[Đạo Mộ Bút Ký] Lão Cửu Môn
-
Chương 22: Vô cực bảo tháp
Chuyển ngữ: Earl Grey
Một đêm này không ai được ngủ ngon, nhưng cả đoàn người đều đã quen hành tẩu nơi hoang sơn dã lĩnh nên cũng không gặp phải chuyện gì. Làng người Động rất bé, Trương Lão Quán không dám vào làng mà đi vòng qua cổng làng, tiến vào khu vực ruộng bậc thang. Ở Tương Tây ruộng bậc thang trải dài hàng vạn mẫu mênh mông bất tận, thỉnh thoảng lại lác đác vài nấm mồ, vài mảnh rừng hoang, rất thích hợp để ẩn náu.
Riêng Tề Thiết Chủy và viên sĩ quan phụ tá cứ thế đường hoàng mà vào làng, đến từ đường của làng còn mượn tạm cái gáo bầu của người đàn bà đang múc nước ven giếng gần đó, rửa mặt mũi chân tay một lát, toàn thân cũng tỉnh táo hẳn lên. Ngẩng đầu nhìn ánh nắng rạng rỡ, Tề Thiết Chủy quan sát thế núi xung quanh, bấm ngón tay tính một quẻ, chọn một hướng rồi xuất phát.
Trương Khải Sơn không có ở đây, viên sĩ quan phụ tá mới phát hiện ánh mắt Tề Thiết Chủy đã thâm trầm hẳn xuống, lời cũng ít hơn, trông dáng vẻ ấy thế mà lại thêm đến mấy phần thanh cao thoát tục. Không khỏi lấy làm kinh ngạc: “Bát gia, tổ sư gia nhà ngài nhập lên người ngài rồi hay sao đây. Trông đến là tiên phong đạo cốt, giá mà lúc trước cũng thế này thì bây giờ cần gì phải tiên nhân độc hành chứ?”
Tề Thiết Chủy cũng không để bụng, lẳng lặng bảo: “Phật Gia ở đây, Phật Gia kiểm soát tình hình, tôi đây chỉ cần gióng trống khua chiêng chạy theo là được rồi. Phật Gia không ở đây, trong số chúng ta nhất định phải có một người kiểm soát được tình hình chứ.” Nói đoạn khẽ mỉm cười, như thể ý nói chẳng lẽ người đó lại là cậu? Viên sĩ quan cũng mỉm cười, biết rõ Cửu Môn lão Bát vốn chẳng phải một lão thầy bói quèn, bèn kéo vành mũ xuống, cúi đầu đáp: “Vâng, Bát gia, có việc xin cứ sai bảo.”
Hai người từ cổng làng đi men theo bờ ruộng, đến một đoạn sườn núi cao cao, nhìn xuống hẻm núi phía dưới cùng trạm dịch cheo leo trên vách đá dựng đứng ở đối diện, suốt dọc đường, Tề Thiết Chủy trông có vẻ thờ ơ, nhưng kỳ thực đều đã quan sát hết một lượt tất cả những gì có thể nhìn thấy rồi.
Sau khi đứng vững, vẻ mặt của hắn có chút không vui. Viên sĩ quan phụ tá hỏi sao thế, hắn trầm ngâm trong chốc lát rồi mới nói: “Cả cái làng Động bé tẹo này, cùng lắm cũng chỉ một hai trăm người, thế mà đã có đến sáu bảy ngôi nhà có ô cửa dán giấy trắng, chỉ e nỗi lo của Phật Gia thành sự thực rồi. Có mấy ô cửa dán giấy trắng đã lâu, xem mức độ phai màu thì ít nhất cũng phải nửa năm gì đó, nếu trong làng đã bắt đầu có người chết từ lúc ấy, vậy đến giờ có lẽ dịch bệnh đã truyền ra ngoài rồi.”
Nói đoán, hắn chỉ tay về phía xa xa đằng sau những thửa ruộng bậc thang, cách đó khoảng một dặm là một khu rừng hoang, nơi đó có một đỉnh tháp nhô hẳn lên khỏi những tán cây. “Cậu xem đằng kia có cái gì kỳ quái?”
Viên sĩ quan phụ tá nheo mắt nhìn, rồi mới lập tức hiểu ra, đó là đỉnh của một tòa tháp cổ, cũng phải hít sâu vài hơi. Ở nơi này sao lại có tháp Phật chứ.
“Hay là để tôi đi hỏi xem sao? Dù sao ở quanh đây cũng có người Hán, cũng có thể là có tăng lữ vào núi xây chùa chẳng hạn.” Viên sĩ quan phụ tá nói, Tề Thiết Chủy lắc đầu: “Nơi này từ xưa đã thịnh hành Nhất Quán Đạo(*), đó không phải là tháp Phật, mà là tháp Vô cực, trong khu rừng kia có một Đạo quán. Cậu xem, đỉnh tháp này không giống những tháp Phật mà chúng ta từng biết.”
Chẳng mấy khi được nhìn thấy Vô cực tháp bao giờ, viên sĩ quan phụ tá cũng nửa tin nửa ngờ. Tề Thiết Chủy nói xong lại có hơi do dự, chần chừ mãi một lúc, mới thở dài bảo: “Ta học nghệ không tinh, nếu lỡ có phạm phải mệnh số của cậu, cậu đừng trách tôi. Vị trí của Đạo quán này rất không ổn, rất không ổn, lát nữa chắc sẽ có chuyện đây.”
Viên sĩ quan phụ tá cười nói: “Bát gia cứ tự giữ cho thân mình bình an là được rồi, tôi đây sớm hay muộn cũng theo Phật Gia chết trên chiến trường.” Thế là, hai người đem buộc lừa buộc ngựa vào một bên, rồi đi bộ qua thửa ruộng hoang. Chỉ trong khoảng thời gian hai ván Mã điếu, hai người đã dần dần tiến vào phạm vi khu rừng hoang. Vừa đến gần đã thấy sâu trong rừng quả nhiên có một đống đổ nát, đó là một Đạo quán bỏ hoang. Đi sâu vào bên trong, có cả thay ba gian điện thờ, mái cong ngói lợp đều tan hoang hết một nửa. Toàn bộ tường vây nơi cổng lớn đều đổ sụp gần hết, chỉ còn lại mỗi cái nền.
Tề Thiết Chủy bước vào, đến trước gian đại điện, bức hoành phi đã biến đâu mất, có lẽ nằm mục rữa ở nơi này suốt gần trăm năm, toàn bộ số tượng Phật trong các gian thờ đều đã không còn nữa rồi, chỉ còn đất đá ngói vụn và lá rụng đầy đất. Viên sĩ quan phụ tá muốn vào gian trong, Tề Thiết Chủy lắc đầu, chỉ vào sân sau gian đại điện um tùm đầy cỏ dại, chính là tòa Vô cực tháp nọ. Đoạn lấy la bàn ra, nói với viên sĩ quan phụ tá. “Trong vòng chín bước quanh đây tất có Tích Tà.”
Tích Tà là một loại thần thú thời thượng cổ, có người cho rằng nó là một dạng biến tướng của con Cùng Kỳ. Viên sĩ quan phụ tá đi vòng qua đại điện, vào trong sân sau tìm kiếm một lượt, quả nhiên trên một tảng đá xanh bên cạnh tháp đá có chạm trổ hình Tích Tà.
“Theo hướng móng trước của Tích Tà, đi năm bước, nhất định có giếng lấp.” Tề Thiết Chủy nói tiếp. Viên sĩ quan phụ tá làm theo, tiến lên năm bước, thấy một phiến đá xanh, hai người cùng hợp sức nâng phiến đá lên, quả nhiên tìm thấy một miệng giếng được giấu kín ở đó.
“Bát gia đúng là danh bất hư truyền.” Viên sĩ quan lẩm bẩm. Đoạn anh ta cúi sát lại gần miệng giếng để quan sát bên dưới, dưới giếng sâu hoắm, không thấy đáy. Sắc mặt Tề Thiết Chủy bỗng trở nên rất khó coi.
“Sao vậy?” Viên sĩ quan phụ tá hỏi. Tề Thiết Chủy nói: “Sao miệng giếng lại tròn? Cùng Kỳ, Cùng Kỳ thì phải là vuông chứ, không đúng rồi. Ta, ta học nghệ không tinh.” Nói rồi lập tức bấm ngón tay tính toán. Viên sĩ quan phụ tá ngơ ngác không hiểu gì, bèn quay lại móc ống đánh lửa ra, nhưng vừa mới quay đầu, bỗng cảm thấy từ dưới giếng có gió thốc lên.
Gió rất lạnh, anh ta hơi giật mình, nghĩ thầm chẳng lẽ dưới này chính là chỗ đường ray, vừa định nhìn xuống xem thử, thì gần như là trong nháy mắt, một bàn tay người đầy lông vàng đột ngột thò lên từ dưới giếng, chộp ngay lấy cổ áo viên sĩ quan.
Tề Thiết Chủy giật mình lùi phắt ra sau một bước, la bàn trong tay rơi tuột mất. Loáng cái đã thấy viên sĩ quan bị kéo thụt xuống, hắn đương nhiên không ngờ lại gặp phải tình huống này, chẳng kịp hét ầm lên được một tiếng.
Ngay lập tức, từ dưới giếng vọng lên tiếng pạc hoọc nổ đùng đùng. Tề Thiết Chủy hít sâu một hơi, bấm ngón tay tính xong, hữu kinh vô hiểm, bèn chửi mắng một tiếng, rồi lập tức nhảy xuống theo.
Giếng sâu khoảng năm trượng, rơi xuống cực nhanh, loáng cái đã tùm xuống nước. Nước giếng bốc mùi tanh hôi của lá cây thối nát, Tề Thiết Chủy vùng vẫy ngoi lên. Hóa ra bên cạnh đó còn có một bậc thang đá từ dưới nước kéo dài lên trên. Hắn vừa trèo lên bậc thềm, đã bị người ta xách hẳn lên trên. Thấy viên sĩ quan phụ tá đã cởi trần, toàn thân đầy máu, không biết là do anh ta bị thương hay là máu từ thứ đã tấn công anh ta nữa.
“Nó đâu?” Thấy viên sĩ quan phụ tá không sao, Tề Thiết Chủy thở phào nhẹ nhõm hỏi. Viên sĩ quan toàn thân đỏ lựng, vừa đánh lửa, chắn phía trước bảo vệ hắn. Bốn bề vừa sáng bừng lên, cả hai người liền sững sờ. Trước mặt bọn họ là một căn phòng đá bỏ hoang, bên trong phòng đá đó đầy tơ trùng kết thành mạng, phủ khắp trên tường dưới đất. Lẫn trong các mạng lưới tơ còn nhìn thấy từng cái vại đất. Trên vại đất dán đầy bùa chú, dán từng lớp từng lớp, dày như cái chăn, lớp trong cùng đã rữa nát thành bụi hết, lớp ngoài cùng có có thể nhìn sơ sơ ra được chữ gì.
Tề Thiết Chủy nhìn khắp xung quanh, không thấy chủ nhân bàn tay kia đâu. Viên sĩ quan phụ tá hỏi: “Miệng giếng tròn là có ý gì?” Tề Thiết Chủy đáp: “Hình vuông chứng tỏ bên dưới áp thi, hình tròn chứng tỏ bên dưới áp yêu. Bàn tay vừa rồi mọc đầy lông vàng, chẳng lẽ là con Hoàng đại tiên lúc trước?”
“Nếu Hoàng tiên muốn giúp chúng ta, sao lại kéo tôi xuống đây làm gì?” Viên sĩ quan phụ tá hỏi. Tề Thiết Chủy lắc đầu, hắn nhìn vại đất, lớp bùa chú, rồi lại ngồi xổm xuống quan sát kĩ lưỡng, bấy giờ mới lạnh cả người mà nói: “Thì ra là thế.”
“Sao vậy?”
“Lũ sâu này không phải là yếu tố mấu chốt để hại người. Lũ sâu được nuôi ở đây, là để che giấu một thứ khác.”
——————————
(*) Nhất Quán Đạo: xuất phát từ một câu của Khổng Tử trong Luận Ngữ “Ngô đạo nhất dĩ quán chi.”, về sau do nhiều nguyên nhân, phát triển thành một loại tôn giáo, hấp thu nhiều màu sắc của Nho giáo, Đạo giáo và nhiều loại tôn giáo khác. Hiện nay chủ yếu hưng thịnh ở Đài Loan, Hồng Kông và nước ngoài.
Một đêm này không ai được ngủ ngon, nhưng cả đoàn người đều đã quen hành tẩu nơi hoang sơn dã lĩnh nên cũng không gặp phải chuyện gì. Làng người Động rất bé, Trương Lão Quán không dám vào làng mà đi vòng qua cổng làng, tiến vào khu vực ruộng bậc thang. Ở Tương Tây ruộng bậc thang trải dài hàng vạn mẫu mênh mông bất tận, thỉnh thoảng lại lác đác vài nấm mồ, vài mảnh rừng hoang, rất thích hợp để ẩn náu.
Riêng Tề Thiết Chủy và viên sĩ quan phụ tá cứ thế đường hoàng mà vào làng, đến từ đường của làng còn mượn tạm cái gáo bầu của người đàn bà đang múc nước ven giếng gần đó, rửa mặt mũi chân tay một lát, toàn thân cũng tỉnh táo hẳn lên. Ngẩng đầu nhìn ánh nắng rạng rỡ, Tề Thiết Chủy quan sát thế núi xung quanh, bấm ngón tay tính một quẻ, chọn một hướng rồi xuất phát.
Trương Khải Sơn không có ở đây, viên sĩ quan phụ tá mới phát hiện ánh mắt Tề Thiết Chủy đã thâm trầm hẳn xuống, lời cũng ít hơn, trông dáng vẻ ấy thế mà lại thêm đến mấy phần thanh cao thoát tục. Không khỏi lấy làm kinh ngạc: “Bát gia, tổ sư gia nhà ngài nhập lên người ngài rồi hay sao đây. Trông đến là tiên phong đạo cốt, giá mà lúc trước cũng thế này thì bây giờ cần gì phải tiên nhân độc hành chứ?”
Tề Thiết Chủy cũng không để bụng, lẳng lặng bảo: “Phật Gia ở đây, Phật Gia kiểm soát tình hình, tôi đây chỉ cần gióng trống khua chiêng chạy theo là được rồi. Phật Gia không ở đây, trong số chúng ta nhất định phải có một người kiểm soát được tình hình chứ.” Nói đoạn khẽ mỉm cười, như thể ý nói chẳng lẽ người đó lại là cậu? Viên sĩ quan cũng mỉm cười, biết rõ Cửu Môn lão Bát vốn chẳng phải một lão thầy bói quèn, bèn kéo vành mũ xuống, cúi đầu đáp: “Vâng, Bát gia, có việc xin cứ sai bảo.”
Hai người từ cổng làng đi men theo bờ ruộng, đến một đoạn sườn núi cao cao, nhìn xuống hẻm núi phía dưới cùng trạm dịch cheo leo trên vách đá dựng đứng ở đối diện, suốt dọc đường, Tề Thiết Chủy trông có vẻ thờ ơ, nhưng kỳ thực đều đã quan sát hết một lượt tất cả những gì có thể nhìn thấy rồi.
Sau khi đứng vững, vẻ mặt của hắn có chút không vui. Viên sĩ quan phụ tá hỏi sao thế, hắn trầm ngâm trong chốc lát rồi mới nói: “Cả cái làng Động bé tẹo này, cùng lắm cũng chỉ một hai trăm người, thế mà đã có đến sáu bảy ngôi nhà có ô cửa dán giấy trắng, chỉ e nỗi lo của Phật Gia thành sự thực rồi. Có mấy ô cửa dán giấy trắng đã lâu, xem mức độ phai màu thì ít nhất cũng phải nửa năm gì đó, nếu trong làng đã bắt đầu có người chết từ lúc ấy, vậy đến giờ có lẽ dịch bệnh đã truyền ra ngoài rồi.”
Nói đoán, hắn chỉ tay về phía xa xa đằng sau những thửa ruộng bậc thang, cách đó khoảng một dặm là một khu rừng hoang, nơi đó có một đỉnh tháp nhô hẳn lên khỏi những tán cây. “Cậu xem đằng kia có cái gì kỳ quái?”
Viên sĩ quan phụ tá nheo mắt nhìn, rồi mới lập tức hiểu ra, đó là đỉnh của một tòa tháp cổ, cũng phải hít sâu vài hơi. Ở nơi này sao lại có tháp Phật chứ.
“Hay là để tôi đi hỏi xem sao? Dù sao ở quanh đây cũng có người Hán, cũng có thể là có tăng lữ vào núi xây chùa chẳng hạn.” Viên sĩ quan phụ tá nói, Tề Thiết Chủy lắc đầu: “Nơi này từ xưa đã thịnh hành Nhất Quán Đạo(*), đó không phải là tháp Phật, mà là tháp Vô cực, trong khu rừng kia có một Đạo quán. Cậu xem, đỉnh tháp này không giống những tháp Phật mà chúng ta từng biết.”
Chẳng mấy khi được nhìn thấy Vô cực tháp bao giờ, viên sĩ quan phụ tá cũng nửa tin nửa ngờ. Tề Thiết Chủy nói xong lại có hơi do dự, chần chừ mãi một lúc, mới thở dài bảo: “Ta học nghệ không tinh, nếu lỡ có phạm phải mệnh số của cậu, cậu đừng trách tôi. Vị trí của Đạo quán này rất không ổn, rất không ổn, lát nữa chắc sẽ có chuyện đây.”
Viên sĩ quan phụ tá cười nói: “Bát gia cứ tự giữ cho thân mình bình an là được rồi, tôi đây sớm hay muộn cũng theo Phật Gia chết trên chiến trường.” Thế là, hai người đem buộc lừa buộc ngựa vào một bên, rồi đi bộ qua thửa ruộng hoang. Chỉ trong khoảng thời gian hai ván Mã điếu, hai người đã dần dần tiến vào phạm vi khu rừng hoang. Vừa đến gần đã thấy sâu trong rừng quả nhiên có một đống đổ nát, đó là một Đạo quán bỏ hoang. Đi sâu vào bên trong, có cả thay ba gian điện thờ, mái cong ngói lợp đều tan hoang hết một nửa. Toàn bộ tường vây nơi cổng lớn đều đổ sụp gần hết, chỉ còn lại mỗi cái nền.
Tề Thiết Chủy bước vào, đến trước gian đại điện, bức hoành phi đã biến đâu mất, có lẽ nằm mục rữa ở nơi này suốt gần trăm năm, toàn bộ số tượng Phật trong các gian thờ đều đã không còn nữa rồi, chỉ còn đất đá ngói vụn và lá rụng đầy đất. Viên sĩ quan phụ tá muốn vào gian trong, Tề Thiết Chủy lắc đầu, chỉ vào sân sau gian đại điện um tùm đầy cỏ dại, chính là tòa Vô cực tháp nọ. Đoạn lấy la bàn ra, nói với viên sĩ quan phụ tá. “Trong vòng chín bước quanh đây tất có Tích Tà.”
Tích Tà là một loại thần thú thời thượng cổ, có người cho rằng nó là một dạng biến tướng của con Cùng Kỳ. Viên sĩ quan phụ tá đi vòng qua đại điện, vào trong sân sau tìm kiếm một lượt, quả nhiên trên một tảng đá xanh bên cạnh tháp đá có chạm trổ hình Tích Tà.
“Theo hướng móng trước của Tích Tà, đi năm bước, nhất định có giếng lấp.” Tề Thiết Chủy nói tiếp. Viên sĩ quan phụ tá làm theo, tiến lên năm bước, thấy một phiến đá xanh, hai người cùng hợp sức nâng phiến đá lên, quả nhiên tìm thấy một miệng giếng được giấu kín ở đó.
“Bát gia đúng là danh bất hư truyền.” Viên sĩ quan lẩm bẩm. Đoạn anh ta cúi sát lại gần miệng giếng để quan sát bên dưới, dưới giếng sâu hoắm, không thấy đáy. Sắc mặt Tề Thiết Chủy bỗng trở nên rất khó coi.
“Sao vậy?” Viên sĩ quan phụ tá hỏi. Tề Thiết Chủy nói: “Sao miệng giếng lại tròn? Cùng Kỳ, Cùng Kỳ thì phải là vuông chứ, không đúng rồi. Ta, ta học nghệ không tinh.” Nói rồi lập tức bấm ngón tay tính toán. Viên sĩ quan phụ tá ngơ ngác không hiểu gì, bèn quay lại móc ống đánh lửa ra, nhưng vừa mới quay đầu, bỗng cảm thấy từ dưới giếng có gió thốc lên.
Gió rất lạnh, anh ta hơi giật mình, nghĩ thầm chẳng lẽ dưới này chính là chỗ đường ray, vừa định nhìn xuống xem thử, thì gần như là trong nháy mắt, một bàn tay người đầy lông vàng đột ngột thò lên từ dưới giếng, chộp ngay lấy cổ áo viên sĩ quan.
Tề Thiết Chủy giật mình lùi phắt ra sau một bước, la bàn trong tay rơi tuột mất. Loáng cái đã thấy viên sĩ quan bị kéo thụt xuống, hắn đương nhiên không ngờ lại gặp phải tình huống này, chẳng kịp hét ầm lên được một tiếng.
Ngay lập tức, từ dưới giếng vọng lên tiếng pạc hoọc nổ đùng đùng. Tề Thiết Chủy hít sâu một hơi, bấm ngón tay tính xong, hữu kinh vô hiểm, bèn chửi mắng một tiếng, rồi lập tức nhảy xuống theo.
Giếng sâu khoảng năm trượng, rơi xuống cực nhanh, loáng cái đã tùm xuống nước. Nước giếng bốc mùi tanh hôi của lá cây thối nát, Tề Thiết Chủy vùng vẫy ngoi lên. Hóa ra bên cạnh đó còn có một bậc thang đá từ dưới nước kéo dài lên trên. Hắn vừa trèo lên bậc thềm, đã bị người ta xách hẳn lên trên. Thấy viên sĩ quan phụ tá đã cởi trần, toàn thân đầy máu, không biết là do anh ta bị thương hay là máu từ thứ đã tấn công anh ta nữa.
“Nó đâu?” Thấy viên sĩ quan phụ tá không sao, Tề Thiết Chủy thở phào nhẹ nhõm hỏi. Viên sĩ quan toàn thân đỏ lựng, vừa đánh lửa, chắn phía trước bảo vệ hắn. Bốn bề vừa sáng bừng lên, cả hai người liền sững sờ. Trước mặt bọn họ là một căn phòng đá bỏ hoang, bên trong phòng đá đó đầy tơ trùng kết thành mạng, phủ khắp trên tường dưới đất. Lẫn trong các mạng lưới tơ còn nhìn thấy từng cái vại đất. Trên vại đất dán đầy bùa chú, dán từng lớp từng lớp, dày như cái chăn, lớp trong cùng đã rữa nát thành bụi hết, lớp ngoài cùng có có thể nhìn sơ sơ ra được chữ gì.
Tề Thiết Chủy nhìn khắp xung quanh, không thấy chủ nhân bàn tay kia đâu. Viên sĩ quan phụ tá hỏi: “Miệng giếng tròn là có ý gì?” Tề Thiết Chủy đáp: “Hình vuông chứng tỏ bên dưới áp thi, hình tròn chứng tỏ bên dưới áp yêu. Bàn tay vừa rồi mọc đầy lông vàng, chẳng lẽ là con Hoàng đại tiên lúc trước?”
“Nếu Hoàng tiên muốn giúp chúng ta, sao lại kéo tôi xuống đây làm gì?” Viên sĩ quan phụ tá hỏi. Tề Thiết Chủy lắc đầu, hắn nhìn vại đất, lớp bùa chú, rồi lại ngồi xổm xuống quan sát kĩ lưỡng, bấy giờ mới lạnh cả người mà nói: “Thì ra là thế.”
“Sao vậy?”
“Lũ sâu này không phải là yếu tố mấu chốt để hại người. Lũ sâu được nuôi ở đây, là để che giấu một thứ khác.”
——————————
(*) Nhất Quán Đạo: xuất phát từ một câu của Khổng Tử trong Luận Ngữ “Ngô đạo nhất dĩ quán chi.”, về sau do nhiều nguyên nhân, phát triển thành một loại tôn giáo, hấp thu nhiều màu sắc của Nho giáo, Đạo giáo và nhiều loại tôn giáo khác. Hiện nay chủ yếu hưng thịnh ở Đài Loan, Hồng Kông và nước ngoài.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook