Diary In Grey Tower
-
Chương 3
Andemund chỉ ở lại Cambridge ba tháng, không tổ chức tiệc chia tay, cả thi cuối kỳ ảnh cũng không xuất hiện, chỉ để lại một đề toán trên bảng vào tiết học cuối cùng.
Anh ấy mỉm cười với bọn sinh viên ngồi đông nghịt trong giảng đường, xoay xoay mẩu phấn kẹp giữa hai ngón tay, nói: “Các em có hai lựa chọn… qua bài thi cuối kỳ của tôi, hoặc giải được đề bài này trước khi kỳ thi bắt đầu, cứ gọi điện báo cho tôi.”
Đề thi Andemund ra khó chết đi được, thành ra hầu hết chẳng có ai qua. Bảng điểm dán trên bảng thông báo ngoài thư viện, tôi chen chân vào xem, thấy tên mình nằm hoành tráng ngay đầu bảng trượt.
Tôi túm cổ áo Edgar lắc lắc điên loạn, không đời nào thế được, rõ ràng đã làm hết từ đầu đến cuối mà!!
“Chắc cậu tính sai chỗ nào rồi.” cậu ta đành ngừng vẽ, giơ cao hai tay: “Cậu nên đi tìm giáo sư Wilson xin phúc tra đi.”
Cơ mà Andemund đã tới trang trại Plymton rồi còn đâu. Thậm chí ảnh đi từ trước khi kỳ thi bắt đầu, hôm thi cũng để trợ giảng phát đề thay.
Giáo viên trợ giảng là một cô nàng ưa mắc cỡ, cao chỉ tới vai tôi. Cổ lấy bài thi của tôi ra, lại lấy cả bảng điểm Andemund đã ký, xem rồi nhíu mày nói: “Alan Castor phải không? Điểm chuyên cần lên lớp của em là 0.”
Quy định của Andemund là điểm thi và điểm chuyên cần chia 50/50. Tôi nghĩ mà ức: “Em nhớ là em có lên lớp mấy buổi mà, sao 0 điểm được? Hay bị nhầm ở đâu rồi ạ?”
Cô ta tiếc nuối thu lại bài thi: “Giáo sư Wilson nói điểm số này không thể sửa được.”
Edgar vỗ vai tôi: “Cậu bị trả thù rồi. Cậu làm gì ổng rồi hả?”
Nào tôi đã làm gì đâu, chỉ hôn ảnh có một cái thôi mà…
Bác tôi rất quan tâm đến bảng điểm trường gửi về, điểm số trong ấy can hệ trực tiếp đến trợ cấp sinh hoạt phí của tôi. Bởi vậy giờ chỉ còn một cách…
“Chỉ còn một cách thôi.” tôi thảm thương nhìn Edgar: “Trượt một môn thì tháng sau bánh mì tôi cũng không có mà gặm.”
Tôi không muốn đến gõ cửa Lindon, nhưng chẳng còn đường nào nữa.
Cậu ta ở tầng trên cùng một khu nhà trọ cho sinh viên. Cửa khép hờ, đẩy ra ngó vào thấy vắng vẻ như không người. Cửa sổ thì mở, đối diện cửa sổ là một cái bàn màu xanh nhạt, nước sơn đã muốn bong tróc tùm lum. Trên bàn bày giấy tờ bừa bộn, cửa bị đẩy ra làm gió ùa vào, vài tờ giấy đã bay tung lên. Tôi bắt được một tờ, thấy toàn số với công thức viết ngoáy.
Bút máy nằm trên tập giấy, bình mực vẫn mở. Tôi đá ván giường, ngồi xuống lôi một cái xác dưới gầm ra, tuyệt vọng nói: “Lindon à, mình nhất định phải hợp tác.”
Cái thằng dưới gầm giường coi bộ còn chán đời hơn cả tôi. Râu cậu ta chắc cả tuần rồi không cạo, tóc tai bù xù như cỏ khô. Cậu ta gọi chủ nhà mang thịt xông khói và cà phê lên, ăn một lèo xong đẩy gọng kính, thở dài nói: “Alan, tôi không giải được.”
Lindon là bạn học trung học với tôi, thư báo trúng tuyển của chúng tôi cũng được ký cùng một ngày. Thành tích các môn của cậu ấy luôn xếp thứ nhất, là thiên tài từ số học trở đi, đã từng tự mình chứng minh được định lý nổi tiếng. Một trong những niềm vui của cậu ta là vác quả đầu như cỏ khô, ngồi xổm cạnh bãi tập xem người ta chơi bóng bầu dục, rồi dựa vào lực ném và góc độ để lầm rầm tính xem bóng có đến được cầu môn hay không.
Có bữa tôi vừa đi ngang qua, nghe thấy cậu ta hét: “Vào được!”
Tôi bảo: “Trượt cho xem.”
Quả nhiên bóng bay trượt. Lindon hỏi tôi sao lại thế, theo cậu ấy tính chắc chắn phải vào.
“Thì có gió mà.” Tôi lười biếng đáp.
Từ đó trở đi chúng tôi thành địch thủ. Cậu ấy vẫn xếp thứ nhất tất cả các môn, tôi chỉ nhất được mỗi số học. Có điều đến tận khi tốt nghiệp, điểm số học của cậu ấy chưa bao giờ vượt được tôi.
Kỳ thi lần này tôi trượt vì Andemund cố tình trả thù, Lindon trượt vì thật tình cậu ta bùng học lắm quá. Gặp đề bài không giải ra, tôi thường ra cửa thư viện ngồi xổm ngắm nữ sinh lượn qua lượn lại, chờ linh cảm chủ động đến viếng thăm mình. Cách của cậu ta thì cực đoan hơn… chui gầm giường nằm, kéo ra giường xuống che kín hết ánh sáng, rồi nghĩ trong bóng tối. Không tìm ra đáp án sẽ không chui ra.
Nếu bài khó quá, cậu ta sẽ nằm dưới gầm giường cả ngày, giờ học nào cũng bỏ hết.
“Lần này cậu nằm gầm giường bao lâu rồi?” tôi hỏi.
Lindon bẻ một mẩu bánh mì: “Không nhớ lắm, hình như vào từ hôm thứ ba.”
Ba ngày liền… tôi nghĩ.
“Vẫn cái đề giáo sư Wilson viết lên bảng đấy.” cậu ấy nhún vai, quay lại nhìn tôi chằm chằm: “Có liên quan đến Vấn đề của Warren. Alan, tôi biết cậu định làm gì rồi, nhưng tôi phải nói với cậu là cái này mình không thể giải được đâu.”
Tôi biết Andemund viết lên bảng một đề bài, chỉ hai dòng, nhưng tôi không biết nó là Vấn đề của Warren.
Đó là suy đoán về bình phương của số nguyên E. Warren đưa ra năm 1770, gần hai trăm năm nay, chưa một ai có thể trình bày và chứng minh được nó.
Tôi ngồi trong thư viện, tuyệt vọng cùng cực. Lật coi hết mọi cuốn sách đề cập đến định lý Warren, tuyệt nhiên không có manh mối gì cả. Edgar lại đến an ủi tôi, bảo tôi thôi bỏ đi, sinh hoạt phí tháng tới cậu ta sẽ cho tôi mượn.
Tôi cười giễu cậu ấy: “Chứ cậu lấy đâu ra tiền? Bán tranh hở?”
Kết quả là cậu ta nghiêm túc gật đầu: “Ít ra tôi còn có thể bán tranh, còn cậu chẳng có cách nào kiếm tiền cả, cứ hành xác thế này, chẳng bằng đi về với tôi đi. Đề toán hóc búa nổi tiếng thế giới đâu phải sinh viên năm hai chứng minh được.”
“Trông cậu chán lắm rồi đấy, cứ thế này mãi rồi làm sao làm mẫu cho tôi được nữa… tôi không định vẽ bộ xương khô suốt ngày đâu.” cậu ta nói.
Tôi ngồi trong thư viện hai tuần lễ, giấy nháp chất được một đống cao nửa foot. Không biết có viết lộn chỗ nào không, mà điều kiện đề bài Andemund cho tính ra lại có những điểm khác biệt rất tinh vi so với định lý Warren kinh điển, dẫn đến tính toán xong mới thấy thiếu mất mấy chữ số quan trọng.
Chính xác là thiếu sáu chữ số, vậy là tôi hết đường xoay xở.
Tôi tính gọi cho Lindon, hỏi ý kiến cậu ta (nhà trọ cậu ta ở có mắc điện thoại), liền ra buồng điện thoại công cộng. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ quay quay sáu con số kia, rồi không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào cứ thế bấm gọi đúng sáu số ấy.
Chỉ một lát, đầu dây bên kia vang lên giọng nữ dịu dàng: “Xin chào, đây là trang trại Plymton.”
Tôi cầm ống nghe, hóa đá luôn trong buồng điện thoại, lại thấy bên kia hỏi: “Xin hỏi ngài tìm ai?”
“Giáo sư Wilson.” tôi đáp.
“Ở đây không có giáo sư Wilson.” cô gái nhận điện thoại có vẻ khó hiểu: “Đây là đường dây của cố vấn Garcia.”
“Ở đó có người tên là Andemund Wilson chứ? Tôi nhớ tháng trước giáo sư Wilson nói sẽ đến đó làm việc mà.”
“Cậu ở Cambridge phải không?” có lẽ tôi nói năng nghe ra giọng sinh viên quá, thành ra cô kia bật cười. Lúc sau cô ta nói với ai đó: “Ngài Garcia, có sinh viên tìm được chúng ta thật này. Gọi cậu ấy đến đây ngay nhé?”
Tôi nghe thấy giọng Andemund trả lời: “Hỏi giùm tôi tên cậu ta, nếu là họ Castor, cô bảo cậu ta gọi nhầm số rồi.”
Đến lúc cô gái kia hỏi, tôi nuốt nước miếng, cố giữ giọng bình thường: “Lindon, tôi là Lindon Brown.”
Chiều hôm sau, tôi nhảy xe đi London, tìm đến trang trại Plymton ở ngoại thành.
Mới tháng sáu đầu hè, những cây hòe già hai bên đại lộ trổ lá xum xuê. Xuống xe, đi bộ đến cuối đường là trang trại Plymton. Trời đã hơi nóng, tôi vừa đi vừa cởi bớt hai cúc áo sơ-mi. Từ cổng sắt nhìn vào chỉ thấy một khu nhà gạch kiểu xưa, cơ man cây leo màu xanh lục quấn rủ trên bức tường thấp, cùng rung rinh theo một cơn gió xế trưa. Ngoại ô London có vố số trang trại, nơi này thật sự chẳng có gì khiến người ta chú ý.
Ngoại trừ lính gác bồng súng đứng cạnh cổng.
Tôi báo danh, lúc sau có một cô gái mặc sơ-mi, quần dài xuất hiện dẫn tôi vào. Thời ấy phụ nữ mặc quần áo như vậy thật sự rất hiếm, vì thế gương mặt xinh đẹp và vóc dáng đầy đặn của cô ấy đã làm tôi rất ấn tượng.
“Tôi là Annie, trợ lý của ngài Garcia.” nghe ra đây là giọng cô gái tiếp điện thoại của tôi hôm qua. Thì ra không phải tổng đài viên, là trợ lý nữ.
Annie dẫn tôi đi qua hơn nửa trang trại, vào một tòa nhà gạch đỏ biệt lập: “Ngài Garcia là Tổng cố vấn của chúng tôi, cậu ngồi đợi một lát ngài ấy sẽ ra gặp cậu.”
Cô ấy mở cửa một phòng làm việc, để tôi vào đó ngồi chờ.
Mười phút sau, Andemund đến.
Vừa đẩy cửa vào, nhìn thấy tôi, anh ấy liền nhíu mày: “Alan, em không nên tới đây.”
Tôi cũng kinh hoàng thực sự: “Anh không phải giáo sư Andemund Wilson chuyên nghiên cứu giải tích học sao?”
Anh ấy gỡ cà-vạt vắt lên lưng ghế: “Nói cho đúng, tôi vừa là Andemund Wilson, vừa là Andemund Garcia. Cái đó tùy thuộc vào việc tôi ở giới học thuật hay trang trại Plymton.”
Edgar nói đúng, Andemund không đời nào trông chờ bọn sinh viên số học năm hai của Cambridge chứng minh được một đề bài hai trăm năm. Anh ấy gài vào câu đố một mã số, hy vọng ai đó sẽ tìm ra nó, và còn đoán được chính xác phải dùng nó thế nào.
Nói cách khác, anh ấy không phải đang ra một đề số học, mà là một mật mã.
Nhưng Andemund không để tôi có cơ hội giải thích, ảnh xách cổ tôi quẳng luôn ra ngoài. Người đẹp trợ lý đứng trực ở cửa, tôi đành dõi mắt tràn trề hy vọng nhìn Andemund ngồi xử lý tài liệu trên cái bàn ngoại cỡ, mà không thể nào bước nửa bước vào phòng.
“Anh đã bảo giải được đề bài là đạt mà.” Tôi phản đối.
Andemund không buồn ngẩng lên: “Giờ em qua rồi đó, tôi sẽ điện cho trường ngay đây, em về được rồi.”
“Anh không có quyền cho tôi 0 điểm chuyên cần… đấy là trả thù trắng trợn!”
Anh ấy ngừng viết: “Tôi không nhớ em có gì để tôi phải trả thù.”
Sau đó thì ảnh quyết không nói với tôi câu nào nữa.
Đến khi Andemund bước ra khỏi phòng làm việc, trời đã tối sụp. Tối đến còn oi bức hơn ban ngày, thấy tôi vẫn đứng dựa tường đợi, Andemund hình như rất bất ngờ.
“Cưng à, em nghĩ không chừng anh không nỡ để em đi đâu, thế nên em đành ở lại thôi.” Tôi vẫn dựa tường, vẩy vẩy chân: “Ba mẹ em là chuyên viên giải mã, thành ra ít nhiều em cũng đoán được đấy. Chỗ này không phải trang trại bình thường, hẳn là cơ sở nghiên cứu mật mã thuộc cục tình báo của chúng ta rồi. Anh thiếu người, thiếu nhiều kìa, nên mới phải đến Cambridge tuyển. Anh xem, em đã biết địa điểm nghiên cứu bí mật của mấy người rồi, còn được tham quan cả bên trong nữa…”
Andemund nhẹ nhàng nói: “Nói tiếp đi.”
Cặp mắt màu lục của anh nhìn tôi chăm chú, nhìn một hồi hại tôi lạnh toát sống lưng. Vậy là tôi im.
Anh ấy thở dài: “Đi ăn với tôi.”
Tầng hai có một nhà ăn rộng rãi sáng sủa, hẳn là phòng chuyên dành cho Tổng cố vấn. Tôi không ý kiến gì nữa, gọi luôn chân giò hun khói, thịt nguội, trứng tráng và một miếng to bánh mỳ nướng, Andemund làm việc cả ngày mà ăn có chút xíu, cà phê đen lại uống liền ba ly.
“Thế không tốt cho dạ dày đâu.” tôi nhắc nhở ảnh: “Mẹ em cũng quen uống cà phê đen, hồi bé em nhớ bà vẫn mất ngủ vì đau dạ dày.”
Andemund đặt ly cà phê xuống, cười cười: “Mắt em rất giống phu nhân Castor, lúc chăm chú thì càng giống. Tôi đã từng gặp bà ấy, bà ấy là một chuyên gia mật mã rất giỏi.”
Tôi không biết Andemund từng gặp mẹ mình rồi, lần đầu gặp nhau lúc ảnh nhắc đến ba mẹ tôi, cũng đâu có vẻ quen thuộc gì.
Andemund có vẻ rất mệt mỏi, tôi hỏi ảnh: “Mọi hôm anh vẫn ăn muộn vậy hả?”
Anh ấy ngả người ra ghế, ngẩng đầu lên, giơ tay bưng mắt: “Mê, muốn giải thật quá khó.”
Anh ấy nói: “Em nói đúng, Alan. Chỗ này là đơn vị bí mật trực thuộc cơ quan tình báo, nội bộ chúng tôi gọi là Học viện mật mã, với bên ngoài thường là Hội nghiên cứu golf và cờ vua. Ý đồ của Đức rất khó nắm bắt, để tránh thảm kịch chiến tranh, có một số mật mã quan trọng chúng tôi phải giải cho ra. Ba Lan thu được máy mã hóa của Đức, Nga chặn được một số bản mật mã cũ của chúng, nhưng bọn họ đều chịu thua. Giờ máy mã hóa “Mê” và bản phục chế những mật mã cũ đó đã được chuyển về đây, nước Anh không thể bỏ qua cơ hội này. Đúng là chúng tôi đang rất thiếu nhân tài.”
Thế nên việc Andemund mới đến Cambridge dạy học là được sắp đặt, để chọn lựa chuyên viên giải mã ưu tú nhất cho MI-6. Anh ấy đã chọn bằng hai cách, một là ba người đứng đầu kỳ thi, hai là người phát hiện ra cách liên lạc anh ấy cài vào đề bài.
Tôi thi đương nhiên là ổn, coi bộ Andemund bị tôi lẵng nhẵng chạy theo mãi phát chán, thành ra cho luôn 0 điểm chuyên cần, ai biết đâu tôi vẫn đuổi được đến đây.
Giờ này có về cũng chẳng kịp, Annie xếp cho tôi một phòng nghỉ qua đêm. Hôm sau Andemund đích thân lái xe đưa tôi về trường, một chiếc xe thân dài màu đen hết sức xa xỉ. Tôi không biết đây là xe gì, chỉ nhớ hồi đó xe riêng có rèm che không nhiều lắm, đi ngoài đường thì hết sức bắt mắt, làm tôi tự dưng tưởng tượng rằng chúng tôi đang cùng đi hóng gió.
Đến Cambridge, tự dưng anh ấy bảo, Alan, chuyện nói hôm qua phải quên hết đi. Coi như em chưa từng nghe gì cả.
Andemund đậu xe dưới ký túc của tôi, tôi xuống xe rồi, gõ gõ cửa kính cúi xuống bảo: “Andemund, em yêu anh, em nói nghiêm túc đấy. Nếu “Mê” thực sự khó vậy, em sẵn sàng giúp anh một tay.”
Anh ấy nheo mắt cười, đột nhiên mở cửa bên kia, xuống xe, đi vòng đầu xe đến chỗ tôi. Tôi còn chưa kịp phản ứng, đã bị ảnh đẩy ngã lên cửa xe.
Anh ấy mỉm cười với bọn sinh viên ngồi đông nghịt trong giảng đường, xoay xoay mẩu phấn kẹp giữa hai ngón tay, nói: “Các em có hai lựa chọn… qua bài thi cuối kỳ của tôi, hoặc giải được đề bài này trước khi kỳ thi bắt đầu, cứ gọi điện báo cho tôi.”
Đề thi Andemund ra khó chết đi được, thành ra hầu hết chẳng có ai qua. Bảng điểm dán trên bảng thông báo ngoài thư viện, tôi chen chân vào xem, thấy tên mình nằm hoành tráng ngay đầu bảng trượt.
Tôi túm cổ áo Edgar lắc lắc điên loạn, không đời nào thế được, rõ ràng đã làm hết từ đầu đến cuối mà!!
“Chắc cậu tính sai chỗ nào rồi.” cậu ta đành ngừng vẽ, giơ cao hai tay: “Cậu nên đi tìm giáo sư Wilson xin phúc tra đi.”
Cơ mà Andemund đã tới trang trại Plymton rồi còn đâu. Thậm chí ảnh đi từ trước khi kỳ thi bắt đầu, hôm thi cũng để trợ giảng phát đề thay.
Giáo viên trợ giảng là một cô nàng ưa mắc cỡ, cao chỉ tới vai tôi. Cổ lấy bài thi của tôi ra, lại lấy cả bảng điểm Andemund đã ký, xem rồi nhíu mày nói: “Alan Castor phải không? Điểm chuyên cần lên lớp của em là 0.”
Quy định của Andemund là điểm thi và điểm chuyên cần chia 50/50. Tôi nghĩ mà ức: “Em nhớ là em có lên lớp mấy buổi mà, sao 0 điểm được? Hay bị nhầm ở đâu rồi ạ?”
Cô ta tiếc nuối thu lại bài thi: “Giáo sư Wilson nói điểm số này không thể sửa được.”
Edgar vỗ vai tôi: “Cậu bị trả thù rồi. Cậu làm gì ổng rồi hả?”
Nào tôi đã làm gì đâu, chỉ hôn ảnh có một cái thôi mà…
Bác tôi rất quan tâm đến bảng điểm trường gửi về, điểm số trong ấy can hệ trực tiếp đến trợ cấp sinh hoạt phí của tôi. Bởi vậy giờ chỉ còn một cách…
“Chỉ còn một cách thôi.” tôi thảm thương nhìn Edgar: “Trượt một môn thì tháng sau bánh mì tôi cũng không có mà gặm.”
Tôi không muốn đến gõ cửa Lindon, nhưng chẳng còn đường nào nữa.
Cậu ta ở tầng trên cùng một khu nhà trọ cho sinh viên. Cửa khép hờ, đẩy ra ngó vào thấy vắng vẻ như không người. Cửa sổ thì mở, đối diện cửa sổ là một cái bàn màu xanh nhạt, nước sơn đã muốn bong tróc tùm lum. Trên bàn bày giấy tờ bừa bộn, cửa bị đẩy ra làm gió ùa vào, vài tờ giấy đã bay tung lên. Tôi bắt được một tờ, thấy toàn số với công thức viết ngoáy.
Bút máy nằm trên tập giấy, bình mực vẫn mở. Tôi đá ván giường, ngồi xuống lôi một cái xác dưới gầm ra, tuyệt vọng nói: “Lindon à, mình nhất định phải hợp tác.”
Cái thằng dưới gầm giường coi bộ còn chán đời hơn cả tôi. Râu cậu ta chắc cả tuần rồi không cạo, tóc tai bù xù như cỏ khô. Cậu ta gọi chủ nhà mang thịt xông khói và cà phê lên, ăn một lèo xong đẩy gọng kính, thở dài nói: “Alan, tôi không giải được.”
Lindon là bạn học trung học với tôi, thư báo trúng tuyển của chúng tôi cũng được ký cùng một ngày. Thành tích các môn của cậu ấy luôn xếp thứ nhất, là thiên tài từ số học trở đi, đã từng tự mình chứng minh được định lý nổi tiếng. Một trong những niềm vui của cậu ta là vác quả đầu như cỏ khô, ngồi xổm cạnh bãi tập xem người ta chơi bóng bầu dục, rồi dựa vào lực ném và góc độ để lầm rầm tính xem bóng có đến được cầu môn hay không.
Có bữa tôi vừa đi ngang qua, nghe thấy cậu ta hét: “Vào được!”
Tôi bảo: “Trượt cho xem.”
Quả nhiên bóng bay trượt. Lindon hỏi tôi sao lại thế, theo cậu ấy tính chắc chắn phải vào.
“Thì có gió mà.” Tôi lười biếng đáp.
Từ đó trở đi chúng tôi thành địch thủ. Cậu ấy vẫn xếp thứ nhất tất cả các môn, tôi chỉ nhất được mỗi số học. Có điều đến tận khi tốt nghiệp, điểm số học của cậu ấy chưa bao giờ vượt được tôi.
Kỳ thi lần này tôi trượt vì Andemund cố tình trả thù, Lindon trượt vì thật tình cậu ta bùng học lắm quá. Gặp đề bài không giải ra, tôi thường ra cửa thư viện ngồi xổm ngắm nữ sinh lượn qua lượn lại, chờ linh cảm chủ động đến viếng thăm mình. Cách của cậu ta thì cực đoan hơn… chui gầm giường nằm, kéo ra giường xuống che kín hết ánh sáng, rồi nghĩ trong bóng tối. Không tìm ra đáp án sẽ không chui ra.
Nếu bài khó quá, cậu ta sẽ nằm dưới gầm giường cả ngày, giờ học nào cũng bỏ hết.
“Lần này cậu nằm gầm giường bao lâu rồi?” tôi hỏi.
Lindon bẻ một mẩu bánh mì: “Không nhớ lắm, hình như vào từ hôm thứ ba.”
Ba ngày liền… tôi nghĩ.
“Vẫn cái đề giáo sư Wilson viết lên bảng đấy.” cậu ấy nhún vai, quay lại nhìn tôi chằm chằm: “Có liên quan đến Vấn đề của Warren. Alan, tôi biết cậu định làm gì rồi, nhưng tôi phải nói với cậu là cái này mình không thể giải được đâu.”
Tôi biết Andemund viết lên bảng một đề bài, chỉ hai dòng, nhưng tôi không biết nó là Vấn đề của Warren.
Đó là suy đoán về bình phương của số nguyên E. Warren đưa ra năm 1770, gần hai trăm năm nay, chưa một ai có thể trình bày và chứng minh được nó.
Tôi ngồi trong thư viện, tuyệt vọng cùng cực. Lật coi hết mọi cuốn sách đề cập đến định lý Warren, tuyệt nhiên không có manh mối gì cả. Edgar lại đến an ủi tôi, bảo tôi thôi bỏ đi, sinh hoạt phí tháng tới cậu ta sẽ cho tôi mượn.
Tôi cười giễu cậu ấy: “Chứ cậu lấy đâu ra tiền? Bán tranh hở?”
Kết quả là cậu ta nghiêm túc gật đầu: “Ít ra tôi còn có thể bán tranh, còn cậu chẳng có cách nào kiếm tiền cả, cứ hành xác thế này, chẳng bằng đi về với tôi đi. Đề toán hóc búa nổi tiếng thế giới đâu phải sinh viên năm hai chứng minh được.”
“Trông cậu chán lắm rồi đấy, cứ thế này mãi rồi làm sao làm mẫu cho tôi được nữa… tôi không định vẽ bộ xương khô suốt ngày đâu.” cậu ta nói.
Tôi ngồi trong thư viện hai tuần lễ, giấy nháp chất được một đống cao nửa foot. Không biết có viết lộn chỗ nào không, mà điều kiện đề bài Andemund cho tính ra lại có những điểm khác biệt rất tinh vi so với định lý Warren kinh điển, dẫn đến tính toán xong mới thấy thiếu mất mấy chữ số quan trọng.
Chính xác là thiếu sáu chữ số, vậy là tôi hết đường xoay xở.
Tôi tính gọi cho Lindon, hỏi ý kiến cậu ta (nhà trọ cậu ta ở có mắc điện thoại), liền ra buồng điện thoại công cộng. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ quay quay sáu con số kia, rồi không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào cứ thế bấm gọi đúng sáu số ấy.
Chỉ một lát, đầu dây bên kia vang lên giọng nữ dịu dàng: “Xin chào, đây là trang trại Plymton.”
Tôi cầm ống nghe, hóa đá luôn trong buồng điện thoại, lại thấy bên kia hỏi: “Xin hỏi ngài tìm ai?”
“Giáo sư Wilson.” tôi đáp.
“Ở đây không có giáo sư Wilson.” cô gái nhận điện thoại có vẻ khó hiểu: “Đây là đường dây của cố vấn Garcia.”
“Ở đó có người tên là Andemund Wilson chứ? Tôi nhớ tháng trước giáo sư Wilson nói sẽ đến đó làm việc mà.”
“Cậu ở Cambridge phải không?” có lẽ tôi nói năng nghe ra giọng sinh viên quá, thành ra cô kia bật cười. Lúc sau cô ta nói với ai đó: “Ngài Garcia, có sinh viên tìm được chúng ta thật này. Gọi cậu ấy đến đây ngay nhé?”
Tôi nghe thấy giọng Andemund trả lời: “Hỏi giùm tôi tên cậu ta, nếu là họ Castor, cô bảo cậu ta gọi nhầm số rồi.”
Đến lúc cô gái kia hỏi, tôi nuốt nước miếng, cố giữ giọng bình thường: “Lindon, tôi là Lindon Brown.”
Chiều hôm sau, tôi nhảy xe đi London, tìm đến trang trại Plymton ở ngoại thành.
Mới tháng sáu đầu hè, những cây hòe già hai bên đại lộ trổ lá xum xuê. Xuống xe, đi bộ đến cuối đường là trang trại Plymton. Trời đã hơi nóng, tôi vừa đi vừa cởi bớt hai cúc áo sơ-mi. Từ cổng sắt nhìn vào chỉ thấy một khu nhà gạch kiểu xưa, cơ man cây leo màu xanh lục quấn rủ trên bức tường thấp, cùng rung rinh theo một cơn gió xế trưa. Ngoại ô London có vố số trang trại, nơi này thật sự chẳng có gì khiến người ta chú ý.
Ngoại trừ lính gác bồng súng đứng cạnh cổng.
Tôi báo danh, lúc sau có một cô gái mặc sơ-mi, quần dài xuất hiện dẫn tôi vào. Thời ấy phụ nữ mặc quần áo như vậy thật sự rất hiếm, vì thế gương mặt xinh đẹp và vóc dáng đầy đặn của cô ấy đã làm tôi rất ấn tượng.
“Tôi là Annie, trợ lý của ngài Garcia.” nghe ra đây là giọng cô gái tiếp điện thoại của tôi hôm qua. Thì ra không phải tổng đài viên, là trợ lý nữ.
Annie dẫn tôi đi qua hơn nửa trang trại, vào một tòa nhà gạch đỏ biệt lập: “Ngài Garcia là Tổng cố vấn của chúng tôi, cậu ngồi đợi một lát ngài ấy sẽ ra gặp cậu.”
Cô ấy mở cửa một phòng làm việc, để tôi vào đó ngồi chờ.
Mười phút sau, Andemund đến.
Vừa đẩy cửa vào, nhìn thấy tôi, anh ấy liền nhíu mày: “Alan, em không nên tới đây.”
Tôi cũng kinh hoàng thực sự: “Anh không phải giáo sư Andemund Wilson chuyên nghiên cứu giải tích học sao?”
Anh ấy gỡ cà-vạt vắt lên lưng ghế: “Nói cho đúng, tôi vừa là Andemund Wilson, vừa là Andemund Garcia. Cái đó tùy thuộc vào việc tôi ở giới học thuật hay trang trại Plymton.”
Edgar nói đúng, Andemund không đời nào trông chờ bọn sinh viên số học năm hai của Cambridge chứng minh được một đề bài hai trăm năm. Anh ấy gài vào câu đố một mã số, hy vọng ai đó sẽ tìm ra nó, và còn đoán được chính xác phải dùng nó thế nào.
Nói cách khác, anh ấy không phải đang ra một đề số học, mà là một mật mã.
Nhưng Andemund không để tôi có cơ hội giải thích, ảnh xách cổ tôi quẳng luôn ra ngoài. Người đẹp trợ lý đứng trực ở cửa, tôi đành dõi mắt tràn trề hy vọng nhìn Andemund ngồi xử lý tài liệu trên cái bàn ngoại cỡ, mà không thể nào bước nửa bước vào phòng.
“Anh đã bảo giải được đề bài là đạt mà.” Tôi phản đối.
Andemund không buồn ngẩng lên: “Giờ em qua rồi đó, tôi sẽ điện cho trường ngay đây, em về được rồi.”
“Anh không có quyền cho tôi 0 điểm chuyên cần… đấy là trả thù trắng trợn!”
Anh ấy ngừng viết: “Tôi không nhớ em có gì để tôi phải trả thù.”
Sau đó thì ảnh quyết không nói với tôi câu nào nữa.
Đến khi Andemund bước ra khỏi phòng làm việc, trời đã tối sụp. Tối đến còn oi bức hơn ban ngày, thấy tôi vẫn đứng dựa tường đợi, Andemund hình như rất bất ngờ.
“Cưng à, em nghĩ không chừng anh không nỡ để em đi đâu, thế nên em đành ở lại thôi.” Tôi vẫn dựa tường, vẩy vẩy chân: “Ba mẹ em là chuyên viên giải mã, thành ra ít nhiều em cũng đoán được đấy. Chỗ này không phải trang trại bình thường, hẳn là cơ sở nghiên cứu mật mã thuộc cục tình báo của chúng ta rồi. Anh thiếu người, thiếu nhiều kìa, nên mới phải đến Cambridge tuyển. Anh xem, em đã biết địa điểm nghiên cứu bí mật của mấy người rồi, còn được tham quan cả bên trong nữa…”
Andemund nhẹ nhàng nói: “Nói tiếp đi.”
Cặp mắt màu lục của anh nhìn tôi chăm chú, nhìn một hồi hại tôi lạnh toát sống lưng. Vậy là tôi im.
Anh ấy thở dài: “Đi ăn với tôi.”
Tầng hai có một nhà ăn rộng rãi sáng sủa, hẳn là phòng chuyên dành cho Tổng cố vấn. Tôi không ý kiến gì nữa, gọi luôn chân giò hun khói, thịt nguội, trứng tráng và một miếng to bánh mỳ nướng, Andemund làm việc cả ngày mà ăn có chút xíu, cà phê đen lại uống liền ba ly.
“Thế không tốt cho dạ dày đâu.” tôi nhắc nhở ảnh: “Mẹ em cũng quen uống cà phê đen, hồi bé em nhớ bà vẫn mất ngủ vì đau dạ dày.”
Andemund đặt ly cà phê xuống, cười cười: “Mắt em rất giống phu nhân Castor, lúc chăm chú thì càng giống. Tôi đã từng gặp bà ấy, bà ấy là một chuyên gia mật mã rất giỏi.”
Tôi không biết Andemund từng gặp mẹ mình rồi, lần đầu gặp nhau lúc ảnh nhắc đến ba mẹ tôi, cũng đâu có vẻ quen thuộc gì.
Andemund có vẻ rất mệt mỏi, tôi hỏi ảnh: “Mọi hôm anh vẫn ăn muộn vậy hả?”
Anh ấy ngả người ra ghế, ngẩng đầu lên, giơ tay bưng mắt: “Mê, muốn giải thật quá khó.”
Anh ấy nói: “Em nói đúng, Alan. Chỗ này là đơn vị bí mật trực thuộc cơ quan tình báo, nội bộ chúng tôi gọi là Học viện mật mã, với bên ngoài thường là Hội nghiên cứu golf và cờ vua. Ý đồ của Đức rất khó nắm bắt, để tránh thảm kịch chiến tranh, có một số mật mã quan trọng chúng tôi phải giải cho ra. Ba Lan thu được máy mã hóa của Đức, Nga chặn được một số bản mật mã cũ của chúng, nhưng bọn họ đều chịu thua. Giờ máy mã hóa “Mê” và bản phục chế những mật mã cũ đó đã được chuyển về đây, nước Anh không thể bỏ qua cơ hội này. Đúng là chúng tôi đang rất thiếu nhân tài.”
Thế nên việc Andemund mới đến Cambridge dạy học là được sắp đặt, để chọn lựa chuyên viên giải mã ưu tú nhất cho MI-6. Anh ấy đã chọn bằng hai cách, một là ba người đứng đầu kỳ thi, hai là người phát hiện ra cách liên lạc anh ấy cài vào đề bài.
Tôi thi đương nhiên là ổn, coi bộ Andemund bị tôi lẵng nhẵng chạy theo mãi phát chán, thành ra cho luôn 0 điểm chuyên cần, ai biết đâu tôi vẫn đuổi được đến đây.
Giờ này có về cũng chẳng kịp, Annie xếp cho tôi một phòng nghỉ qua đêm. Hôm sau Andemund đích thân lái xe đưa tôi về trường, một chiếc xe thân dài màu đen hết sức xa xỉ. Tôi không biết đây là xe gì, chỉ nhớ hồi đó xe riêng có rèm che không nhiều lắm, đi ngoài đường thì hết sức bắt mắt, làm tôi tự dưng tưởng tượng rằng chúng tôi đang cùng đi hóng gió.
Đến Cambridge, tự dưng anh ấy bảo, Alan, chuyện nói hôm qua phải quên hết đi. Coi như em chưa từng nghe gì cả.
Andemund đậu xe dưới ký túc của tôi, tôi xuống xe rồi, gõ gõ cửa kính cúi xuống bảo: “Andemund, em yêu anh, em nói nghiêm túc đấy. Nếu “Mê” thực sự khó vậy, em sẵn sàng giúp anh một tay.”
Anh ấy nheo mắt cười, đột nhiên mở cửa bên kia, xuống xe, đi vòng đầu xe đến chỗ tôi. Tôi còn chưa kịp phản ứng, đã bị ảnh đẩy ngã lên cửa xe.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook