thường, cuối cùng dùng một cây trâm vàng để cố định. Cây trâm đó làm bằng vàng ròng, được đính hai viên minh châu to bằng đầu ngón tay cái, trắng lóa tròn xoe, lấp lánh phát sáng, vô cùng bắt mắt. Hoán Bích ngắm nghía một chút, lại đi chọn thêm đồ trang sức chuẩn bị cài lên cho tôi. Lúc này, chậu thu hải đường đặt dưới cửa sổ đang nở hoa rạng rỡ, có điều đây chỉ là loại thu hải đường bình thường nơi dân gian, tất nhiên không thể so sánh với những giống hoa trân quý nơi cung đình, cánh hoa lốm đốm màu hồng phấn, đượm nét vui tươi. Huyền Thanh hái lấy một cành hoa cài lên búi tóc tôi, sau đó liền mỉm cười nhìn tôi chăm chú, ánh mắt tràn ngập vẻ quyến luyến, yêu thương.
Hoán Bích coi như không nhìn thấy, sau một hồi chọn lựa đã chọn được mấy bông hoa cài đầu hình hoa mai làm bằng phỉ thúy và cẩn thận cài lên mái tóc cho tôi.
Tôi soi mình trong gương, chiếc áo màu hồng rạng rỡ làm tôn lên khuôn mặt vui tươi như tia nắng mùa xuân của tôi, khiến toàn thân tôi tràn đầy sức sống, dường như tôi chưa từng nhìn thấy mình như thế này bao giờ. Tôi và y đứng kề vai nhau, trên chiếc gương đồng có khắc hình một cặp uyên ương vờn nước hết sức bình thường, kỹ thuật khắc có thể nói là khá vụng nhưng vẫn không thể giấu được niềm hạnh phúc viên mãn tròn đầy toát ra từ bên trong. Tôi tựa đầu vào vai y, bên khóe môi luôn thấp thoáng một nụ cười tủm tỉm. Tôi rất ít khi mặc đồ màu hồng, bởi màu sắc này quá mức yêu kiều và diễm lệ, làm tôi cảm thấy nó hơi tầm thường, thậm chí là thô tục. Thế nhưng lúc này mặc vào, tôi lại chỉ thấy nó toát ra một niềm vui vô hạn, thật hợp với mình vô cùng, bởi chỉ có như thế mới thể hiện được tâm trạng của tôi lúc này. Giống như bông hoa thu hải đường đang cài trên mái tóc kia, trái tim tôi lúc này cũng vô cùng vui tươi và mềm mại, thế là tôi bèn quyết định chọn luôn chiếc khăn tay thêu hình hai bông hải đường liền cành màu đỏ tươi mà mang theo bên mình.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook