Hậu Cung Chân Huyên Truyện
-
Quyển 4 - Chương 15: Hoán bích
Trò chuyện được một lát, tôi thấy trên mặt Thái phi đã lộ nét mỏi mệt, liền đứng dậy cáo từ. Thái phi nói với Huyền Thanh: “Để hai cô gái về nhà một mình không tiện, con thay ta tiễn bọn họ một đoạn đi.”
Huyền Thanh cung kính đáp “vâng” một tiếng rồi A Tấn dắt Ngự Phong đi theo tôi và Hoán Bích, Huyền Thanh thì đi bên cạnh. Hoán Bích thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu trò chuyện vài câu với A Tấn, một đoàn bốn người chậm rãi đi về phía chùa Cam Lộ.
Tôi làm bộ như vô ý hỏi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói thì hình như mấy tháng vừa rồi Vương gia đã tới vùng Xuyên Thục?”
Huyền Thanh nói: “Hôm đó hoàng huynh đột nhiên nổi hứng, nói ta từng dừng chân du ngoạn ở đất Thục Trung mấy tháng, bèn lệnh cho ta vi hành tới vùng Xuyên Thục lần nữa, để ý xem chính tích của các quan viên thế nào. Vì nhận lệnh vội vã, ta phải thu dọn đồ đạc rồi tới Xuyên Thục ngay, vốn muốn bảo A Tấn đi bẩm báo với mẫu phi, nhân tiện nói với nương tử một tiếng, đáng tiếc thời gian gấp rút quá, thành ra không kịp dặn dò câu nào.”
Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Lần này ly biệt cũng phải gần ba tháng!”
Y khẽ nở một nụ cười điềm đạm, bên khóe môi như tỏa ra từng làn hơi thở thanh tân của cây rừng rậm rạp xung quanh. “Tính từ lần gặp gỡ gần đây nhất, ta và nương tử đã có chín mươi bảy ngày chưa gặp nhau!”
Trái tim tôi bất giác nẩy lên, tựa như bị ai đó dùng cây búa nhỏ đập vỡ tan lớp vỏ cứng bên ngoài, làm lộ ra phần nội tâm yếu đuối và mềm mại bên trong, tự nơi đáy lòng trào dâng cảm giác vừa ngọt ngào vừa chua chát, sau nháy mắt đã chất đầy trái tim vốn ngợp trong sự hoang lương của tôi.
Hoán Bích chỉ vô tâm nói vậy nhưng tôi nghe rồi lòng liền trầm hẳn xuống, đôi hàng lông mày nhăn tít lại, sắc mặt cũng trở nên hờ hững. “Vương gia có kiến thức uyên bác, học rộng biết nhiều, trí nhớ tất nhiên là rất tốt, sở dĩ…”
Huyền Thanh nhẹ nhàng cất tiếng: “Sở dĩ ta nói với nương tử về chuyến đi Xuyên Thục lần này, ấy là vì song thân của nương tử đều ở Giang Châu.” Y lấy từ trong vạt áo trước ngực ra một phong thư, nói: “Khi quay về, ta đã rẽ sang Giang Châu, tuy hành trình bị chậm trễ hai ngày nhưng coi như đã không uổng chuyến đi này. Phong thư này nương tử hãy tự xem đi.”
Khi đưa tay ra, bàn tay tôi không kìm được hơi run rẩy, trên phong thư màu vàng nhạt ấy có cài một bông sen nhỏ màu hồng. Y nói: “Đây là bông sen đầu tiên trong vại nước của mẫu phi, ta thấy đẹp, liền hái xuống.” Bình thường, khi người ta đặt một cánh hoa sen vào trong bức thư là để tỏ ý nhớ nhung với người ở phương xa, cũng là muốn nói với người thân hay bè bạn rằng mình vẫn bình yên, y cài hoa lên bức thư như vậy quả là một việc làm sáng tạo. Ánh mắt đầy vẻ kiên định, y nhìn tôi, cất giọng hết sức hiền hòa: “Mau mở ra đi, đây là thư nhà mà Chân đại nhân gửi cho nương tử đấy.”
Tôi run rẩy mở phong thư ra, nét chữ quen thuộc của cha vẫn hệt như ngày trước, ngay ngắn và gọn gàng. “Ta và mẹ con đều khỏe, không cần lo lắng. Nghe nói con và Hoán Bích đang tu hành trong chùa Cam Lộ, cũng tốt. Đại cục đã định, chớ cố làm những việc uổng công. Chỉ không biết Hành Nhi giờ thế nào, lòng rất nhớ nhung. Kẻ chân trời người góc bể, hãy tự mình bảo trọng, đừng nên quá vấn vương.”
Muôn vàn lời nói cùng tấm lòng quyến luyến của cha, cuối cùng chỉ ngưng tụ thành mấy câu ngắn ngủi, tình cảm sâu đậm dành cho tôi, dành cho Hoán Bích, dành cho ca ca, đều đã ở trong đó cả.
Huyền Thanh nói: “Từ phong thư, hẳn là nàng có thể nhìn ra, Chân đại nhân bút lực rắn rỏi, nhất định thân thể không có vấn đề gì. Khi ta tới đó thì nghe nói đại nhân được người dân khá quý mến, bản thân đại nhân cũng nói, sau khi rời xa triều đình và những phân tranh ở kinh đô, cuộc sống cũng thoải mái hơn một chút.”
Lòng tôi thầm đau xót, rơm rớm nước mắt, nói: “Giang Châu là nơi thế nào chứ, tuy ta chưa từng tới đó nhưng cũng biết đó là nơi thế nào. Sông Bồn gần chốn cát lầm, lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên. Tiếng chi đó nghe liền sớm tối, cuốc kêu sầu vượn hót véo von[1]. Cha mẹ ta tuổi tác đã cao, bảo ta làm sao đành lòng được đây.” Dứt lời, tôi liền bật khóc nức nở.
[1] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Vinh. Nguyên văn Hán Việt: Trụ cận bồn giang địa đê thấp, hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh. Kỳ gian đán một văn hà vật, đỗ quyên đề huyết viên ai minh – ND.
Y đưa tay tới khẽ xoa lưng tôi, để tôi tựa đầu vào bờ vai y, cất tiếng an ủi: “Cuộc sống ở Giang Châu tuy vất vả nhưng con người có thể ung dung tự tại cả ngày. Lần này ta gặp Chân đại nhân, trong lúc trò chuyện thì thấy ông ấy đã hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh mới. Trong triều đình có biết bao sự đấu đá, bề ngoài thì phong quang vô hạn, nhưng Chân đại nhân dù sao tuổi tác cũng đã cao, có thể sống ở một nơi yên bình, thanh tịnh, ông ấy kỳ thực đã rất thỏa mãn. Trong lời lẽ của Chân đại nhân cũng tràn ngập tình cảm với nương tử, so với những cuộc minh tranh ám đấu nơi hậu cung, ông ấy hy vọng nương tử có thể sống bình yên trong chùa Cam Lộ, dù sao tính mạng của bản thân cũng quan trọng hơn những sự vinh hoa phú quý nhiều. Thân là người làm cha mẹ, ai chẳng mong con cái được bình an, ấy đã là nguyện vọng lớn nhất cả đời rồi.”
Tôi khóc rấm rứt, hỏi: “Chỉ không biết bây giờ ca ca thế nào rồi.”
Y đưa tay tới khẽ xoa đầu tôi, lớp vải mềm mại trên chiếc áo của y nhanh chóng hút hết nước mắt của tôi. “Ta đã phái người đi nghe ngóng rồi, ca ca nàng bị lưu đày đến Lĩnh Nam, cuộc sống không so được với Chân đại nhân vẫn còn làm quan, tất nhiên không thể gửi thư được. Có điều, nghe tướng lĩnh ở Lĩnh Nam nói, ca ca nàng tuy ngày đêm phải làm việc vất vả nhưng tinh thần vẫn còn khá tốt. Chỉ là…” Thoáng dừng lại, y mới nói tiếp: “Việc tẩu tẩu và cháu nàng qua đời, đến giờ y vẫn chưa hay biết.”
Tôi thầm cảm thấy kinh hãi, đột ngột ngẩng lên. “Điều này là đương nhiên. Ca ca có thể yên tâm ở lại nơi biên thùy, tinh thần còn khá tốt, ắt là nghĩ rằng vợ con mình đều bình yên. Vương gia không biết ca ca ta yêu thương tẩu tẩu và Trí Ninh thế nào đâu, nếu để huynh ấy biết…” Tôi thực sự không dám nghĩ tiếp, vội đưa tay lên bụm miệng, không dám nói tiếp.
Y nói: “Ta biết chứ, ta nhất định sẽ cố hết sức giúp đỡ giấu giếm chuyện này. Khi xưa, ta từng cùng Hành huynh chung sức trong cuộc bình định Nhữ Nam Vương, cũng coi như là bạn bè tri giao, có thể giúp được gì ta nhất định sẽ không từ nan.”
Tôi đột nhiên cảm thấy, vừa rồi mình gục đầu vào vai y khóc lóc một cách yếu đuối như thế thực quá thân mật cũng quá thất lễ. Hai bờ má tôi không khỏi nóng bừng, vội lùi lại hai bước, đưa tay lên lau nước mắt, cố lấy lại vẻ bình tĩnh thường ngày, mỉm cười thản nhiên nói: “Vừa rồi thất lễ quá, mong Vương gia chớ trách.” Tôi cẩn thận gấp phong thư kia lại, cất vào vạt áo trước ngực rồi nói: “Lửa phong ba tháng lan tràn, thư nhà đưa đến muôn vàn chắt chiu[2]. Nhưng trong lòng ta, phong thư mà Vương gia đưa tới không chỉ có giá trị liên thành.” Sau đó liền khom người thật sâu. “Xin đa tạ Vương gia!”
[2] Trích Xuân Vọng, Đỗ Phủ, dịch thơ Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Phong hỏa liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim – ND.
Huyền Thanh tỏ ý bảo Hoán Bích đỡ tôi dậy, trầm giọng nói: “Thanh và nương tử là bạn tri giao, nương tử nói những lời khách sáo như vậy làm gì?” Suy nghĩ một chút, y lại nói tiếp: “Vừa rồi mẫu phi có nói về vấn đề hôn sự của Hoán Bích, ta nghĩ có một người khá thích hợp, không biết ý nương tử thế nào?” Nói rồi liền mỉm cười nhìn qua phía A Tấn.
Tôi ngạc nhiên bật thốt: “A Tấn?”
Hoán Bích không kìm được đỏ bừng hai má, A Tấn cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, cả hai đồng loạt ngẩng lên bật thốt: “Cái gì?”
Kỳ thực nếu nhìn kỹ, A Tấn cũng có thể coi là một thiếu niên tuấn tú. Huyền Thanh cười, nói: “A Tấn từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, về mặt nhân phẩm ta tất nhiên có thể đảm bảo. Hơn nữa Hoán Bích với y cũng biết nhau sẵn, không thể tính là gả bừa cưới bậy.”
A Tấn gãi đầu gãi tai, đỏ bừng hai má, nói: “Việc này…”
Hoán Bích vội vã kêu lên: “Nô tỳ không muốn.”
Tôi kéo tay Hoán Bích lại, dịu giọng nói: “Hoán Bích, muội đang xấu hổ đấy sao?”
Hoán Bích lắc đầu nguầy nguậy, Huyền Thanh mỉm cười, quay sang hỏi A Tấn: “A Tấn, ngươi có bằng lòng cưới Hoán Bích cô nương không?”
A Tấn xấu hổ đến nỗi hai má đỏ bừng, nghe thấy câu hỏi thì chỉ biết nắm chặt dây cương ngựa trong tay, lát sau lại quay sang xoa bờm Ngự Phong liên tục, lí nhí nói: “A! Vương gia nói thế nào thì là thế ấy.”
Huyền Thanh vừa tức giận vừa tức cười, quát bảo: “Đường đường một đại nam nhân, có thì nói có, không thì nói không, sự nhanh nhẹn thường ngày của ngươi đi đâu mất rồi?”
Hoán Bích đột nhiên giật tay ra khỏi tay tôi, chỉnh sửa lại quần áo, quỳ xuống nói: “Vương gia bất tất phải hỏi A Tấn làm gì, dù A Tấn có bằng lòng, nô tỳ cũng sẽ không bằng lòng. Tiểu thư phải tu hành trong chùa Cam Lộ cả đời, nếu nô tỳ đi rồi, dù bên cạnh tiểu thư còn có Cận Tịch nhưng tình cảm giữa nô tỳ và tiểu thư không chỉ là chủ tớ thông thường. Hôm nay, nô tỳ đã nói hết sự thực, tiểu thư là trưởng tỷ của nô tỳ, nô tỳ thân là muội muội không thể nhìn tỷ ấy một mình chịu khổ, còn bản thân thì lại thành thân với người khác để hưởng phúc.” Hoán Bích tỏ ra rất tỉnh táo nhưng từng lời, từng từ đều khẩn thiết vô cùng.
Huyền Thanh ôn tồn nói: “Nếu ngươi thành thân với A Tấn, sau này sẽ sống ở Thanh Lương Đài, có thể thường xuyên gặp mặt nương tử. Nếu vẫn thấy không tiện, thỉnh thoảng đón nương tử tới Thanh Lương Đài vài ngày cũng được.”
Giọng Hoán Bích đột nhiên trở nên hết sức chói tai: “Vậy không biết Vương gia rốt cuộc muốn nô tỳ thành thân với A Tấn hay là muốn mượn việc nô tỳ và A Tấn thành hôn để sau này tiểu thư có thể thỉnh thoảng tới Thanh Lương Đài? Làm như thế rốt cuộc là để tiện cho hai tỷ muội nô tỳ gặp mặt, hay là tiện cho Vương gia và tiểu thư gặp mặt đây? Có những lời, Vương gia hoàn toàn có thể nói ra rõ ràng.”
Những lời này của Hoán Bích tựa như một lưỡi dao bén nhọn, từng nhát từng nhát cắt vào má tôi, khiến tôi hổ thẹn đến nỗi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi không kìm được quát lên: “Hoán Bích!”
Sắc mặt tôi lúc này nhất định đã trở nên trắng bệch, Huyền Thanh cau mày nói: “Hoán Bích, cô rốt cuộc muốn giúp tiểu thư của cô, hay là muốn làm cô ấy tổn thương?”
Hoán Bích thấy sắc mặt tôi biến đổi hẳn, bất giác có chút hoang mang, kéo tay áo tôi, thấp giọng gọi: “Tiểu thư…”
Bờ môi hơi tái đi, Huyền Thanh đưa tay tới đỡ lấy thân thể tôi, khẽ gọi: “Hoàn Nhi!”
Đương cơn chấn động, tôi bất giác sững người, trước đây y chưa từng xưng hô như vậy bao giờ, Hoàn Nhi, không ngờ y lại gọi tôi bằng khuê danh của tôi ngày trước. Rất lâu, rất lâu rồi, chưa có ai gọi tên tôi như vậy, ngay cả Huyền Lăng cũng chỉ gọi tôi là “Hoàn Hoàn”. Trong khoảnh khắc ấy, trong lòng tôi trào dâng vô vàn cảm xúc vừa buồn vừa vui, bỗng dưng sinh ra cảm giác như được trùng phùng với chuyện cũ.
Thế nhưng, cảm giác ấy chỉ lóe hiện trong trái tim tôi, tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, lạnh lùng đưa tay gạt bàn tay đang đỡ tôi của Huyền Thanh ra, khôi phục lại bộ dáng hờ hững thường ngày, khẽ nói: “Pháp hiệu của ta là Mạc Sầu.”
Mạc Sầu, cái tên này đã hoàn toàn ngăn cách tôi với những chuyện ngày xưa. Giờ đây, tôi là Mạc Sầu đang để tóc tu hành.
Trên khuôn mặt thoáng qua một tia hụt hẫng và buồn thương sâu sắc, y lẳng lặng buông bàn tay ra.
Tôi nói với giọng hòa hoãn hơn chút: “Hoán Bích dù gì cũng là con gái, dễ xấu hổ, vội vã bàn tới việc hôn nhân thế này cũng không tốt, đợi sau khi quay về, ta sẽ hỏi han muội ấy kĩ càng một phen.”
“Không cần.” Hoán Bích cất giọng kiên quyết mà lạnh lẽo, thân thể thẳng tắp dựa vào một gốc cây cạnh đó. “Chúng ta đã nói rõ ràng rồi, không cần chia làm hai lần làm gì cả, chỉ một lần là đủ rồi.” Ánh mắt nhìn đăm đăm vào A Tấn, Hoán Bích cắn môi hỏi: “A Tấn, ngươi nói thực với ta, ngươi có thích ta không?”
A Tấn nào đã từng gặp một nữ tử nói năng thẳng thắn như vậy, không khỏi đỏ mặt tía tai, nôn nóng đến nỗi lời nói có chút lắp bắp: “Không phải, không phải! Bích cô nương, ta thật sự thích cô nhưng ta chỉ coi cô như em gái thôi!”
Sắc mặt nhẹ nhõm hẳn đi, Hoán Bích thở phào một hơi, nói: “Huynh không thích ta, ta tất nhiên sẽ không lấy một người không thích mình. Nhưng điều quan trọng nhất là ta cũng không thích huynh. Nếu như Hoán Bích ta không thích ai, nhất định sẽ không lấy người đó, dù người đó có thích ta đến thế nào!” Hoán Bích đưa mắt liếc nhìn tôi, tâm tư này của muội ấy thực sự rất giống tâm tư của tôi với Ôn Thực Sơ khi trước. Hoán Bích định thần một chút, nói tiếp: “Nếu có một ngày phải gả chồng, tự ta sẽ nói với tiểu thư, không cần người khác mất công an bài cho ta làm gì. Nếu ta thích một ai đó, dù phải làm thiếp của y, ta cũng cam tâm tình nguyện. Còn bây giờ, ta chỉ muốn được bầu bạn bên tiểu thư thôi. Hôm nay ta xin được nói rõ, sau này việc hôn nhân của ta không cần bất cứ người nào khác nhắc tới.” Dứt khoát, Hoán Bích thở phào một hơi như thể vừa giải quyết được một mối tâm sự lớn, thế nhưng dù gì nàng ta cũng là con gái, sau khi đứng trước mặt mọi người nói ra những lời kiên quyết như vậy, khuôn mặt xinh đẹp mau chóng trở nên đỏ bừng, giậm chân một cái rồi vội vã chạy đi.
A Tấn lúng túng nói: “Tiểu nhân dù sao cũng không xứng với Hoán Bích cô nương.”
Tôi dịu giọng nói: “Hoán Bích xưa nay tâm khí rất cao, bây giờ lại vừa cùng ta trải qua cơn biến cố, khó tránh khỏi sinh lòng thờ ơ trước mọi việc, mong Vương gia thứ lỗi.”
Huyền Thanh cũng buồn bực không thôi, ánh mắt đầy vẻ áy náy. “Việc hôm nay là ta đã lỗ mãng rồi, ta chỉ mong Hoán Bích cô nương có thể sớm thành hôn, không ngờ lại khiến cô ấy tức giận.”
Tôi thầm lo lắng cho Hoán Bích, bèn nói: “Không sao đâu, để ta về an ủi muội ấy là được.” Sau đó, hơi khom người một cái, cũng không kịp cáo từ, tôi xoay người rời đi.
Tôi vừa về đến nơi, Cận Tịch đã lẳng lặng bước tới và hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao? Hoán Bích cô nương vừa về đã khóc rồi.”
Tôi bước vào xem thử, thấy Hoán Bích quả nhiên đang vùi đầu vào trong chăn khóc nức nở. Lòng tôi bất giác nguội ngắt từng cơn, nhất thời cũng không biết nên khuyên nhủ thế nào, đành đi cắm bông sen nhỏ kia vào trong bình.
Ngày hôm sau ngủ dậy, tôi phát hiện bông sen cắm trong bình sau một đêm đã chỉ còn lại phần cọng sen hơi ngả màu vàng, những cánh sen hồng phấn rụng xuống lác đác xung quanh chiếc bình sứ, tựa như những cánh bướm chẳng thể bay lên, nằm lặng im một chỗ.
Tôi khẽ cất tiếng thở dài, thương cảm nói: “Một bông hoa đẹp như vậy, không ngờ chỉ sau một đêm đã tàn rồi.”
“Bông hoa nở đầu tiên thường không thể tồn tại quá lâu.” Giọng nói lạnh băng của Hoán Bích chợt vang lên phía sau lưng. Hoán Bích đưa tay gạt những cánh hoa vào trong một chiếc túi vải, nói tiếp: “Để nô tỳ mang chúng đi phơi nắng, vậy là có thể giữ lại được lâu dài.”
Tôi đưa tay giữ lấy bàn tay Hoán Bích. “Hoán Bích, muội còn khó chịu sao?”
Hoán Bích mỉm cười, nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ cả đêm, Vương gia dù sao cũng suy nghĩ cho nô tỳ”, rồi lại hơi nhếch khóe môi. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ là con gái cố nhân của Thư Quý thái phi, an bài để nô tỳ thành thân với người mà y quen thuộc thì có gì là không đúng?” Lúc này vẻ cô đơn và hụt hẫng trong mắt Hoán Bích hiện lên hết sức rõ ràng. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ chỉ là một tiểu nha hoàn bên cạnh tiểu thư, do đó, tất nhiên chỉ có thể gả cho tùy tùng thân tín của y thôi, lại càng chẳng có gì là sai cả.”
Tôi thở dài, nói: “Hoán Bích, muội vẫn luôn thông minh, chớ nên tự đẩy mình vào chỗ khó như thế. Cho dù hôm qua Vương gia không biết muội là con gái của Hà di nương thì cũng biết muội và ta tình như tỷ muội, ắt sẽ không có lòng tùy tiện gả muội cho một gã người hầu đâu. Chính vì y biết ta với muội tình như tỷ muội, lại có lời nhờ cậy của Thái phi, do đó mới muốn gả muội cho một người mà y tin tưởng.” Tôi khẽ gạt mấy sợi tóc rối trước trán Hoán Bích, nói tiếp: “Huống chi, muội với A Tấn xưa nay luôn nói chuyện với nhau rất hợp, do dó khó tránh khỏi khiến Vương gia hiểu lầm.”
Hoán Bích ban đầu chỉ lẳng lặng lắng nghe, nhưng khi nghe thấy câu cuối cùng, đột nhiên ngẩng lên nhìn tôi chăm chú. “Nhưng…” Nụ cười của Hoán Bích dần trở nên sâu sắc. “Vương gia và tiểu thư xưa nay nói chuyện cũng rất hợp nhau mà.”
Hoán Bích nhấn mạnh vào hai chữ “xưa nay”, tôi nghe mà thầm kinh hãi: “Ta cũng chỉ nói chuyện hợp với Vương gia mà thôi. Chính vì thế nên muội mới nghi ngờ Vương gia mượn việc hôn nhân của muội để tiếp cận ta, đúng không?”
Hoán Bích cắn chặt môi, cúi gằm mặt xuống, lát sau mới nói: “Nô tỳ cứ luôn cảm thấy Vương gia đối xử với tiểu thư quá tốt, còn đi ngàn dặm xa xôi mang thư nhà tới cho tiểu thư nữa.”
“Vậy…” Tôi hỏi: “Ôn Thực Sơ đối xử với ta thế nào? Còn ta thì đối xử với y ra sao?”
“Ôn đại nhân từ nhỏ đã đối xử với tiểu thư rất tốt, nên tiểu thư cũng biết giữ chừng mực. Ngày đó khi vừa tới chùa Cam Lộ, nô tỳ thấy tiểu thư phải chịu đủ điều ấm ức, vất vả, cũng rất muốn tiểu thư có được một chỗ dựa cả đời, dù là kín đáo không để ai biết cũng tốt. Đương nhiên, bất kể là về phẩm cách, tướng mạo hay khí độ, học thức, Vương gia đều hơn hẳn Ôn đại nhân, nhưng…” Thoáng do dự, Hoán Bích nói tiếp: “Vương gia là đệ đệ của Hoàng thượng.”
Lời của Hoán Bích tựa như một chậu nước lạnh băng giội thẳng xuống đầu tôi. Tôi trầm ngâm một chút rồi hờ hững nói: “Ta nào phải không biết điều này, hơn nữa ta cũng chẳng có chút tâm tư nào khác với y.”
Hoán Bích không khỏi có chút nôn nóng, lay nhẹ người tôi, nói: “Nô tỳ biết hôm qua mình đã nói rất nhiều lời làm tiểu thư tổn thương nhưng dù tiểu thư không có tâm tư gì với Vương gia, chẳng lẽ Vương gia cũng không có tâm tư gì với tiểu thư sao? Có một số việc vẫn nên cẩn thận một chút, chúng ta… chúng ta thật sự không thể chịu được cơn trắc trở nào nữa rồi.”
Tôi im lặng hồi lâu, dường như những làn khói đàn hương trong phòng đã dần làm mờ đôi mắt tôi, tôi miễn cưỡng cười, nói: “Hoán Bích, muội cứ yên tâm, không có việc đó đâu. Vương gia coi ta là tri kỷ, ta cũng coi y là tri kỷ. Bất kể là ở trong cung hay ngoài cung, y đều đã giúp đỡ ta rất nhiều, muội đã từng thấy y có lời lẽ nào mạo phạm ta chưa? Tất nhiên, ta cũng biết là phải có chừng mực.”
Hoán Bích khẽ gật đầu, tựa người vào lòng tôi, rủ rỉ nói: “Tiểu thư, từ nhỏ nô tỳ đã không có mẹ, đều là do tiểu thư một tay chăm sóc. Bây giờ, chỉ còn hai tỷ muội chúng ta nương tựa vào nhau thôi.”
Tôi khẽ xoa đầu Hoán Bích, ôn tồn nói: “Ta biết, ta biết chứ!”
Thế nhưng từ tận đáy lòng, tôi lại không kìm được thầm thở dài một tiếng. Có lẽ, tôi thật sự nên chú ý giữ khoảng cách với Huyền Thanh.
Phải giữ khoảng cách với Huyền Thanh, trong lòng tôi ít nhiều gì cũng sinh ra một chút khúc mắc. Trong quãng thời gian sau đó, tôi không còn tới bên bờ sông nữa. Y là người hết sức thông minh, biết là tôi cố ý né tránh, do vậy cũng ít lui tới hơn. Thỉnh thoảng giữa buổi chiều tĩnh lặng, tôi nghe thấy trong làn gió thấp thoáng tiếng ca cao vút mà vui vẻ của A Nô, vẫn là khúc hát ngày đó:
Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…
Tiếng ca xuyên qua lớp lớp đình đài lầu các, dừng lại trên mỗi phiến ngói lưu ly trong chùa Cam Lộ, Tịnh Bạch trề môi nói với giọng chán ghét: “Lời ca dâm dật, thực là khinh nhờn Phật Tổ.”
Trụ trì thì lại nói: “Có lòng nghe, tất nhiên là sẽ nghe thấy, cứ làm ngơ, không để ý tới là được.”
Tôi thầm thở dài, dù tôi vô tâm nhưng lời ca ấy cũng đã lọt vào tai tôi.
Trong thời gian này, tôi phát hiện Hoán Bích có mấy lần đi tới bên bờ sông, khi quay về thì cả giày và tất đều bị ướt, thế là bèn hỏi xem có chuyện gì. Hoán Bích chỉ đáp: “Lần trước, những lời của nô tỳ hình như đã làm tổn thương Vương gia và A Tấn, có lúc nô tỳ thật sự muốn trực tiếp xin lỗi bọn họ.” Thoáng dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Dù sao, Vương gia cũng đối xử với chúng ta rất tốt.”
Sau một thoáng lặng im, tôi nói: “Hoán Bích, những lời của muội lần này khác hẳn với lần trước, hình như có chút mâu thuẫn đấy.”
Hoán Bích nghẹn lời, lúng túng nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ nói ra lời trong lòng mà thôi.”
“Vậy…” Tôi hỏi: “Muội có gặp được Vương gia không?”
“Có gặp mấy lần.” Hoán Bích cúi đầu, mân mê mép áo. “Nhưng y chỉ nhìn mặt sông mà ngơ ngẩn, lần nào cũng chỉ có A Tấn nói chuyện với nô tỳ, thành ra nô tỳ không cách nào mà xin lỗi được.”
Tôi khẽ “ừm” một tiếng, cũng không suy nghĩ gì nhiều. Sự quan tâm của Huyền Thanh vẫn chưa từng gián đoạn, chỉ là bây giờ phải thông qua Cận Tịch mà thôi. Có lúc y bảo Cận Tịch đưa tranh của Lung Nguyệt tới, có lúc lại hỏi Cận Tịch xem tôi có khỏe không.
Tất nhiên, ngay từ lúc ở trong cung, Cận Tịch và y đã khá thân thuộc với nhau rồi.
Mùa hạ rất nhanh đã qua đi và mùa thu lại tới.
Huyền Thanh cung kính đáp “vâng” một tiếng rồi A Tấn dắt Ngự Phong đi theo tôi và Hoán Bích, Huyền Thanh thì đi bên cạnh. Hoán Bích thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu trò chuyện vài câu với A Tấn, một đoàn bốn người chậm rãi đi về phía chùa Cam Lộ.
Tôi làm bộ như vô ý hỏi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói thì hình như mấy tháng vừa rồi Vương gia đã tới vùng Xuyên Thục?”
Huyền Thanh nói: “Hôm đó hoàng huynh đột nhiên nổi hứng, nói ta từng dừng chân du ngoạn ở đất Thục Trung mấy tháng, bèn lệnh cho ta vi hành tới vùng Xuyên Thục lần nữa, để ý xem chính tích của các quan viên thế nào. Vì nhận lệnh vội vã, ta phải thu dọn đồ đạc rồi tới Xuyên Thục ngay, vốn muốn bảo A Tấn đi bẩm báo với mẫu phi, nhân tiện nói với nương tử một tiếng, đáng tiếc thời gian gấp rút quá, thành ra không kịp dặn dò câu nào.”
Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Lần này ly biệt cũng phải gần ba tháng!”
Y khẽ nở một nụ cười điềm đạm, bên khóe môi như tỏa ra từng làn hơi thở thanh tân của cây rừng rậm rạp xung quanh. “Tính từ lần gặp gỡ gần đây nhất, ta và nương tử đã có chín mươi bảy ngày chưa gặp nhau!”
Trái tim tôi bất giác nẩy lên, tựa như bị ai đó dùng cây búa nhỏ đập vỡ tan lớp vỏ cứng bên ngoài, làm lộ ra phần nội tâm yếu đuối và mềm mại bên trong, tự nơi đáy lòng trào dâng cảm giác vừa ngọt ngào vừa chua chát, sau nháy mắt đã chất đầy trái tim vốn ngợp trong sự hoang lương của tôi.
Hoán Bích chỉ vô tâm nói vậy nhưng tôi nghe rồi lòng liền trầm hẳn xuống, đôi hàng lông mày nhăn tít lại, sắc mặt cũng trở nên hờ hững. “Vương gia có kiến thức uyên bác, học rộng biết nhiều, trí nhớ tất nhiên là rất tốt, sở dĩ…”
Huyền Thanh nhẹ nhàng cất tiếng: “Sở dĩ ta nói với nương tử về chuyến đi Xuyên Thục lần này, ấy là vì song thân của nương tử đều ở Giang Châu.” Y lấy từ trong vạt áo trước ngực ra một phong thư, nói: “Khi quay về, ta đã rẽ sang Giang Châu, tuy hành trình bị chậm trễ hai ngày nhưng coi như đã không uổng chuyến đi này. Phong thư này nương tử hãy tự xem đi.”
Khi đưa tay ra, bàn tay tôi không kìm được hơi run rẩy, trên phong thư màu vàng nhạt ấy có cài một bông sen nhỏ màu hồng. Y nói: “Đây là bông sen đầu tiên trong vại nước của mẫu phi, ta thấy đẹp, liền hái xuống.” Bình thường, khi người ta đặt một cánh hoa sen vào trong bức thư là để tỏ ý nhớ nhung với người ở phương xa, cũng là muốn nói với người thân hay bè bạn rằng mình vẫn bình yên, y cài hoa lên bức thư như vậy quả là một việc làm sáng tạo. Ánh mắt đầy vẻ kiên định, y nhìn tôi, cất giọng hết sức hiền hòa: “Mau mở ra đi, đây là thư nhà mà Chân đại nhân gửi cho nương tử đấy.”
Tôi run rẩy mở phong thư ra, nét chữ quen thuộc của cha vẫn hệt như ngày trước, ngay ngắn và gọn gàng. “Ta và mẹ con đều khỏe, không cần lo lắng. Nghe nói con và Hoán Bích đang tu hành trong chùa Cam Lộ, cũng tốt. Đại cục đã định, chớ cố làm những việc uổng công. Chỉ không biết Hành Nhi giờ thế nào, lòng rất nhớ nhung. Kẻ chân trời người góc bể, hãy tự mình bảo trọng, đừng nên quá vấn vương.”
Muôn vàn lời nói cùng tấm lòng quyến luyến của cha, cuối cùng chỉ ngưng tụ thành mấy câu ngắn ngủi, tình cảm sâu đậm dành cho tôi, dành cho Hoán Bích, dành cho ca ca, đều đã ở trong đó cả.
Huyền Thanh nói: “Từ phong thư, hẳn là nàng có thể nhìn ra, Chân đại nhân bút lực rắn rỏi, nhất định thân thể không có vấn đề gì. Khi ta tới đó thì nghe nói đại nhân được người dân khá quý mến, bản thân đại nhân cũng nói, sau khi rời xa triều đình và những phân tranh ở kinh đô, cuộc sống cũng thoải mái hơn một chút.”
Lòng tôi thầm đau xót, rơm rớm nước mắt, nói: “Giang Châu là nơi thế nào chứ, tuy ta chưa từng tới đó nhưng cũng biết đó là nơi thế nào. Sông Bồn gần chốn cát lầm, lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên. Tiếng chi đó nghe liền sớm tối, cuốc kêu sầu vượn hót véo von[1]. Cha mẹ ta tuổi tác đã cao, bảo ta làm sao đành lòng được đây.” Dứt lời, tôi liền bật khóc nức nở.
[1] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Vinh. Nguyên văn Hán Việt: Trụ cận bồn giang địa đê thấp, hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh. Kỳ gian đán một văn hà vật, đỗ quyên đề huyết viên ai minh – ND.
Y đưa tay tới khẽ xoa lưng tôi, để tôi tựa đầu vào bờ vai y, cất tiếng an ủi: “Cuộc sống ở Giang Châu tuy vất vả nhưng con người có thể ung dung tự tại cả ngày. Lần này ta gặp Chân đại nhân, trong lúc trò chuyện thì thấy ông ấy đã hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh mới. Trong triều đình có biết bao sự đấu đá, bề ngoài thì phong quang vô hạn, nhưng Chân đại nhân dù sao tuổi tác cũng đã cao, có thể sống ở một nơi yên bình, thanh tịnh, ông ấy kỳ thực đã rất thỏa mãn. Trong lời lẽ của Chân đại nhân cũng tràn ngập tình cảm với nương tử, so với những cuộc minh tranh ám đấu nơi hậu cung, ông ấy hy vọng nương tử có thể sống bình yên trong chùa Cam Lộ, dù sao tính mạng của bản thân cũng quan trọng hơn những sự vinh hoa phú quý nhiều. Thân là người làm cha mẹ, ai chẳng mong con cái được bình an, ấy đã là nguyện vọng lớn nhất cả đời rồi.”
Tôi khóc rấm rứt, hỏi: “Chỉ không biết bây giờ ca ca thế nào rồi.”
Y đưa tay tới khẽ xoa đầu tôi, lớp vải mềm mại trên chiếc áo của y nhanh chóng hút hết nước mắt của tôi. “Ta đã phái người đi nghe ngóng rồi, ca ca nàng bị lưu đày đến Lĩnh Nam, cuộc sống không so được với Chân đại nhân vẫn còn làm quan, tất nhiên không thể gửi thư được. Có điều, nghe tướng lĩnh ở Lĩnh Nam nói, ca ca nàng tuy ngày đêm phải làm việc vất vả nhưng tinh thần vẫn còn khá tốt. Chỉ là…” Thoáng dừng lại, y mới nói tiếp: “Việc tẩu tẩu và cháu nàng qua đời, đến giờ y vẫn chưa hay biết.”
Tôi thầm cảm thấy kinh hãi, đột ngột ngẩng lên. “Điều này là đương nhiên. Ca ca có thể yên tâm ở lại nơi biên thùy, tinh thần còn khá tốt, ắt là nghĩ rằng vợ con mình đều bình yên. Vương gia không biết ca ca ta yêu thương tẩu tẩu và Trí Ninh thế nào đâu, nếu để huynh ấy biết…” Tôi thực sự không dám nghĩ tiếp, vội đưa tay lên bụm miệng, không dám nói tiếp.
Y nói: “Ta biết chứ, ta nhất định sẽ cố hết sức giúp đỡ giấu giếm chuyện này. Khi xưa, ta từng cùng Hành huynh chung sức trong cuộc bình định Nhữ Nam Vương, cũng coi như là bạn bè tri giao, có thể giúp được gì ta nhất định sẽ không từ nan.”
Tôi đột nhiên cảm thấy, vừa rồi mình gục đầu vào vai y khóc lóc một cách yếu đuối như thế thực quá thân mật cũng quá thất lễ. Hai bờ má tôi không khỏi nóng bừng, vội lùi lại hai bước, đưa tay lên lau nước mắt, cố lấy lại vẻ bình tĩnh thường ngày, mỉm cười thản nhiên nói: “Vừa rồi thất lễ quá, mong Vương gia chớ trách.” Tôi cẩn thận gấp phong thư kia lại, cất vào vạt áo trước ngực rồi nói: “Lửa phong ba tháng lan tràn, thư nhà đưa đến muôn vàn chắt chiu[2]. Nhưng trong lòng ta, phong thư mà Vương gia đưa tới không chỉ có giá trị liên thành.” Sau đó liền khom người thật sâu. “Xin đa tạ Vương gia!”
[2] Trích Xuân Vọng, Đỗ Phủ, dịch thơ Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Phong hỏa liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim – ND.
Huyền Thanh tỏ ý bảo Hoán Bích đỡ tôi dậy, trầm giọng nói: “Thanh và nương tử là bạn tri giao, nương tử nói những lời khách sáo như vậy làm gì?” Suy nghĩ một chút, y lại nói tiếp: “Vừa rồi mẫu phi có nói về vấn đề hôn sự của Hoán Bích, ta nghĩ có một người khá thích hợp, không biết ý nương tử thế nào?” Nói rồi liền mỉm cười nhìn qua phía A Tấn.
Tôi ngạc nhiên bật thốt: “A Tấn?”
Hoán Bích không kìm được đỏ bừng hai má, A Tấn cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, cả hai đồng loạt ngẩng lên bật thốt: “Cái gì?”
Kỳ thực nếu nhìn kỹ, A Tấn cũng có thể coi là một thiếu niên tuấn tú. Huyền Thanh cười, nói: “A Tấn từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, về mặt nhân phẩm ta tất nhiên có thể đảm bảo. Hơn nữa Hoán Bích với y cũng biết nhau sẵn, không thể tính là gả bừa cưới bậy.”
A Tấn gãi đầu gãi tai, đỏ bừng hai má, nói: “Việc này…”
Hoán Bích vội vã kêu lên: “Nô tỳ không muốn.”
Tôi kéo tay Hoán Bích lại, dịu giọng nói: “Hoán Bích, muội đang xấu hổ đấy sao?”
Hoán Bích lắc đầu nguầy nguậy, Huyền Thanh mỉm cười, quay sang hỏi A Tấn: “A Tấn, ngươi có bằng lòng cưới Hoán Bích cô nương không?”
A Tấn xấu hổ đến nỗi hai má đỏ bừng, nghe thấy câu hỏi thì chỉ biết nắm chặt dây cương ngựa trong tay, lát sau lại quay sang xoa bờm Ngự Phong liên tục, lí nhí nói: “A! Vương gia nói thế nào thì là thế ấy.”
Huyền Thanh vừa tức giận vừa tức cười, quát bảo: “Đường đường một đại nam nhân, có thì nói có, không thì nói không, sự nhanh nhẹn thường ngày của ngươi đi đâu mất rồi?”
Hoán Bích đột nhiên giật tay ra khỏi tay tôi, chỉnh sửa lại quần áo, quỳ xuống nói: “Vương gia bất tất phải hỏi A Tấn làm gì, dù A Tấn có bằng lòng, nô tỳ cũng sẽ không bằng lòng. Tiểu thư phải tu hành trong chùa Cam Lộ cả đời, nếu nô tỳ đi rồi, dù bên cạnh tiểu thư còn có Cận Tịch nhưng tình cảm giữa nô tỳ và tiểu thư không chỉ là chủ tớ thông thường. Hôm nay, nô tỳ đã nói hết sự thực, tiểu thư là trưởng tỷ của nô tỳ, nô tỳ thân là muội muội không thể nhìn tỷ ấy một mình chịu khổ, còn bản thân thì lại thành thân với người khác để hưởng phúc.” Hoán Bích tỏ ra rất tỉnh táo nhưng từng lời, từng từ đều khẩn thiết vô cùng.
Huyền Thanh ôn tồn nói: “Nếu ngươi thành thân với A Tấn, sau này sẽ sống ở Thanh Lương Đài, có thể thường xuyên gặp mặt nương tử. Nếu vẫn thấy không tiện, thỉnh thoảng đón nương tử tới Thanh Lương Đài vài ngày cũng được.”
Giọng Hoán Bích đột nhiên trở nên hết sức chói tai: “Vậy không biết Vương gia rốt cuộc muốn nô tỳ thành thân với A Tấn hay là muốn mượn việc nô tỳ và A Tấn thành hôn để sau này tiểu thư có thể thỉnh thoảng tới Thanh Lương Đài? Làm như thế rốt cuộc là để tiện cho hai tỷ muội nô tỳ gặp mặt, hay là tiện cho Vương gia và tiểu thư gặp mặt đây? Có những lời, Vương gia hoàn toàn có thể nói ra rõ ràng.”
Những lời này của Hoán Bích tựa như một lưỡi dao bén nhọn, từng nhát từng nhát cắt vào má tôi, khiến tôi hổ thẹn đến nỗi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi không kìm được quát lên: “Hoán Bích!”
Sắc mặt tôi lúc này nhất định đã trở nên trắng bệch, Huyền Thanh cau mày nói: “Hoán Bích, cô rốt cuộc muốn giúp tiểu thư của cô, hay là muốn làm cô ấy tổn thương?”
Hoán Bích thấy sắc mặt tôi biến đổi hẳn, bất giác có chút hoang mang, kéo tay áo tôi, thấp giọng gọi: “Tiểu thư…”
Bờ môi hơi tái đi, Huyền Thanh đưa tay tới đỡ lấy thân thể tôi, khẽ gọi: “Hoàn Nhi!”
Đương cơn chấn động, tôi bất giác sững người, trước đây y chưa từng xưng hô như vậy bao giờ, Hoàn Nhi, không ngờ y lại gọi tôi bằng khuê danh của tôi ngày trước. Rất lâu, rất lâu rồi, chưa có ai gọi tên tôi như vậy, ngay cả Huyền Lăng cũng chỉ gọi tôi là “Hoàn Hoàn”. Trong khoảnh khắc ấy, trong lòng tôi trào dâng vô vàn cảm xúc vừa buồn vừa vui, bỗng dưng sinh ra cảm giác như được trùng phùng với chuyện cũ.
Thế nhưng, cảm giác ấy chỉ lóe hiện trong trái tim tôi, tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, lạnh lùng đưa tay gạt bàn tay đang đỡ tôi của Huyền Thanh ra, khôi phục lại bộ dáng hờ hững thường ngày, khẽ nói: “Pháp hiệu của ta là Mạc Sầu.”
Mạc Sầu, cái tên này đã hoàn toàn ngăn cách tôi với những chuyện ngày xưa. Giờ đây, tôi là Mạc Sầu đang để tóc tu hành.
Trên khuôn mặt thoáng qua một tia hụt hẫng và buồn thương sâu sắc, y lẳng lặng buông bàn tay ra.
Tôi nói với giọng hòa hoãn hơn chút: “Hoán Bích dù gì cũng là con gái, dễ xấu hổ, vội vã bàn tới việc hôn nhân thế này cũng không tốt, đợi sau khi quay về, ta sẽ hỏi han muội ấy kĩ càng một phen.”
“Không cần.” Hoán Bích cất giọng kiên quyết mà lạnh lẽo, thân thể thẳng tắp dựa vào một gốc cây cạnh đó. “Chúng ta đã nói rõ ràng rồi, không cần chia làm hai lần làm gì cả, chỉ một lần là đủ rồi.” Ánh mắt nhìn đăm đăm vào A Tấn, Hoán Bích cắn môi hỏi: “A Tấn, ngươi nói thực với ta, ngươi có thích ta không?”
A Tấn nào đã từng gặp một nữ tử nói năng thẳng thắn như vậy, không khỏi đỏ mặt tía tai, nôn nóng đến nỗi lời nói có chút lắp bắp: “Không phải, không phải! Bích cô nương, ta thật sự thích cô nhưng ta chỉ coi cô như em gái thôi!”
Sắc mặt nhẹ nhõm hẳn đi, Hoán Bích thở phào một hơi, nói: “Huynh không thích ta, ta tất nhiên sẽ không lấy một người không thích mình. Nhưng điều quan trọng nhất là ta cũng không thích huynh. Nếu như Hoán Bích ta không thích ai, nhất định sẽ không lấy người đó, dù người đó có thích ta đến thế nào!” Hoán Bích đưa mắt liếc nhìn tôi, tâm tư này của muội ấy thực sự rất giống tâm tư của tôi với Ôn Thực Sơ khi trước. Hoán Bích định thần một chút, nói tiếp: “Nếu có một ngày phải gả chồng, tự ta sẽ nói với tiểu thư, không cần người khác mất công an bài cho ta làm gì. Nếu ta thích một ai đó, dù phải làm thiếp của y, ta cũng cam tâm tình nguyện. Còn bây giờ, ta chỉ muốn được bầu bạn bên tiểu thư thôi. Hôm nay ta xin được nói rõ, sau này việc hôn nhân của ta không cần bất cứ người nào khác nhắc tới.” Dứt khoát, Hoán Bích thở phào một hơi như thể vừa giải quyết được một mối tâm sự lớn, thế nhưng dù gì nàng ta cũng là con gái, sau khi đứng trước mặt mọi người nói ra những lời kiên quyết như vậy, khuôn mặt xinh đẹp mau chóng trở nên đỏ bừng, giậm chân một cái rồi vội vã chạy đi.
A Tấn lúng túng nói: “Tiểu nhân dù sao cũng không xứng với Hoán Bích cô nương.”
Tôi dịu giọng nói: “Hoán Bích xưa nay tâm khí rất cao, bây giờ lại vừa cùng ta trải qua cơn biến cố, khó tránh khỏi sinh lòng thờ ơ trước mọi việc, mong Vương gia thứ lỗi.”
Huyền Thanh cũng buồn bực không thôi, ánh mắt đầy vẻ áy náy. “Việc hôm nay là ta đã lỗ mãng rồi, ta chỉ mong Hoán Bích cô nương có thể sớm thành hôn, không ngờ lại khiến cô ấy tức giận.”
Tôi thầm lo lắng cho Hoán Bích, bèn nói: “Không sao đâu, để ta về an ủi muội ấy là được.” Sau đó, hơi khom người một cái, cũng không kịp cáo từ, tôi xoay người rời đi.
Tôi vừa về đến nơi, Cận Tịch đã lẳng lặng bước tới và hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao? Hoán Bích cô nương vừa về đã khóc rồi.”
Tôi bước vào xem thử, thấy Hoán Bích quả nhiên đang vùi đầu vào trong chăn khóc nức nở. Lòng tôi bất giác nguội ngắt từng cơn, nhất thời cũng không biết nên khuyên nhủ thế nào, đành đi cắm bông sen nhỏ kia vào trong bình.
Ngày hôm sau ngủ dậy, tôi phát hiện bông sen cắm trong bình sau một đêm đã chỉ còn lại phần cọng sen hơi ngả màu vàng, những cánh sen hồng phấn rụng xuống lác đác xung quanh chiếc bình sứ, tựa như những cánh bướm chẳng thể bay lên, nằm lặng im một chỗ.
Tôi khẽ cất tiếng thở dài, thương cảm nói: “Một bông hoa đẹp như vậy, không ngờ chỉ sau một đêm đã tàn rồi.”
“Bông hoa nở đầu tiên thường không thể tồn tại quá lâu.” Giọng nói lạnh băng của Hoán Bích chợt vang lên phía sau lưng. Hoán Bích đưa tay gạt những cánh hoa vào trong một chiếc túi vải, nói tiếp: “Để nô tỳ mang chúng đi phơi nắng, vậy là có thể giữ lại được lâu dài.”
Tôi đưa tay giữ lấy bàn tay Hoán Bích. “Hoán Bích, muội còn khó chịu sao?”
Hoán Bích mỉm cười, nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ cả đêm, Vương gia dù sao cũng suy nghĩ cho nô tỳ”, rồi lại hơi nhếch khóe môi. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ là con gái cố nhân của Thư Quý thái phi, an bài để nô tỳ thành thân với người mà y quen thuộc thì có gì là không đúng?” Lúc này vẻ cô đơn và hụt hẫng trong mắt Hoán Bích hiện lên hết sức rõ ràng. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ chỉ là một tiểu nha hoàn bên cạnh tiểu thư, do đó, tất nhiên chỉ có thể gả cho tùy tùng thân tín của y thôi, lại càng chẳng có gì là sai cả.”
Tôi thở dài, nói: “Hoán Bích, muội vẫn luôn thông minh, chớ nên tự đẩy mình vào chỗ khó như thế. Cho dù hôm qua Vương gia không biết muội là con gái của Hà di nương thì cũng biết muội và ta tình như tỷ muội, ắt sẽ không có lòng tùy tiện gả muội cho một gã người hầu đâu. Chính vì y biết ta với muội tình như tỷ muội, lại có lời nhờ cậy của Thái phi, do đó mới muốn gả muội cho một người mà y tin tưởng.” Tôi khẽ gạt mấy sợi tóc rối trước trán Hoán Bích, nói tiếp: “Huống chi, muội với A Tấn xưa nay luôn nói chuyện với nhau rất hợp, do dó khó tránh khỏi khiến Vương gia hiểu lầm.”
Hoán Bích ban đầu chỉ lẳng lặng lắng nghe, nhưng khi nghe thấy câu cuối cùng, đột nhiên ngẩng lên nhìn tôi chăm chú. “Nhưng…” Nụ cười của Hoán Bích dần trở nên sâu sắc. “Vương gia và tiểu thư xưa nay nói chuyện cũng rất hợp nhau mà.”
Hoán Bích nhấn mạnh vào hai chữ “xưa nay”, tôi nghe mà thầm kinh hãi: “Ta cũng chỉ nói chuyện hợp với Vương gia mà thôi. Chính vì thế nên muội mới nghi ngờ Vương gia mượn việc hôn nhân của muội để tiếp cận ta, đúng không?”
Hoán Bích cắn chặt môi, cúi gằm mặt xuống, lát sau mới nói: “Nô tỳ cứ luôn cảm thấy Vương gia đối xử với tiểu thư quá tốt, còn đi ngàn dặm xa xôi mang thư nhà tới cho tiểu thư nữa.”
“Vậy…” Tôi hỏi: “Ôn Thực Sơ đối xử với ta thế nào? Còn ta thì đối xử với y ra sao?”
“Ôn đại nhân từ nhỏ đã đối xử với tiểu thư rất tốt, nên tiểu thư cũng biết giữ chừng mực. Ngày đó khi vừa tới chùa Cam Lộ, nô tỳ thấy tiểu thư phải chịu đủ điều ấm ức, vất vả, cũng rất muốn tiểu thư có được một chỗ dựa cả đời, dù là kín đáo không để ai biết cũng tốt. Đương nhiên, bất kể là về phẩm cách, tướng mạo hay khí độ, học thức, Vương gia đều hơn hẳn Ôn đại nhân, nhưng…” Thoáng do dự, Hoán Bích nói tiếp: “Vương gia là đệ đệ của Hoàng thượng.”
Lời của Hoán Bích tựa như một chậu nước lạnh băng giội thẳng xuống đầu tôi. Tôi trầm ngâm một chút rồi hờ hững nói: “Ta nào phải không biết điều này, hơn nữa ta cũng chẳng có chút tâm tư nào khác với y.”
Hoán Bích không khỏi có chút nôn nóng, lay nhẹ người tôi, nói: “Nô tỳ biết hôm qua mình đã nói rất nhiều lời làm tiểu thư tổn thương nhưng dù tiểu thư không có tâm tư gì với Vương gia, chẳng lẽ Vương gia cũng không có tâm tư gì với tiểu thư sao? Có một số việc vẫn nên cẩn thận một chút, chúng ta… chúng ta thật sự không thể chịu được cơn trắc trở nào nữa rồi.”
Tôi im lặng hồi lâu, dường như những làn khói đàn hương trong phòng đã dần làm mờ đôi mắt tôi, tôi miễn cưỡng cười, nói: “Hoán Bích, muội cứ yên tâm, không có việc đó đâu. Vương gia coi ta là tri kỷ, ta cũng coi y là tri kỷ. Bất kể là ở trong cung hay ngoài cung, y đều đã giúp đỡ ta rất nhiều, muội đã từng thấy y có lời lẽ nào mạo phạm ta chưa? Tất nhiên, ta cũng biết là phải có chừng mực.”
Hoán Bích khẽ gật đầu, tựa người vào lòng tôi, rủ rỉ nói: “Tiểu thư, từ nhỏ nô tỳ đã không có mẹ, đều là do tiểu thư một tay chăm sóc. Bây giờ, chỉ còn hai tỷ muội chúng ta nương tựa vào nhau thôi.”
Tôi khẽ xoa đầu Hoán Bích, ôn tồn nói: “Ta biết, ta biết chứ!”
Thế nhưng từ tận đáy lòng, tôi lại không kìm được thầm thở dài một tiếng. Có lẽ, tôi thật sự nên chú ý giữ khoảng cách với Huyền Thanh.
Phải giữ khoảng cách với Huyền Thanh, trong lòng tôi ít nhiều gì cũng sinh ra một chút khúc mắc. Trong quãng thời gian sau đó, tôi không còn tới bên bờ sông nữa. Y là người hết sức thông minh, biết là tôi cố ý né tránh, do vậy cũng ít lui tới hơn. Thỉnh thoảng giữa buổi chiều tĩnh lặng, tôi nghe thấy trong làn gió thấp thoáng tiếng ca cao vút mà vui vẻ của A Nô, vẫn là khúc hát ngày đó:
Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…
Tiếng ca xuyên qua lớp lớp đình đài lầu các, dừng lại trên mỗi phiến ngói lưu ly trong chùa Cam Lộ, Tịnh Bạch trề môi nói với giọng chán ghét: “Lời ca dâm dật, thực là khinh nhờn Phật Tổ.”
Trụ trì thì lại nói: “Có lòng nghe, tất nhiên là sẽ nghe thấy, cứ làm ngơ, không để ý tới là được.”
Tôi thầm thở dài, dù tôi vô tâm nhưng lời ca ấy cũng đã lọt vào tai tôi.
Trong thời gian này, tôi phát hiện Hoán Bích có mấy lần đi tới bên bờ sông, khi quay về thì cả giày và tất đều bị ướt, thế là bèn hỏi xem có chuyện gì. Hoán Bích chỉ đáp: “Lần trước, những lời của nô tỳ hình như đã làm tổn thương Vương gia và A Tấn, có lúc nô tỳ thật sự muốn trực tiếp xin lỗi bọn họ.” Thoáng dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Dù sao, Vương gia cũng đối xử với chúng ta rất tốt.”
Sau một thoáng lặng im, tôi nói: “Hoán Bích, những lời của muội lần này khác hẳn với lần trước, hình như có chút mâu thuẫn đấy.”
Hoán Bích nghẹn lời, lúng túng nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ nói ra lời trong lòng mà thôi.”
“Vậy…” Tôi hỏi: “Muội có gặp được Vương gia không?”
“Có gặp mấy lần.” Hoán Bích cúi đầu, mân mê mép áo. “Nhưng y chỉ nhìn mặt sông mà ngơ ngẩn, lần nào cũng chỉ có A Tấn nói chuyện với nô tỳ, thành ra nô tỳ không cách nào mà xin lỗi được.”
Tôi khẽ “ừm” một tiếng, cũng không suy nghĩ gì nhiều. Sự quan tâm của Huyền Thanh vẫn chưa từng gián đoạn, chỉ là bây giờ phải thông qua Cận Tịch mà thôi. Có lúc y bảo Cận Tịch đưa tranh của Lung Nguyệt tới, có lúc lại hỏi Cận Tịch xem tôi có khỏe không.
Tất nhiên, ngay từ lúc ở trong cung, Cận Tịch và y đã khá thân thuộc với nhau rồi.
Mùa hạ rất nhanh đã qua đi và mùa thu lại tới.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook